← Quay lại trang sách

Chương 9 DƯỚI MỘT NGƯỜI TRÊN VẠN NGƯỜI

Đậu Quang Nại tố cáo quan tại Triết Giang tham ô hủ hóa, Hòa Thân bắn một phát trúng ba con chim, trừng trị A Quế...

- Công chúa lấy Phong Thân Ân Đức, trong số những người dự lễ cưới có cả A Quế đức cao trọng vọng, đầu tóc bạc phơ...

- Mọi người trố mắt nhìn đống của hồi môn của công chúa...

Tháng bảy, năm Càn Long thứ năm mươi mốt, Hòa Thân vừa xử lý xong vụ Tào Tích Bảo tố cáo Lưu Toàn, thì được nhận tước Đại học sĩ Văn hoa điện, nên vô cùng đắc chí.

Nhưng, lúc này A Quế lại trở về kinh, Hòa Thân cảm thấy không được thoải mái và nghĩ bụng rằng, không trị được A Quế thì cũng phải tìm cách đẩy ông ta đi.

Một hôm, xem hai bản tấu chương của Thị lang bộ Lại Đậu Quang Nại, Hòa Thân thấy có hi vọng.

Đậu Quang Nại tự là Nguyên Điều, người Chư Thành, Sơn Đông, cùng quê với Lưu Dung, đậu tiến sĩ năm Càn Long thứ bảy, làm Thứ cát sĩ, sau làm Tả trung doãn, rồi được thăng lên Nội các học sĩ, Tả phó đô ngự sử, phụ trách học chính Triết Giang, người cương trực chất phác, nhiều lần được thăng chức. Tuy là Thị lang bộ Lại trong năm mươi mốt năm, nhưng vẫn phụ trách Học chính Triết Giang, ông thấy kho tàng các phủ huyện đều trống rỗng, quan lại ức hiếp dân chúng nên tâu lên Hoàng thượng:

- Tổng đốc trước là Trần Tổ Huy tham ô hối lộ, Tổng đốc Phú Lặc Hồn biết rõ. Thần nghe nói các huyện Gia Hưng, Hải Diêm, Bình Dương thiếu hụt hơn mười vạn, xin điều tra xem xét.

Càn Long lệnh cho Thượng thư Tào Văn Trực, Thị lang Khương Thịnh đến Triết Giang, cùng với Tuần phủ Y Linh A và Đậu Quang Nại tiến hành điều tra. Sau đó Đậu Quang Nại tâu lên Hoàng thượng:

- Tri huyện Vĩnh Gia, Tịch Thế Duy mượn thóc của dân chất đầy kho nhằm che dấu tội lỗi. Tri huyện Bình Dương, Hoàng Mai Cường bắt dân nộp tiền bạc để xem tuồng lúc mẹ ông ta chết. Bố Chánh sứ Thạch Trụ, Tổng đốc Phú Lặc Hồn sử dụng tiền bạc quá nhiều. Thạch Giai phụ trách ngành dệt Hàng Châu tham ô hàng đống vật phẩm quý chuyển về kinh, của cải rất nhiều, ai cũng kinh ngạc.

Thế nhưng, bản tấu của ba vị đại thần kia lại khác với bản tấu của Đậu Quang Nại.

Hòa Thân xem xong, tâu với Càn Long:

- Công việc cai trị ở Triết Giang thối nát, tham ô hủ hóa quá nhiều, hại dân hại nước, bản tấu của các đại thần được cử đi điều tra không thống nhất, nhất đỉnh có sự giả dối. Thần cho rằng Hoàng thượng nên cử A Quế đến đấy, mới làm rõ được vụ này.

Càn Long đồng ý, cử ngay A Quế đến Triết Giang. Hòa Thân rất xảo quyệt, cử em trai Hòa Lâm cùng đi với A Quế. Hòa Lâm chỉ là một tay cạo giấy (thư ký), trước nay chưa có công lao gì. Lần này có thể kiếm được chút ít công lao. Bản tấu của Đậu Quang Nại chắc gì đã đúng? Chỉ cần cậu em biết nhân vụ này mà lập công. Hòa Thân bảo Hòa Lâm, khi xử lý việc không nên ra mặt trước.

- Họ là các quan lớn hơn em, chỉ cần em nhìn thái độ của họ mà hành động.

Hòa Thân không chỉ đẩy A Quế đi xa triều đình mà còn bắn một phát trúng ba con chim. A Quế và Phú Lặc Hồn có quan hệ thân thích với nhau. Nếu điều tra ra, A Quế phạm tội bao che cho Phú Lặc Hồn. Nếu điều tra không ra, càng có thể lật nhào ông ta - quan lại ở đấy, đít thằng nào không vấy cứt. Hơn nữa, nhân dịp này lôi kéo Phú Lặc Hồn theo mình, nhưng trước tiên phải “dần” cho hắn một trận bằng bàn tay của A Quế và Đậu Quang Nại, sau đó mới “kéo” hắn. Nếu hắn biết điều, ta có thể dùng được, có thể giảm nhẹ tội cho hắn, rồi lại trọng dụng. Nếu không biết điều thì cho hắn vào “lãnh cung”. Con chim thứ ba là Đậu Quang Nại, tính cách hắn không hợp với ta, hắn vờ ra vẻ cương trực không bợ đỡ, đạo mạo nghiêm trang. Phú Lặc Hồn vốn là thân thích của A Quế, lại là chiến tướng dưới trướng A Quế, trong cuộc chiến tranh với Kim Xuyên, đã vào sanh ra tử, lập nhiều chiến công. Lần này A Quế, ít nhiều cũng bao che cho hắn. Đậu Quang Nại là con người chẳng kiêng nể đất trời, có thể tranh cãi với A Quế. Nếu xảy ra chuyện đó ta ngồi trên núi xem hổ đấu, há không phải là ngư ông đắc lợi ư? Vì thế, A Quế đi Triết Giang điều tra vụ việc, Hòa Thân vô cùng phấn khởi.

Quả nhiên không ngoài tính toán của Hòa Thân. A Quế bao che cho chiến hữu của mình. A Quế, Đậu Quang Nại và Y Linh A về kinh, gặp Càn Long. A Quế tâu:

- Hàng dệt Hàng Châu đo Thạch Giai quản đều đủ, giá khoảng hơn ba vạn chín ngàn lạng, không sử dụng tiền bạc cho việc riêng. Sinh nhật 90 tuổi mẹ Tri huyện Bình Dương Hoàng Mai, tổ chức diễn tuồng chúc thọ nhưng tối hôm đó mất tại Tiên Cư. Đậu Quang Nại nói không đúng sự thật.

Y Linh A và những người khác cũng tâu như A Quế.

Đậu Quang Nại nghe xong, mắng chửi A Quế, to tiếng cãi vã với A Quế. Hòa Thân khó chịu, thấy Càn Long bênh A Quế, quở mắng, cách chức và ra lệnh giam Quang Nại vào ngục. Quang Nại nói:

- A Quế không đích thân điều tra, chỉ cử mấy quan thuộc hạ đến Bình Dương hỏi han lấy lệ, cưỡi ngựa xem hