Chương 6 THƠM HÔI CHUNG SỌT-KHÔNG AI CHỊU AI
Lưu Dung lưng gù nhưng lòng ngay thẳng, gây cho Hòa Thân không ít rắc rối.
- Kỷ Vân đi cùng Hoàng thượng đến phủ Hòa Thân, nhân dịp sinh nhật phu nhân Hòa Thân. Kỷ Hiểu Lam vâng lệnh vua làm thơ rằng: “Người phụ nữ này không phải là người...
Trong lúc lòng còn vấn vương với không khí vui chơi ở đường phố mua bán trong vườn Viên Minh, Càn Long nhận được một tin khẩn cấp chấn động cả triều đình. Người Hồi và người Tát Lạp ở Cam Túc nổi loạn, do Tô Tứ Thập Tam và Hàn Nhị đứng đầu. Càn Long lệnh ngay cho Tổng đốc Lặc Nhĩ Cẩn đi dẹp loạn.
Ở Cam Túc và Thanh Hải, thế lực của các giáo trưởng đạo I-xlam không ngừng phát triển, và dần dần trở thành những chúa đất đầy quyền lực. Họ sống nhờ địa tô, bóc lột tàn khốc giáo dân, làm cho địa vị khác nhau giữa giáo trưởng và giáo dân trở thành sự đối lập giàu nghèo một trời một vực. Trước tình hình đó, Càn Long năm thứ hai mươi sáu, Mã Minh Tân, người ở An Định, Cam Túc đứng ra lập tân giáo, chống lại chế đệ hà khắc của cựu giáo, được người nghèo thuộc dân Hồi và Tát Lạp hưởng ứng nhiệt liệt, tín đồ tân giáo tăng lên rất nhanh, ảnh hưởng của tân giáo lan nhanh đến hai tỉnh Thanh Hải và Cam Túc. Các nhà giàu có thuộc cựu giáo kịch liệt chống lại, dựa thế triều Thanh áp chế tân giáo, triều đình nhà Thanh cũng ra sức ủng hộ cựu giáo, áp chế tân giáo. Càn Long năm thứ bốn mươi sáu, giáo chủ tân giáo Mã Minh Tân bị bắt, khiến người Hồi và người Tát Lạp càng phẫn nộ. Họ cử Tô Tứ Thập Tam và Hàn Nhị làm thủ lĩnh, dựng cờ chống Thanh tại Tuần Hóa Sảnh, giết chết giáo trưởng cựu giáo Hàn Tam Thập Bát, tấn công vào người của cựu giáo, chiếm cứ Hà Châu.
Tổng đốc Lặc Nhĩ Cẩn vội vàng điều quân bao vây quân nổi loạn của tân giáo, nhưng quân của tân giáo đã chiếm Hoa Lâm Sơn, nhiều lần đánh lui quân Thanh. Tổng đốc Lặc Nhĩ Cẩn đành bó tay, quân tân giáo lại tiến công khắp nơi, bao vây Lan Châu, chiếm cứ cửa ải phía tây Lan Châu.
Tin khẩn cấp được báo về kinh thành, Càn Long triệu tập các đại thần văn võ đến điện Kim Loan. Càn Long ngồi trên bệ ngọc truyền:
- Tổng đốc Lặc Nhĩ Cẩn bất tài, để giặc ngày càng mạnh, triệu ngay về kinh, cách chức và nghiêm trị.
Càn Long từ từ đứng dậy, vẻ mặt tự nhiên, nhưng rất uy nghiêm, lướt nhìn các quan văn võ, nói tiếp:
- Ngạch Phù Lạp Nhĩ Vương Tế!
- Có thần!
- Trẫm cấp cho khanh hai ngàn lính tinh nhuệ cùng vũ khí đi trước. Ngay hôm nay lên đường.
- Vâng lệnh!
- Hải Lan Tế, Ngạch Lâm Đặc?
- Có thần!
- Lệnh cho hai khanh làm hộ quân, cùng đi với Ngạch Phù, hãy đồng tâm hiệp lực, sớm dẹp xong quân phiến loạn.
- Vâng lệnh!
- Hòa Thân!
- Có nô tài.
- Trước đây khanh thay Trẫm đi tuần tra Thiểm - Cam, hiểu biết nhiều tình hình ở hai vùng đó, lệnh cho khanh làm Khâm sai, ban cho khanh thanh ngự kiếm, đôn đốc việc quân dẹp loạn, ai trễ nải việc quân nghiêm trị theo quân pháp!
- Vâng lệnh!
- Các khanh hãy đi đi!
- Vâng lệnh!
Mấy người vừa quay mình đi, Càn Long bỗng gọi lại:
- Hãy khoan! Truyền gấp cho đại học sĩ A Quế đến ngay Cam Túc thống lĩnh quân đội. Không được chậm trễ, Trẫm sẽ cử người thay thế A Quế lo công trình Hà Vụ.
Khi Càn Long nói đến A Quế, Hòa Thân giật mình, Hải Lan Tế mừng rỡ. Càn Long dặn thêm:
- Thượng thư Hòa Thân! Lệnh cho khanh hiệp trợ với A Quế, đợi khi A Quế đến nơi, khanh trao thanh bảo kiếm này cho A Quế.
- Nô tài tuân lệnh.
- Các khanh phải đồng tâm hiệp lực, ai trái lệnh, Trẫm sẽ nghiêm trị. Các ngươi đi đi.
Nghĩ đến A Quế, Hòa Thân lo buồn, vừa rồi trước bá quan văn võ trong triều, Càn Long chỉ định Hòa Thân đôn đốc việc quân, sau lại giao cho A Quế, như vậy Càn Long vẫn coi trọng A Quế hơn Hòa Thân. Hòa Thân cảm thấy đắng cay.
A Quế, tự là Quảng Đình, họ Oa Chương Giai, con của đại học sĩ A Khắc Đôn, xuất thân gia đình trâm anh thế tộc, sau khi thi đậu nhận chức Đại lý thị thừa, rồi làm Ngoại lang sử bộ viên. Sau đó theo Triệu Huệ đi bình định Chuẩn Ca Nhĩ, lập đồn điền xây dựng cơ sở ổn định được miền Tây, xoay chuyển được thế thua ở Miến Điện, làm yên lòng An Nam, bình định Kim Xuyên, nhiều lần có ảnh trong số ảnh các công thần ở Tử Quang Các, công lao rất lớn, ngoài Phó Hằng ra, không ai sánh nổi, hiện làm Võ Anh Điện đại học sĩ, đứng đầu quân cơ, đứng đầu hàng ngũ các quan trong triều.
Hòa Thân nghĩ bụng, người có công lớn địa vị cao, dưới một người trên vạn người, ta cũng chẳng kém gì ngươi, nhưng ngươi ngạo mạn với ta như vậy. Cùng làm trong Cục quân cơ, trước nay ngươi không đếm xỉa đến ta. Mỗi lần gặp ngươi, lúc nào ta cũng chủ động chào hỏi ngươi, ngươi chỉ gật đầu lấy lệ, thậm chí có lần từ xa ta đã chắp tay vái chào mà ngươi chỉ hừ một tiếng. Trong triều, trong điện Kim Loan, lúc nào ngươi cũng đứng cách xa ta những hơn hai mươi bước, quả thật là ngạo mạn! Nghĩ đến A Quế, Hòa Thân lúc nào cũng cảm thấy mình như cọng cỏ, A Quế như tảng đá lù lù trước mặt. Hòa Thân cho rằng: Hoàng thượng xem ta không như A Quế, để hắn thấy triều đình Đại Thanh này không chỉ có mỗi mình hắn biết cầm quân đánh giặc. Do đó, Hòa Thân đốc thúc đại quân tiến nhanh, sợ A Quế giành mất công lao.
Quân đến bên thành Lan Châu, Hòa Thân lệnh chém đầu Mã Minh Tân, treo đầu trên tường thành Lan Châu, sau đó tập hợp quân Tạng, quân Mông và quân của mình mang theo cả thảy hơn một vạn người. Được biết giặc chỉ có khoảng ba ngàn, Hòa Thân cho chỉ là bọn giặc cỏ, làm sao địch nổi quân tinh nhuệ của mình, số lượng lại đông gấp mấy lần, quét sạch lũ giặc này như trở bàn tay. Nghĩ rằng Hoàng thượng huy động quân lính đông là quá thận trọng, Tổng đốc Lặc Nhĩ Cẩn quá bất tài. Ngày mai, ta ra quân, không để lão A Quế kia cướp công.
Hôm sau, ngồi trong trướng trung quân, tụ tập các tướng tá, lệnh:
- Hải Lan Tế!
- Có mạc tướng!
- Lệnh cho ngươi dẫn hai ngàn người đi trước, hành quân cấp tốc.
- Đại quân của ta mới đến, chưa kịp nghỉ ngơi chỉnh đốn, liên tiếp giữ thành, chiến đấu vất vả liền mấy ngày, binh sĩ mỏi mệt, làm sao tấn công được; hơn nữa, quân địch ẩn trốn trong rừng sâu, tình hình quân địch ta cũng chưa rõ, không thể mạo hiểm tiến công.
- Giặc chỉ có ba ngàn người, ta có đến vạn quân, đều là quân tinh nhuệ, vũ khí đầy đủ, đại quân ta đến đâu cũng như gió lốc quét sạch lá rụng.
- Mạc tướng khó tuân, xin đợi A Quế đại nhân đến.
Hòa Thân tức giận, quát:
- Có thượng phương bảo kiếm ở đây, ai chống lệnh, chém!
Hải Lan Tế chỉ còn biết tuân lệnh mà đi. Hòa Thân dẫn đại quân theo sau.
Quân phiến loạn tân giáo tuy chưa đến ba ngàn người, nhưng thông thạo từng gốc cây ngọn cỏ, từng viên đá, từng hang của rừng núi Hoa Lâm Sơn, khắp núi rừng đều là cạm bẫy, ai bước vào thì cung nỏ đồng loạt bắn ra. Anh muốn tìm họ, cũng chẳng biết họ ở đâu. Hải Lan Tế dẫn quân tiến lên, vừa được năm dặm, đến trước một sườn núi, cho quân leo lên được nửa sườn núi, bỗng nhiên xuất hiện mấy trăm quân giặc, lấp lánh gươm dao, tên bắn ra như mưa, trong chốc lát quân Thanh bị tử thương mấy trăm người. Hải Lan Tế vội ra lệnh rút lui xuống núi, bao vây bốn mặt, dùng đại bác bắn lên núi, những cột khói trắng tung bay trên không trung. Tiếng pháo vừa đứt, Hải Lan Tế một người một ngựa xông lên sườn núi, nhưng chẳng thấy một tên giặc nào? Liền ra lệnh ngừng tiến quân, chờ trung quân đến. Hòa Thân vừa thấy Hải Lan Tế đã cả giận quát:
- Không thấy tên giặc nào lại để cho mấy trăm người anh em tử thương, quan khâm sai này được phép chém không truy cứu, ta hỏi ngươi vì sao không tiến quân?
- Địch ẩn, ta lộ, sao có thể tiến quân mạo hiểm!
- Ai cũng nói ngươi là dũng tướng số một của triều đình, sao nhát gan như vậy?
- Ngài chỉ bàn việc quân trên giấy tờ, không được coi thường người khác.
- Ngươi hãy xem, ta sẽ quét sạch bọn quân phiến loạn. Nói xong, ra lệnh ngay cho đại quân tiến lên.
Đại quân tiến vào một khe núi. Khe núi vừa dài, vừa hẹp. Tổng binh Đồ Khâm Bảo nói:
- Địa thế nơi đây như thế này lại không có một tên địch, chắc có mai phục, không nên tiến quân, nên chiếm lĩnh trước hai bên sườn núi.
- Bọn giặc cỏ tép riu đó, không thể có mai phục, làm gì được ta. Hòa Thân nói và lệnh cho quân tiến lên.
Đại quân vừa mới tiến lên. Bỗng, từ hai bên sườn núi lăn xuống những bó lửa, trong phút chốc lửa cháy tràn ngập thung lũng, khói đen mù mịt, quân Thanh kêu la ầm ĩ, tranh nhau rút lui, nào ngờ phía sau là hào ngầm vừa sâu vừa rộng mấy trượng, quân Thanh không đường rút lui, Hòa Thân như kiến bò trên chảo nóng, đầu óc choáng váng, không biết đi theo đường nào. Đồ Khâm Bảo hô to: “Tập hợp quân lại đi theo tôi”, nói xong cầm dáo xông lên đỉnh núi, trên núi tên bắn ra như mưa. Đồ Khâm Bảo bị trúng mấy mũi tên, vẫn cố hô to: “Lên núi thì sống, lên không được thì chết, xông lên!”. Gươm dáo lấp lánh, tiến lên đỉnh núi, mấy tên giặc vừa xông đến đã bị giết ngay. Đổ Khâm Bảo vừa đạp chân lên đỉnh núi, bỗng bị dây thừng quấn chặt hai chân kéo ngã, mấy ngọn dáo đâm thủng người, máu chảy đầm đìa. Từ trên đỉnh núi, những viên đá thi nhau lăn xuống xua những tên lính Thanh xông lên tới đỉnh núi phải lùi lại. Trong lúc nguy cấp đó, bỗng có một hảo hán dẫn mấy mươi người từ đỉnh núi băng đến, vung dao đâm chém, quân phiến loạn tan tác. Một lát sau, từ đỉnh núi xuất hiện một đại đội người ngựa, quân giặc tan vỡ. Hòa Thân thấy có quân Thanh trên đỉnh núi, vội vàng leo lên, lên đến đỉnh núi, nhìn thấy Hải Lan Tế máu me đầy người. Hải Lan Tế thấy Hòa Thân mặt mày đen thủi, thân người tiều tụy.
Hôm sau, Hòa Thân ngồi trong trướng trung quân, nói:
- Các lộ quân của ta không thể tiến quân theo kiểu năm ngón tay chĩa ra, mà phải nắm thành một quả đấm, từ từ tiến quân.
Chẳng ai nghe ông ta. Hòa Thân gọi Hải Lan Tế, Hải Lan Tế không đáp, gọi Ngạch Lâm Đặc, Ngạch Lâm Đặc chẳng thưa. Ngạch Phò Lạp Nhĩ Vương Tế nói:
- Các lộ quân nên chọn nơi có địa hình tốt, cắm trại nghỉ ngơi và chỉnh đốn lại đội ngũ, canh gác nghiêm ngặt, đề phòng bọn giặc tập kích, quyết không được coi thường, ai lơ là sẽ bị chém, việc tiến quân sẽ bàn sau.
Các tướng đều vâng lệnh.
Hòa Thân nghĩ bụng, đại quân thất bại, nếu ta không trình báo, tất nhiên có người khác trình báo. Hòa Thân viết một bản tấu, gửi gấp về Bắc Kinh, nói Hải Lan Tế không tuân lệnh nên khiến đại quân thất bại. Hai ngày sau, được tin A Quế đến. Hòa Thân đi đón. A Quế hỏi Hòa Thân:
- Tình hình chiến sự thế nào?
- Quân ta thất trận.
- Sao lại cắm trại thế này mà không nhanh chóng tấn công?
- Các tướng đều không nghe lệnh chỉ huy, hành động tuỳ tiện, đó là nguyên nhân bại trận.
- Trong quân ai không nghe lệnh, chém không tha.
Các tướng ngang ngược, cùng nhau xin chờ đợi, thăm dò tình hình.
- Ai không tuân lệnh cứ chém không bàn.
Sáng hôm sau, A Quế truyền lệnh các tướng tụ tập đông đủ. Các tướng sắp hàng đứng nghiêm dọc hai bên. A Quế truyền:
- Hải Lan Tế! Lệnh cho ngươi cầm cánh quân bên phải trung quân, vừa thăm dò vừa tiến lên.
- Mạc tướng tuân lệnh!
- Ngạch Lâm Đặc! Lệnh cho ngươi cầm cánh quân bên tả trung quân, mở đường tiến lên.
- Mạc tướng tuân lệnh!
- Tất cả số còn lại theo trung quân của bản soái tiến lên công kích. Mỗi cánh quân cách nhau năm dặm tiến lên theo hình chữ phẩm, tiếp ứng lẫn nhau, liên lạc với nhau, tất cả hiểu rõ chưa?
- Rõ! Các tướng đồng thanh đáp.
A Quế lệnh:
- Ngạch Phù hãy dẫn một ngàn người ngựa, tập trung lương thảo, liên lạc trong ngoài.
- Thuộc hạ vâng lệnh.
- Nhổ trại hành quân. A Quế ra lệnh.
Hòa Thân nhục nhã xấu hổ. A Quế đập thanh thượng phương bảo kiếm lên bàn nói:
- Hòa đại nhân, các tướng không hề có chút ngang ngược, vậy thanh kiếm này nên rơi vào đầu ai?
Hòa Thân mặt tái xám, một lát sau vòng tay cúi người nói:
- Không biết sau đây quân ta nên bố trí thế nào nhỉ?
A Quế nực cười mà không thể cười được.
Đại quân hành quân cấp tốc, suốt cả ngày đến tối, ba cánh quân hợp lại, đóng doanh trại, đang đào lò làm bếp nấu cơm, bỗng A Quế ra lệnh:
- Nhanh chóng dời trại lên mảnh đất cao trên sườn núi phía tả, không được chậm trễ.
Các tướng đều nói:
- Cả ngày hành quân, người ngựa mỏi mệt, trời lại tối như mực, bếp đã chuẩn bị sẵn, sao lại rắc rối như vậy? Trên đỉnh núi cũng đã có bố trí canh gác, đại quân ở đây nhất định an toàn, chẳng có gì phải lo, hà tất phải di chuyển.
A Quế rút thanh thượng phương bảo kiếm ra, chém đứt đôi cây cột của doanh trại, cả giận nói:
- Nếu ai còn nói nữa sẽ như khúc gỗ này.
Các tướng vẫn xì xào bàn tán, miễn cưỡng tuân lệnh. Hòa Thân cười thầm, nghĩ bụng: A Quế! trước mặt ta, người làm oai quá đáng đấy, như vậy có hay cho người không?
Bất ngờ nửa đêm mưa to như trút nước. Cả vùng đóng trại trước đó bị chìm ngập dưới nước sâu gần một trượng. Hòa Thân đờ đẫn. Các tướng sĩ đều đến trướng trung quân ca ngợi A Quế tính toán như thần. A Quế chân thành,cười nói:
- Khi ta đi kiểm tra binh sĩ đào hầm làm bếp, thấy kiến dời tổ, biết trời sắp mưa; nhìn lên bầu trời thấy mây đen kéo đến, nhất định sắp có mưa to. Nơi đóng trại thấp trũng, mới buộc lòng rời trại, không cần phải bàn cãi.
Hòa Thân thấy A Quế khiêm tốn, chân thật, lòng dạ bộc trực như vậy, bất giác thở phào.
Mưa mấy ngày liền, đại quân không thể hành quân, A Quế cấp báo lên Hoàng thượng, vì sợ Càn Long bắt tội vì kéo dài cuộc hành quân. Sau đó một tuần, A Quế triệu tập các tướng nói:
- Trong núi đầy rẫy cạm bẫy, địch ẩn, ta lộ, không thể tiến công mạnh. Các ngươi phải đợi đến lúc, các hố nước bị lấp kín, các khe suối bị chặt đứt, không cho thông vào núi, xây rào lũy xung quanh, chỉ cần thủ không cần công, từ từ áp sát, không được tiến nhanh đánh thẳng, hiểu rõ chưa?
- Rõ!
A Quế lệnh cho Tuần phủ, cấm dân chúng vào núi.
Một hôm cơm trưa xong, A Quế nói:
- Hòa đại nhân, đại nhân hỏi tôi, bước tiếp theo bố trí quân thế nào. Tôi muốn đại nhân và tôi cùng đi quan sát địch tình, rồi sẽ định đoạt. Chẳng đợi Hòa Thân đáp A Quế đã dẫn ngay mười kỵ binh tiến lên trước, Hòa Thân không thể không đi theo. Mặt trời đỏ chói từ từ ngả về tây, A Quế và đoàn người đi theo đã tiến vào rừng được hai ba mươi dặm, A Quế nói: “Đợi khi chúng ta lên trên đỉnh núi này, mới nhìn thấy kỹ hơn”. Đoàn người vừa lên đến đỉnh núi, quân địch phát hiện và mấy trăm kỵ binh địch bao vây bốn mặt. A Quế ra lệnh: “Cởi nhanh áo quần, càng nhanh càng tốt, và xé rách áo quần”. Hòa Thân chẳng hiểu mô tê, cũng chỉ biết theo lệnh, cùng mọi người cởi hết áo quần, xé rách và buộc lên cây cao. “Chúng ta tiến tới doanh trại quân địch, đến quả đồi kia, không được lên tiếng, nghe khẩu lệnh của ta”. Khi đến quả đồi nọ, A Quế bảo: “Tản ra và nằm xuống, khi ta bảo hô lên, mọi người phải đồng thanh hô to”. Tất cả tản ra nằm xuống.
Lúc này màn đêm buông xuống, quân địch tiến lên đỉnh núi, nhìn thấy những mảnh áo rách lay động trước gió, giống như hình người di động hành tung bí hiểm, tưởng đó là viện binh, hoặc quân Thanh lén đánh úp doanh trại. Trong lúc chúng đang nghi hoặc, A Quế ra lệnh: “Mọi người cùng lúc thét to”. Mọi người đồng thanh thét lớn: “Giết, không để chúng thoát!”. Mấy trăm kỵ bịnh địch sợ khiếp vía, vội vàng tháo chạy. Hòa Thân lạnh toát mồ hôi, nhìn thấy A Quế, nhảy lên lưng ngựa, lệnh: “Đi nhanh!”.
Quân địch chạy được một lúc, không thấy quân Thanh đuổi theo, biết là trúng kế. Quay trở lại chỉ thấy mấy mảnh áo quần rách rưới. Về đến doanh trại báo cáo với Tô Tứ Thập Tam. Tô Tứ Thập Tam và Hàn Nhị bàn bạc: “Hôm nay quân địch quan sát doanh trại chúng ta, chúng ta bị vây khốn trong núi, lương thực thiếu chút ít không sao, nhưng không có nước tuyệt đối không được. Chúng ta không thể ngồi chờ chết, phải tìm cách quyết chiến. Ngày mai, quân Thanh sẽ tấn công ta. Chúng ta sẽ mai phục tại hẻm núi này, địch đến sẽ không đường về”. Hàn Nhị nói:
- Nếu địch không tiến vào đây thì làm thế nào?
- Chúng ta vờ thua dụ địch tiến vào đây. Tô Tứ Thập Tam đáp.
Hai ngày trôi qua, A Quế không hề động tĩnh, Hòa Thân nói:
- Hôm trước, chúng ta trinh sát doanh trại địch, thấy chúng nằm giữa thung lũng, nếu cho đại quân bao vây bốn phía, chẳng khác nào bắt cá trong chậu, sao đại nhân không xuất quân, để lỡ thời cơ?
- Đại nhân chớ nói nhiều, ta đã có cách. A Quế đáp.
Hòa Thân thầm nghĩ: Lão này rõ là sai rồi, vậy mà còn ngạo mạn, hậm hực bỏ đi.
Bỗng có tin báo, một toán người ngựa địch xuất hiện. A Quế nói:
- Tốt! Ta đang chờ chúng. Nói xong mặc giáp trụ ra trận, dẫn quân lính đuổi theo bọn địch được ba mươi dặm. Địch rút vào khe núi. A Quế cho quân tiến gấp. Hòa Thân nói:
- Địch đến khiêu chiến, chưa hao binh tổn tướng, đã vội bỏ chạy, tất có âm mưu quỷ kế, sao có thể tiến vào khe núi?
- Ta là chủ soái, đại nhân chớ nhiều lời, lệnh cho đại quân tiến vào khe núi. A Quế đáp.
- Ở đây hai bên núi cao, khe núi ở giữa, lần trước tôi đã bị thất bại, sao chủ soái không nghe lời khuyên của tôi.
- Dù có mai phục, nhưng bọn giặc cỏ đó làm gì được ta?
- Chủ soái không nên khăng khăng làm theo ý mình, để đại quân thất bại.
- Nếu Hòa đại nhân sợ, xin ở lại cửa khe núi này.
Nói xong, A Quế dẫn quân tiến lên, để lại Hòa Thân ở lại cửa khe núi.
Đến đoạn giữa khe núi, trên hai bên sườn núi bỗng xuất hiện đoàn người đông nghịt, la ó ầm ĩ vang động một góc núi. Quân địch chưa kịp bắn phá. Hai bên đỉnh núi xuất hiện vô số quân Thanh, từ trên đánh xuống. Phía dưới núi, A Quế lệnh cho quân lính không được tiến lên núi. Hai mặt sắp thành mấy hàng, phía trước đao búa, phía sau là cung tên, súng đạn, sẵn sàng chờ địch.
Tô Tứ Thập Tam thấy A Quế tiến vào khe núi, hết sức mừng, bò theo con đường bí mật ẩn dưới cỏ tranh, bỗng phát hiện phía sau có quân Thanh, biết quân Thanh đã chiếm đỉnh núi, liền dẫn tín đồ tân giáo tấn công xuống khe núi, hi vọng đánh từ trong khe núi ra cửa khe núi. Nhưng vừa xuống lòng khe thì bị tên đạn bắn ra như mưa, quân lính tân giáo không chết cũng bị thương, trước mắt không lối thoát, cùng với Tô Tứ Thập Tam liều mạng chống chọi với quân Thanh, lấy một chọi mười, cố tiến về phía trước. Cuối cùng, chỉ có hơn hai trăm người chạy thoát, để lại hơn hai ngàn xác chết nằm rải rác khắp sườn núi và khe núi, trong đó có cả Tô Tứ Thập Tam.
A Quế lệnh cho Hải Lan Tế truy kích, còn mình quay lại cửa khe núi. Ngạch Lâm Đặc nói:
- Chủ soái mưu trí thần diệu, quân ta ở phía sau núi sắp nguy khốn, nếu không có lệnh của chủ soái, làm sao giữ vững được hai đầu.
- Các tướng sĩ vất vả. Trước hết chúng ta nên cám ơn Ngạch Phù đã chuẩn bị cho chúng ta lương khô và túi nước. A Quế lên tiếng.
- Phải cám ơn dân chúng Lan Châu, chỉ trong một ngày đã chuẩn bị cho bao nhiêu là lương khô và túi nước bằng da dê. Ngạch Phù đáp.
Hòa Thân lúc đó mới hiểu ra, bất giác thở phào.
May mà A Quế, con người ngay thẳng không mưu mô thủ đoạn. Nếu không thì đời ta đi tong. Đúng lúc cuống cuồng lo sợ, bỗng có chiếu của Hoàng thượng. A Quế xem xong đưa cho Hòa Thân. Mặt Hòa Thân bỗng tái nhợt. Chiếu nói Hòa Thân dấu việc Đồ Khâm Bảo chết, vu cho Hải Lan Tế, Ngạch Lâm Đặc không tuân lệnh, đổi trắng thay đen. Chiếu còn nói, A Quế cầm quân, bố trí định đoạt như vậy là hợp lý, một mình cũng đủ dẹp giặc, Hòa Thân còn ở đó việc quân sẽ không được thống nhất, Hải Lan Tế và những người khác dưới sự chỉ huy của A Quế, Hòa Thân về kinh gấp.
- Thượng thư Hòa Thân! Lệnh cho đại nhân về kinh ngay hôm nay. A Quế ra lệnh.
- Hạ quan tuân lệnh. Hòa Thân đáp.
Nghĩa quân tân giáo bị Hải Lan Tế đuổi chạy vào một ngôi đền ở Hoa Lâm Sơn, vẫn anh dũng chống trả. Hải Lan Tế cho phóng lửa đốt đền, toàn bộ nghĩa quân hi sinh oanh liệt, không một ai đầu hàng. Mãi đến tháng tư, Càn Long năm thứ bốn mươi chín, người Hồi dưới sự lãnh đạo của A Oanh Điền Vương, phái tân giáo, tại Thạch Phong Bảo, Thông Vì, Cam Túc, nêu lên khẩu hiệu phục thù cho Mã Minh Tân và Tô Tứ Thập Tam... dựng cờ khởi nghĩa. Càn Long cử Phúc Khang An, Hải Lan Tế đi dẹp loạn. Và lệnh cho đại học sĩ A Quế dẫn hai ngàn quân tinh nhuệ, vũ khí đầy đủ đi trấn áp, dùng thủ đoạn vây hãm, cắt đứt nguồn nước, tấn công Thạch Phong Bảo. Hơn một ngàn nghĩa quân đều bị tiêu diệt.
Hòa Thân về đến Bắc Kinh, yết kiến Càn Long và tâu rằng:
- Nô tài đi đánh giặc lại cảm thấy béo ra.
- Đúng, lòng dạ khanh béo ra.
- Nô tài chỉ muốn dốc hết tài hèn của thân trâu ngựa phục vụ Hoàng thượng, nhằm báo đáp ân tri ngộ, không ngờ phụ lòng mong đợi của Hoàng thượng. Hòa Thân lại hít một hơi thở.
- Trên đường hành quân Trẫm có nhiều chiếu chỉ cho khanh nhưng đều chưa thấy tâu báo, há không biết Trẫm ở xa hàng ngàn dặm lo âu như thế nào ư? Hôm nay phải tâu hết tình hình trên đường hành quân, và những việc khanh làm để Trẫm hiểu rõ.
Hòa Thân vâng vâng, dạ dạ, vô cùng lo sợ. Càn Long nói tiếp:
- Trẫm biết giữa khanh và A Quế có mối bất hòa, lần này Trẫm chỉ định khanh trước, rồi chỉ định A Quế sau, chẳng qua vì nơi trận mạc khanh không thể bằng A Quế và cũng để cho cả hai sống hòa thuận nhau. Nhưng khanh không cam chịu.
- Nô tài hổ thẹn với Thánh thượng. Nô tài đáng chết.
- A Quế tấu báo, ở Cam Túc mưa lớn suốt cả tuần, đại quân không hành quân được, lý do như vậy đúng hay sai?
- Đúng là mưa lớn suốt mấy ngày, giặc ở trong núi, nếu tấn công thì bất lợi. Hòa Thân không dám nói sai.
Không ngờ Càn Long đứng phắt dậy, nhíu mày, bước tới mấy bước, đứng trước mặt Hòa Thân giận dữ thét to:
- Hòa Thân, tội không thể dung tha!
Hòa Thân quỳ ngay xuống đất, run rẩy tâu:
- Nô tài hoảng hốt. Nô tài không biết tội ở chỗ nào?
Càn Long tức giận:
- Khanh đã phụ lòng mong đợi của Trẫm. Cam Túc bị hạn hán mất mùa, rõ ràng là không đúng. Năm trước, Trẫm cử khanh đi điều tra xem xét, khanh đã tâu việc giám lương là có thật, không phải là tội khi quân ư?
Tim Hòa Thân như ngừng đập.
Vừa rồi, Hoàng thượng hỏi việc mưa to suốt tuần ở Cam Túc để kiểm chứng A Quế là giả, khảo sát Cam Túc là thật. Càn Long vẫn còn sáng suốt không thể bịp được. Lặc Nhĩ Cẩn năm nào cũng tâu báo hạn hán, nhưng quân tiến vào Hoa Lâm Sơn lại gặp mưa to cả tuần. Vậy đó không phải là giả thì là cái gì. Từ việc nhỏ đó, có thể hiểu được sự việc giả dối ở Cam Túc. Hoàng thượng quả là sáng suốt. Hòa Thân vẫn kèo nhèo:
- Nô tài đến Cam Túc, tới từng châu từng phủ kiểm tra kho lương, đối chiếu sổ sách. Kho lương đầy ắp… sổ sách... sổ sách... Nói đến đấy, đầu gật như giã gạo, nốt ruồi đỏ trên trán biến thành màu tím thẫm, rồi nói tiếp: - Nô tài đáng chết, bây giờ nô tài mới biết là bị lừa. Nghĩ rằng các kho lương đó chắc gì là các kho lương quyên giám thật.
- Khanh có nhận hối lộ không?
- Nô tài có nhận của Lặc Nhĩ Cẩn bốn viên ngọc xanh miền tây, nô tài nghĩ rằng các viên ngọc đó đeo lên người công chúa thì rất đẹp. Do vậy, nô tài mới nhận, hiện nay đang ở nơi công chúa. Nô tài có tội, quá ư cuồng vọng. Cam Túc đón tiếp tưng bừng, khắp nơi ca hát chào đón, quan lại toàn tỉnh kéo đến chúc tụng, nô tài nhẹ dạ cả tin, các kho lương và sổ sách đó chắc chắn là giả...
Càn Long thấy Hòa Thân như vậy, lòng không nỡ, cho đó cũng là thực tình. Hòa Thân trẻ tuổi, được Trẫm cất nhắc quá nhanh, tất kiêu ngạo, các quan lại địa phương xảo quyệt, đã làm hỏng Hòa Thân. Càn Long truyền Hòa Thân:
- Khanh đứng dậy!
- Nô tài đã phụ ân nâng đỡ của Hoàng thượng, phụ lòng trọng vọng của Hoàng thượng, nô tài xin Hoàng thượng ban cho cái chết.
- Đứng dậy, khanh định chọc tức ta ư? Càn Long mềm lòng.
- Nô tài xin Hoàng thượng cho nô tài một cơ hội, để nô tài đến Cam Túc, điều tra trừng trị bọn tiểu nhân gian tà bịp bợm đó, sau khi quay về xin Hoàng thượng ban cho cái chết.
- Khanh hãy đứng dậy.
Hòa Thân đứng dậy. Nhìn thấy dáng vẻ Hòa Thân, Càn Long thương hại nói:
- Khanh lấy đó răn mình, không được tái phạm. Công việc Cam Túc, A Quế vẫn còn ở đấy, Trẫm truyền chỉ ngay cho A Quế điều tra.
Hòa Thân nghe nói A Quế điều tra, hoảng sợ, nhưng mặt tỉnh bơ, bước tới, dìu Hoàng thượng ngồi vào ghế nhẹ nhàng đấm bóp lưng vai Hoàng thượng và nói:
- Hoàng thượng dẫu sao cũng không nên tức giận, để tránh hao tổn sức khỏe.
- Làm sao mà không giận?
Hòa Thân về nhà, bảo Lưu Toàn phi ngựa đến ngay Lan Châu.
Không bao lâu, A Quế tâu báo: cái gọi là “giám lương”, là giả dối. Càn Long cả giận, triệu tập các quan đến điện Kim Loan tuyên bố:
- Trẫm bình sinh rất ghét tham ô, Cam Túc dựng cớ thiên tai để tham ô của cứu tế, phép nước không tha. Trẫm phải nghiêm trị để răn thiên hạ, điều tra ra một giết một, điều tra ra hai giết hai, quyết không dung tha.
Các quan ai nấy đều kinh hoàng. Càn Long truyền:
- Hòa Thân! Bây giờ giáng khanh hai bậc, đợi đến khi làm rõ vụ việc, sẽ xử trí. Càn Long nói tiếp:
- Đưa Lý Thị Nghiêu trong ngục ra đây gặp Trẫm ngay.
Các quan nhìn nhau chẳng rõ mô tê. Hòa Thân đoán được tám chín phần, nghĩ bụng: Sau này nên cẩn thận hơn trước mặt Càn Long, không nên có sơ hở. Càn Long lệnh cho Lý Thị Nghiêu là người sẽ bị chém sau mùa thu, nên không có chuyện thiên vị, người chờ chết không sợ bất cứ cái gì, không sợ bất cứ liên luỵ nào. Lần này, nếu Lý Thị Nghiêu ra sức làm rõ vụ việc may ra tìm được con đường sống. Hơn nữa, Lý Thị Nghiêu lại thông thạo và không có đối thủ ở hai tỉnh Thiểm - Cam. Nếu ta không cho Lưu Toàn phi ngựa đến ngay Lan Châu, e rằng, mạng ta đi đời.
Quả nhiên, Càn Long lệnh cho Lý Thị Nghiêu làm quyền Tổng đốc Thiểm - Cam, đội tội mang chức đi điều tra vụ việc, làm tốt sẽ tha tội chết, làm không tốt, sau mùa thu sẽ xử trảm. Và lệnh cho A Quế tạm ở Lan Châu, đôn đốc Lý Thị Nghiêu điều tra vụ việc, và kiểm tra công trình Hoàng Hà. Lý Thị Nghiêu nói: “Sẽ không phụ ân thánh thượng”, rồi nhận lệnh ra đi.
Chiếc xe của Lý Thị Nghiêu băng nhanh trên thảo nguyên, cố tranh thủ thời gian.
Lý Thị Nghiêu đến gặp ngay A Quế.
A Quế ra lệnh cho quân đội bao vây ngay trụ sở các châu phủ, tuần tra nghiêm ngặt các ngả đường quan trọng, các thị trấn làng xã. Trụ sở, nhà riêng của phủ Tổng đốc và Bố chánh sứ đều bị bao vây canh giữ càng chặt chẽ không để một khe hở.
Khắp phố phường dán đầy thông báo của Lý Thị Nghiêu, yêu cầu dân chúng tố giác bọn gian tà lưu manh, nếu nhân dịp cơ quan chính phủ tạm ngừng làm việc mà quấy rối, gây sự, sẽ chém ngay.
Trên tường thành một số nơi treo lủng lẳng mấy chiếc đầu lâu của bọn trộm lưu manh.
Cả tỉnh yêu tĩnh.
Tuần sau, Lý Thị Nghiêu đã làm rõ vụ việc và tâu báo.
Tổng đốc Lặc Nhĩ Cẩn giả mạo tạo cớ Cam Túc và các nơi khác bị nạn hạn hán, báo về triều đình xin được phép thu “giám lương”, dân chúng nộp thóc đậu, học sinh có thể đi thi làm quan hoặc miễn thi làm quan. Thực tế, Cam Túc không có hạn hán, Lặc Nhĩ Cẩn, Vương Đảm Vọng thậm chí các châu huyện đã đổi “giám lương” thành bạc trắng bỏ túi riêng và nói dối rằng số lương thực đó được đem cứu tế. Số bạc đó đều chia cho từ Tổng đốc trở xuống. Vương Đảm Vọng nhận được nhiều hơn, chỉ trong nửa năm đầu thu nộp “giám lương”, y đã bỏ túi số bạc bằng hai vạn thạch lương thực. Y còn báo cáo láo xây dựng kho tàng để nhận của triều đình mười sáu vạn lạng bạc cho vào túi riêng. Năm Càn Long thứ bốn mươi bốn, đại thần quân cơ Hòa Thân được cử đến kiểm tra, các châu phủ huyện đều báo cáo láo và lấy sổ sách giả đánh lừa. Nay kiểm tra nhà của Vương Đảm Vọng, có dư triệu lạng vàng bạc, nhà cửa vật dụng còn chờ đánh giá ra tiền bạc. Cùng trong vụ này, có đến 102 người tham ô trên một ngàn lạng, ba mươi người tham ô từ một ngàn đến một vạn lạng, mười một người từ một vạn đến hai vạn lạng, hai mươi người từ hai vạn lạng đến mười vạn lạng, mười người tham ô trên mười vạn lạng. Quan lại trong toàn tỉnh Cam Túc đều có dính líu.
Càn Long ra lệnh xử chém ngay Vương Đảm Vọng, con đày đi Y Lê. Năm mươi sáu người khác cũng bị xử trảm, bốn mươi sáu người bị lưu đày. Xử trị những quan lại cấp dưới tùy theo tội nặng nhẹ. Lệnh Lý Thị Nghiêu làm Tổng đốc Thiểm - Cam, xây dựng lại cơ cấu địa phương. Hòa Thân giáng xuống hai cấp lưu dụng. Chỉ có một tội phạm tham ô lớn nhất lọt lưới.
Lúc bấy giờ Cam Túc có bài hát dân gian như sau:
Cam Túc hàng năm hạn hán to,
Kiệu quan qua lại mọi người lo.
Vén màn nhìn thử xem ai đó,
Chễm chệ bên trong kẻ tham ô
Chém trước rồi sau hãy luận bàn,
Bảo đảm ngàn lần chẳng thể sai.
Điều an ủi lớn của Hòa Thân là Càn Long cho ông ta làm tùy tùng cùng đến Nhiệt Hà, vẫn ưu ái ông ta và cho ông ta làm tổng tài “Khâm định Nhiệt Hà chí”. Lúc này, Hòa Thân không dốc sức ra thì còn đợi lúc nào, mấy tháng sau, cuốn “Khâm định Nhiệt Hà chí” được đặt trước mặt Càn Long. Càn Long hết sức vui mừng, lại ban thưởng cho Hòa Thân. Càn Long đã hơn bảy mươi tuổi, Hòa Thân càng chăm sóc, hầu hạ chu đáo hơn trước đây, đôi lúc cùng ngủ chung giường với Hoàng thượng.
Công chúa thứ mười càng quyến luyến Càn Long và Hòa Thân. Mẹ công chúa là Đôn Vượng Thị do đánh chết cung nữ, tí nữa bị Càn Long giết chết, nhưng vì rất yêu thương công chúa nên miễn tội chết, giáng xuống làm thiếp. Hòa Thân cũng rất yêu mến công chúa, thường đưa công chúa dạo chơi, săn bắn. Hòa Thân luôn luôn tìm kiếm thú vui cho công chúa, đồ chơi công chúa thích.
Hòa Thân dần dà quên đi nỗi buồn phiền trong lòng. Càn Long càng quyến luyến Hòa Thân và cất nhắc lên làm đại học sĩ kiêm Thượng thư bộ Lại.
Hòa Thân là Thượng thư bộ Lại, Tô Lăng A làm Viên ngoại lang của bộ Lại. Như vậy chẳng phải người trong nhà cùng làm quan trong một bộ ư? Thế là Hòa Thân tâu với Càn Long, đặc cách đề bạt Tô Lăng A kiêm nhiệm Thị lang bộ Công và bộ Binh. Trong lúc Tô Lăng A và bố chồng công chúa chìm đắm trong niềm vui được thăng quan tiến chức, thì tại điện Kim Loan, Lưu Quốc Thái bị tố cáo.
Tạ Chính, huyện lệnh huyện Lịch Thành, tỉnh Sơn Đông, xuất thân là tiến sĩ, vốn là học trò của Trịnh Bản Kiều, một trong tám quái kiệt Dương Châu, được Trịnh Bản Kiều truyền dạy sau mười năm cố công rèn luyện, chữ đẹp, vẽ đẹp, thơ hay, chẳng kém gì thầy. Tính khí chính trực, luôn luôn lấy Trịnh Bản Kiều làm mẫu mực, không a dua quyền quý, càng không tham. của. Vừa lên làm huyện lệnh là cho giảm tô miễn thuế, được dân chúng hoan nghênh, không bao giờ ngồi kiệu, suốt ngày đến thăm nhà dân.
Một hôm, Tạ Chính mang theo rượu thịt, bước đi trên cánh đồng, miệng ngâm nga mấy câu thơ của Vương Ung:
“Dấu xưa in bóng chiều tà.
Cùng đường hết lối ngựa trâu quay về
Chủ nông trông ngóng mục đồng.
Cậy quyền ỷ thế sẵn sàng rầy la”.
Đến trưa bước vào một gia đình, đặt bình rượu lên bàn, móc gói thịt trong túi ra, cùng với chủ nhà ăn uống, sau một giờ mới đứng dậy cáo lui. Bác nông dân nọ thấy Tạ Chính bước đi lảo đảo bèn nói:
- Tôi đưa ngài về huyện nhé.
- Không hề gì. Tôi uống ngàn chén không say mà!
Rồi ngâm nga mấy cây thơ của Mạnh Khiết Nhiên:
Kẻ thù có sẵn thóc gà.
Biếu ta mang đến tận nhà cho ta.
Cây xanh liền với thôn trang.
Non xanh chênh chếch ngoài thành xa xa”
Bác nông dân nọ thấy ông ngâm thơ, nên quay về nhà. Trong ngoài thành huyện Lịch Thành ai cũng biết quan huyện này có bốn cái giỏi: giỏi rượu, giỏi thơ, giỏi vẽ, giỏi chữ. Càng uống nhiều, thơ; họa, chữ càng hay hơn. Nếu không ngâm thơ, không vẽ tranh, không viết chữ thì chắc chắn là ông đã say. Do đó, bác nông dân nọ thấy ông bước đi lảo đảo, nhưng vẫn ngâm thơ, nên yên tâm quay về.
Tạ Chính lảo đảo bước vào thành, từ xa nhìn thấy một nhóm người vây quanh một cửa hiệu, miệng lẩm bẩm bước đến. Nhìn thấy một cậu bé quỳ giữa đám đông, đầu tóc rối bù, lẫn với mấy cọng cỏ khô, quần áo rách rưới, đất bụi lấm lem. Đang định hỏi xem, thì một người mắt sắc như dao cất tiếng nói: “Quan huyện ơi” Mọi người rẽ ra nhường lối, người chủ quán bước đến trước mặt Tạ Chính, cười híp mắt, cung kính vái chào, nói:
- Mời quan huyện vào trong nhà ngồi, mời vào trong nhà ngồi.
Tạ Chính hỏi:
- Đây… đây xảy ra.... chuyện gì vậy?
- Hắn đánh cắp con gà luộc của tôi.
- Có lẽ… hắn đói! Định quay mình bước đi. Chủ quán thưa:
- Một con gà giá mấy đồng bạc trắng. Nhà hắn ở gần đây, tôi phải buộc người nhà hắn bồi thường.
Tạ Chính nói:
- Ta... biết nhà.. hắn... bố hắn bệnh nặng, không bồi thường nổi.
- Vậy phải đánh nó một trận. Chủ quán nói.
- Được được! Ngươi mang chiếu và mấy tờ giấy ra đây, ta phải cảnh cáo hắn trước mọi người.
Chủ quán vội gọi người nhà mang chiếu ra và đặt giấy lên bàn. Tạ Chính cầm bút vẽ một bụi cỏ, bên dưới viết mấy câu thơ, gọi người mang hồ đến, dán bức tranh lên tấm chiếu, rồi buộc tấm chiếu lên người cậu bé, để cậu bé đứng trước cửa hiệu.
Dân chúng nhìn bụi cỏ như mọc trong khe núi; chứ không phải trên tấm chiếu cói, nét chữ tự nhiên phóng khoáng, tấm tắc khen ngợi. Một lát sau, dân chúng khắp thành biết chuyện, tranh nhau đến xem bức tranh, vây kín cửa hiệu, không chịu rời bước. Khổ sở cho chủ quán nọ, buôn bán chẳng được, mà quầy hàng phía trước cũng bị sụp đổ. Chủ quán đành xin Tạ Chính: “Xin ngài tha hắn”. Tạ Chính cười ha hả, thả cậu bé đi.
Năm đó, hạn hán mất mùa, dân chúng buộc phải giết gia súc. Tạ Chính khuyên bảo: “Giết gia súc lấy gì sản xuất. Bà con hãy đợi đấy, bản quan viết tờ trình lên quan Tri phủ xin mở kho lương cứu tế”. Nào ngờ Lữ Nhĩ Xương, Tri phủ Tế Nam đã không cho mở kho lương cứu tế mà còn đòi “vay” tiền Tạ Chính và gạ ông lên gặp Tuần phủ Lưu Quốc Thái. Tạ Chính xem thư trả lời của Lữ Nhĩ Xương, tức giận, bất chấp, mở kho lương và lệnh cho các nhà giàu lần lượt mở kho thóc gia đình cứu tế. Các nhà giàu chẳng ai dám trái lệnh, răm rắp tuân theo.
Tri phủ Lữ Nhĩ Xương gọi Tạ Chính đến Tế Nam, nói:
- Bản quan không trách ngài, hôm nay có tiệc mời Tuần phủ Lưu Quốc Thái, ngài thừa hưởng ba cái tuyệt thi - thư - họa của ngài Bản Kiều, nếu có thể múa may bút mực trước buổi tiệc, khiến buổi tiệc càng thêm vui, và như vậy cũng rất có lợi cho tiền đồ của ngài. Tạ Chính vâng.
Tối đến, Tạ Chính đến Bao Đột Tuyền, nhìn thấy mấy trăm chiếc bàn bày sẵn. Lữ Nhị Xương thấy Tạ Chính đến, hết sức vui mừng nói:
- Nơi đây là chỗ ở cũ của Thanh Chiếu, đang cần có người như ngài. Mời Tạ Chính ngồi, rồi nói tiếp:
- Xin quý vị yên lặng, bản phủ chuẩn bị bữa tiệc đơn sơ kính mời ngài Tuần phủ Lưu Quốc Thái đến dự, giờ xin mời ngài phát biểu.
Một tràng vỗ tay vang lên, hết sức nồng nhiệt, tựa hồ ai cũng cho mình vỗ kêu to hơn cả và được Lưu Quốc Thái nhìn thấy. Lưu Quốc Thái đứng dậy, hai bàn tay béo mập giơ lên rồi đặt xuống hai lần, tỏ ý muốn mọi người không nên vỗ tay nữa, ông đã nhìn thấy ai vỗ kêu to nhất rồi. Tất cả yên lặng. Lưu Quốc Thái nói:
- Các vị dù là quan chức cấp bậc nào, đều là thần tử của Hoàng thượng, mong mọi người tiếp tục cố gắng! Nói xong ngồi xuống, một tay ôm cô kỹ nữ. Rượu say, đêm đã khuya, Lữ Nhĩ Xương nói:
- Mời Tạ Chính, huyện lệnh huyện Lịch Thành, người được ngài Bản Kiều truyền dạy hãy vẽ tranh, ngâm thơ cho chúng ta thưởng thức. Nói xong bảo mang bàn ghế và bút mực giấy đến.
Mọi người lại vỗ tay. Tạ Chính cấm cốc rượu bước đến trước mặt Quốc Thái nói:
- Tuần phủ đại nhân, đại nhân không biết đấy thôi, chân giò lợn đại nhân ăn toàn là chân giò lợn có bệnh.
Mọi người nghe nói như vậy đâm hoảng, có người nôn tháo ra. Tạ Chính đến trước bàn viết một bài thơ, rồi quay mình bước đi.
Quốc Thái thấy bài thơ có ý châm chọc mình và Tạ Chính bỏ đi, bèn nói to:
- Mẹ kiếp! Thế mà cũng làm quan, cả gan dậy người.
Mấy hôm sau, Tạ Chính trở về huyện nha mới biết mình đã bị cách chức. Điều này không ngoài dự kiến của ông, nhưng điều bất ngờ là, trong lúc ông chưa ra khỏi thành huyện, bạc trong kho huyện đã bị lấy sạch. Ngay lúc đó, ông giao lại công việc, chuẩn bị ba con lừa, lên đường về Dương Châu. Không ngờ, đi chưa được bao xa, có mấy người đuổi theo, té ra họ cũng là mấy viên huyện lệnh. Tạ Chính xuống lừa hỏi:
- Mấy người anh em đuổi theo tôi có việc gì vậy?
- Chúng tôi cũng bị cách chức rồi! Các huyện lệnh đáp.
- Vì sao?
- Quan trên muốn vay bạc của kho huyện, chúng tôi cho vay hơi ít. Hơn nữa, chúng tôi chẳng có tiền biếu xén.
Mấy người đuổi theo Tạ Chính, vì họ hợp tính với Tạ Chính, muốn Tạ Chính viết một lá thư cho Ngự sử Tiền Phong. Họ biết Tạ Chính và Tiền Phong không những là bạn bè, mà còn đậu tiến sĩ cùng khoa thi năm Càn Long thứ ba mươi sáu. Tiền Phong nổi tiếng là người cương trực, không a dua nịnh bợ.
Tiền Phong, tự là Đông Chú, người Côn Minh, tỉnh Vân Nam, đậu tiến sĩ năm Càn Long thứ ba mươi sáu và được chọn làm Ngự sử giám sát đạo Giang Nam năm Càn Long thứ bốn mươi sáu. Tiền Phong nổi tiếng sau vụ án Vương Đảm Vọng. Ông cho rằng Vương Đảm Vọng cùng tội với Tổng đốc Thiểm - Cam Lặc Nhĩ Cẩn, nhưng trong số quan lại tỉnh Cam Túc còn lọt lưới Tất Nguyên, Tuần phủ Thiểm - Tây, ông tâu rằng: “Lúc Vương Đảm Vọng làm Bố chánh sứ, Tất Nguyên ở Đồng Thành gần đấy, lẽ nào không nghe biết? Nếu Tất Nguyên sớm phát hiện việc làm gian dối của Vương Đảm Vọng, thì đâu để xảy ra tội ác tày trời thế này. Thần không dám nói Tất Nguyên vì lợi mà mê muội, cam tâm nhận hối lộ, nhưng biết mà không ngăn can, nghe mà không báo thì chưa tròn bổn phận của bậc đại thần”. Càn Long quở trách Tất Nguyên, giáng xuống hạng tam phẩm. Từ đó, trong và ngoài triều đình ai cũng biết Tiền Phong chánh trực không xu nịnh.
Tiền Phong nắm chắc những chứng cớ xác thực trong vụ tham nhũng ở Sơn Đông, tâu lên Hoàng thượng:
- Tuần phủ Sơn Đông, Lưu Quốc Thái tham ô hối lộ hiện có nhiều huyện lệnh bị mất chức tố cáo.
Càn Long nói:
- Quốc Thái là viên quan do Trẫm cất nhắc. Trẫm tận mắt thấy dân chúng Tứ Thủy rất yêu mến Quốc Thái. Năm ngoái, Trẫm nghe nói Quốc Thái làm bậy, đã hỏi Vu Dị Giản. Vu Dị Giản tâu rằng Quốc Thái đã răn bảo thuộc hạ, nên sai lầm không xảy ra nữa. Bây giờ có mấy viên huyện lệnh mất chức viết đơn tố cáo, cần điều tra cho đúng thật giả. Và nói tiếp: - Hòa Thân! Lệnh cho khanh và Tiền Phong đến Sơn Đông điều tra việc này, mong khanh thận trọng.
- Thưa vâng!
Không ngờ Tiền Phong lại tâu:
- Bệ hạ, thần cho rằng vụ này rất quan trọng, thần lại bất tài, chỉ có thần và Hòa đại nhân thì khó làm rõ vụ án. Thần đề nghị Lưu ngự sử cùng đi, vụ án nhất định sẽ được làm rõ.
Càn Long chuẩn tấu.
Tiền Phong biết rằng, chỉ có Lưu Dung và ông ta cùng đi mới khống chế được Hòa Thân. Không thế thì không buộc tội được Tuần phủ Sơn Đông, mà bản thân sẽ mất chức. Tuy Ngự sử có quyền lực, giám sát bá quan, lấy nghiêm để trị, nhưng nếu lần này không tìm được chứng cớ xác thực, Hòa Thân đâu có chịu để ta yên. Do đó, Tiền Phong muốn có Lưu Dung hỗ trợ, việc mới thành.
Lưu Dung, tự là Sùng Như, người huyện Chư Thành, tỉnh Sơn Đông. Đậu tiến sĩ năm Càn Long thứ mười sáu. Trước đây đã từng làm Biên tu, Thị giảng, Học công ở An Huy, Tri phủ ở Thái Nguyên, Sơn Tây, Tri phủ Giang Ninh, án sát sứ Thiểm - Tây, học sĩ nội các Thị lang bộ Hộ và bộ Lại, hiện làm Tả đô ngự sử, về sau làm Thượng thư bộ Công, Đại học sĩ Thể Nhân Các và kiêm Thái tử Thái bảo.
Cũng cần phải nói thêm, Lưu Dung là con trai của Đại học sĩ Lưu Thống Huân.
Lưu Thống Huân là viên quan người Hán được Càn Long tin yêu nhất. Càn Long tin yêu ông ta vì ông ta trung chính liêm minh, không kết bè kết đảng. Ở thời đó, quan lại thường bè cánh đấu đá nhau, a dua nịnh hót, kéo bè kéo cánh, sát phạt lẫn nhau. Nếu làm được việc gì hay cũng chỉ vì tiền đồ và danh dự của mình, mưu cầu cho bản thân được tăng tiến nhiều hơn. Thế nhưng, Lưu Thống Huân không hề dựa dẫm vào ai, không kết bè kết đảng. Càn Long lúc mới lên ngôi, cần những đại thần như vậy, do vậy chưa đầy một năm, Lưu Thống Huân đã được liệt vào hàng tể tướng.
Lưu Thống Huân thanh - chánh - liêm - minh, trở thành một ngọn cây đơn độc trong chốn quan trường chỉ biết chạy theo công danh lợi lộc lúc bấy giờ.
Một lần, con trai người bạn của Lưu Thống Huân làm Tuần phủ tỉnh Hồ Bắc, nhân dịp năm mới cử người nhà mang ngàn lạng vàng đến biếu và nói với Lưu Thống Huân: “Cha tôi và ngài, tình như anh em, lúc gia đình tôi nghèo đói, dù gia đình của ngài cũng đang khó khăn, nhưng luôn giúp đỡ gia đình tôi. Giờ đây nhà tôi sung túc, xin báo đáp ơn ngài” và dặn thêm: “Nếu ngài Lưu Thống Huân không nhận, ngươi thay ta khấu đầu vái lạy”. Khi người nhà mang vàng đến biếu, Lưu Thống Huân nghiêm sắc mặt nói:
- Chủ ngươi nhớ ân báo ân là đúng nhưng bản quan đang nắm quyền hành, không tiện nhận lễ vật, hơn nữa nhà ta cũng dư dật, nhận quà biếu, tạo ra thói xấu xa hoa lãng phí. Ngươi về nói lại với chủ ngươi, đem vàng này biếu cho những người bạn cũ còn đói nghèo.
Người nhà lẩm bẩm nói:
- Lúc đi chủ nhân tôi có dặn: “Nếu ngài không nhận số vàng này, tôi... thay chủ nhân tôi khấu đầu lạy tạ ngài”. Nói xong quỳ xuống khấu đầu lạy tạ Lưu Thống Huân.
Lưu Thống Huân nói:
- Tấm lòng này còn quý trọng hơn bao nhiêu lễ vật. Ta xin nhận vậy.
Một lần khác, một viên quan phụ trách thuế vụ, nửa đêm đến gõ cửa xin gặp. Lưu Thống Huân không tiếp. Hôm sau, ông cho gọi viên quan đến công đường nhắc nhở: “Nửa đêm đến gõ cửa, người ngay không ai làm như vậy. Ngươi có việc gì bẩm báo, thì nói trước mọi người trên công đường, dù đó là lỗi của ta, ta coi đó là lời khuyên răn”. Viên quan nọ ậm ừ, ngượng ngùng rút lui.
Năm Càn Long thứ ba mươi sáu, Lưu Thống Huân qua đời. Càn Long đến phủ Trung Đường viếng, khóc than. Khi trở về cung nói với bá quan văn võ trong triều: “Lưu Thống Huân quả không thẹn là một Tể tướng chân chính”. Càn Long thường nói “Tể tướng hiền năng”, và nói trị nước dựa vào Tể tướng, vậy mà còn gọi Lưu Thống Huân là “Chân Tể tướng”. Qua đó thấy Càn Long tín nhiệm Lưu Thống Huân chừng nào.
Tiền Phong nghĩ rằng: ta để Lưu Dung, con trai của Lưu Thống Huân cùng ta đi điều tra vụ này, Hòa Thân sẽ chẳng dám làm gì. Hơn nữa giữa Hòa Thân và Lưu Dung có mối bất hòa.
Càn Long định đề bạt Lưu Dung làm Thị lang bộ Lại. Hòa Thân nghĩ bụng: Bộ Lại phụ trách tuyển chọn quan lại toàn quốc, ta để Tô Lăng A làm Thị lang, cắm người của ta ở khắp nơi, nếu để Lưu Dung vào sẽ gây trở ngại, nên tâu với Càn Long:
- Hoàng thượng, triều đình trước nay có quy định những người mặt mày xấu xí, tướng mạo kỳ dị, không được vào triều. Nếu để Lưu Dung làm Thị lang bộ Lại e trở ngại cho Hoàng thượng, nước ngoài nhìn vào cho Đại Thanh ta không có người tài. Lưu Dung thân hình thấp bé, lưng gù, trông xấu xí.
Không ngờ Lưu Dung lại tâu:
- Hoàng thượng, Hòa đại nhân nói sai rồi. Từ xưa đã có người mắt lác, diện mạo xấu xí từng làm quan trong triều, và là một quan thanh liêm chính trực, tiếng thơm lưu truyền.
- Trẫm chưa biết người đó là ai?
- Liễu tiên sinh. Hoàng thượng thấy phong cách Liễu tiên sinh Đào Uyên Minh như thế nào?
- Phong cách ông ấy như hoa cúc.
- Ông ấy mắt lác. Lưu Dung nói.
- Trẫm chưa hề được biết, vậy ai nói?
- Có câu thơ chứng minh:
Dang tay hái cúc bên đông.
Tự nhiên lại thấy núi rừng phương nam
(Nguyên văn: Thái cúc đông li hạ.
Du nhiên kiến nam sơn)
Nếu Ngũ Liễu tiên sinh không lác mắt thì làm sao có thể hái hoa cúc bên giậu phía đông mà lại nhìn thấy núi phía nam.
Bá quan văn võ trong triều cười ồ. Hòa Thân cũng ôm bụng phì cười, rồi bất ngờ lên tiếng:
- Đó là chuyện bông đùa mua vui. Thật ra là bất kính với Hoàng thượng.
- Dẫu là ngụy biện, nhưng cũng thấy tài đối đáp nhanh trí, đúng là chuyện khôi hài, nhưng không có gì bất kính. Càn Long nói.
- Lưu Dung có tài đối đáp nhanh trí, muốn để ở điện Kim Loan, xin bắt chước câu chuyện Tào Thực ngâm thơ trong vòng bảy bước đi.. Lấy cái lưng gù của ông ta làm đầu đề. Nếu làm được thơ thì nhận là Thị lang bộ Lại, ngược lại, lâu dài thì xem ông ta là một tên hề khôi hài. Trước mắt cho làm tên quan nhãi nhép. Hòa Thân đề nghị.
- Như vậy nhé. Ngươi làm thơ đi nào?
Lưu Dung đọc:
Lạc đà đèo càn khôn,
Ngực cao đầy kinh luân
Nhìn qua biết ngay gian,
Một chân vượt Long Môn.
Lòng son phò xã tắc,
Đem sức tạ ơn vua.
Trông mặt nhận người tài,
Phải chăng người hiền đức.
Càn Long cả cười, nói: “Kỳ tài, kỳ tài, nhận làm Thị lang bộ Lại”. Từ đó, Lưu Dung và Hòa Thân càng bất hòa.
Mùng một Tết, Hòa Thân nhất định sẽ đến hoàng cung chúc mừng năm mới Càn Long, tặng lễ vật cho công chúa. Lưu Dung khoác một bộ áo quần cũ nát, dầu mỡ dính đầy người, ra khỏi nhà. Bên ngoài, tuyết vừa tan, mặt đất bùn lầy. Lưu Dung cho người đổ nước bẩn lên trên mặt đất, đứng bên cổng đợi, người nhà chẳng hiểu làm sao. Một lát sau, kiệu Hòa Thân đi ngang qua trước cổng, Lưu Dung vội gọi người nhà đến trước kiệu Hòa Thân nói to:
- Đại nhân đến tệ phủ chúc mừng năm mới, thật là quý hiếm, chủ tôi xin kính chúc. Rồi nói tiếp: - Lưu đại nhân! Hòa đại nhân đến chúc mừng năm mới.
Lưu Dung vội vàng ra đón:
- Hòa đại nhân đến tệ phủ chúc mừng năm mới hạ quan rất hân hạnh. Xin mời xuống kiệu.
Hòa Thân đành phải xuống kiệu, nghĩ bụng ta sẽ nói chuyện với hắn vài câu rồi đi. Nào ngờ, Lưu Dung vừa thấy Hòa Thân xuống kiệu, đã quỳ mọp xuống đất Theo lễ tiết của triều Thanh, chức quan ngang nhau thì lễ tiết ngang nhau. Hòa Thân cũng phải quỳ đáp lễ. Hôm nay, Hòa Thân đến bái kiến Hoàng thượng, lại là ngày mùng một Tết, nên mặc áo gấm kép màu đen, quần lông cáo, khi đứng dậy, cả người bẩn thỉu. Hòa Thân đến cửa cung, khóc than trước mặc Càn Long:
- Lưu Dung đã hại nô tài thế này, Hoàng thượng cũng chẳng hỏi han một câu nào.
Không ngờ Càn Long cười ha hả:
- Hai khanh ngày thường hay trêu đùa nhau quen rồi, khanh không nên để bụng.
Hòa Thân bắt đầu chịu phép Lưu Dung
Tiền Phong đề cử Lưu Dung, không những có thêm một đồng minh mà còn có thêm một túi khôn.
Tiền Phong tìm gặp Lưu Dung bàn bạc, hai người quyết định: Lưu Dung cùng đi với Hòa Thân, theo dõi mọi động tĩnh của Hòa Thân. Tiền Phong đi trước, chỉ mang theo một thị vệ, thường xuyên liên hệ với Lưu Dung. Tiền Phong tâu với Càn Long:
- Hòa Thân đại nhân, gần đây nhiều việc, thần xin đi trước, Lưu đại nhân đi cùng với Hòa đại nhân.
Càn Long chuẩn tấu.
Thời tiết đã sang thu, khí trời bắt đầu lạnh. Tiền Phong đội chiếc nón rách, khoác lên mình chiếc áo bông rách hở mấy chỗ, sợi bông lòi phất phơ ra ngoài, bên dưới mặc chiếc quần vải bố, đũng quần sờn rách, mỗi khi gió thổi lộ cả vật quí ra ngoài. Tay trái cầm một cái bát gốm miệng còn dính đất cát, dầu mỡ; tay phải kéo lê một chiếc roi, áo quần lem luốc bẩn thỉu. Chiếc roi đó là ám hiệu liên lạc với người tùy tùng. Chiếc roi đặt lên vai, người tùy tùng phải từ xa theo sát ông, không được để người khác biết hai người là một nhóm.
Tiền Phong ra khỏi Bắc Kinh, thư thả đi trên con đường cái lớn.
Hòa Thân được lệnh của Hoàng thượng, muốn lùi lại ngày đi để bàn với Tô Lăng A. Tô Lăng A là người không có chính kiến, mọi việc y làm đều do Hòa Thân sắp đặt. Hòa Thân nói: “Ta đã đón Nạp Lan về nhà ta, vật phẩm đắt tiền trong cửa hàng da của Quốc Thái đã bí mật chuyển về cửa hàng nhà ta. Bây giờ ta chuẩn bị hai bản tấu, một bản vạch tội Lưu Dung và Tiền Phong, một bản vạch tội Quốc Thái, ngươi ký tên vào đấy chờ ta cấp báo. Nếu đến Sơn Đông điều tra chẳng có gì, lần này ta quyết không tha hai lên Lưu Dung, Tiền Phong, phải diệt trừ chúng. Nếu có chuyện không hay, sẽ cho người báo ngay với ngươi, ngươi cầm bản tấu này tâu lên Hoàng thượng, trước khi Lưu Dung và Tiền Phong vạch tội Quốc Thái, thí tốt cứu xe. Ngươi ở lại kinh đô, luôn theo dõi tình hình trong triều, lúc cần thiết có thể tự lo liệu. Bây giờ ta cho người mang thư đến Quốc Thái, để Quốc Thái chuẩn bị đầy đủ, ta kéo dài thêm mấy ngày ở đây, để Quốc Thái ung dung sắp đặt”. Tô Lăng A ậm à ậm ừ, chỉ sợ vơ việc vào người.
Tiền Phong đến Lương Hương, không đi nữa, vào quán bên đường xin ăn, tối ngủ ngay bên lề đường. Đây là con đường độc đạo đến Sơn Đông, người buôn bán qua lại tụ tập ở đây, huyện lỵ không lớn, nhưng rất náo nhiệt. Một hôm, Tiền Phong đưa tay ra xin cơm của một chủ quán. Chủ quán vểnh râu trợn mắt quát:
- Ngươi xin, hắn xin, ai cũng xin, hôm nay xin, ngày mai xin, lúc nào cũng xin.
- Xin một ít ăn thôi mà!
- Ăn xin còn hay hơn nhiều. Mùa xuân, quyên tiền chống hạn, một giọt nước chẳng thấy; mùa hè, quyên tiền đắp đường, hố mương càng nhiều, hiện nay trời hạn không mưa, mẹ kiếp, lại quyên tiền đào sông. Quyên, quyên, góp, góp...
- Bác quyên góp như vậy, có thu được lợi gì không?
- Ngươi chỉ biết xin cơm ăn, nhàn rỗi chẳng việc làm, nên hỏi chuyện này. Có đếch gì mà lợi với lộc. Họ viết biên lai, theo đó thu tiền.
- Bác cho tôi số biên lai đó tôi đang cần giấy vệ sinh đây.
Chủ quán chẳng hơi đâu mà nói, liền lấy tập biên lai ghim trên tường vứt cho người ăn mày.
Tiền Phong xem tập biên lai, thấy ghi các loại thuế tạp nham và các loại quyên góp kinh người như: tiền xây cầu đắp đường, tiền trị thuỷ, tiền quản lý cây cối bên đường, tiền cứu tế, tiền nuôi trẻ mồ côi người già, tiền sửa chữa quan nha kho phủ... Cả thảy có đến ba bốn mươi loại, có thứ đã tính trong thuế còn phải nộp thêm.
Một người ăn xin khác hỏi Tiền Phong:
- Bác cũng bị những thứ này mà phải đi ăn xin phải không?
- Chẳng qua nhà tôi bị lũ lụt.
- Nạn quan còn ghê gớm hơn nạn lụt. Tập biên lai bác đang cầm chỉ là một. phần thôi. Có những khoản tiền thu hai ba lần, năm nào cũng phải nộp. Ví như tiền sửa chữa quan nha kho phủ, hôm nay sửa, ngày mai chữa, năm nào cũng sửa, năm nào cũng góp. Tại sao sửa chữa mãi mà không xong?
- Có cái chữa xong lại chữa nữa, có cái chưa định chữa thì bỗng hỏng rồi.
- Chẳng lẽ không ai trị nổi các quan lại như vậy ư?
- Bác thật ngây thơ, không biết gì sất. Quan phủ bây giờ, có ai tốt đâu, anh đến đâu mà kêu kiện, ngay Sơn Đông đây, Tuần phủ Lưu Quốc Thái, vốn tưởng là người tốt, nào ngờ toàn dân Sơn Đông và cả Hoàng thượng cũng bị ông ta lừa. Từ khi làm tuần phủ, ông ta hôm nay nói mở kênh, ngày mai nói đào sông, hôm nay nói anh... Nói đến đấy hình như vô cùng hoảng sợ, rồi chẳng dám nói thêm. Tiền Phong nói thế nào, anh ta cũng không mở mồm. Chờ đến khi anh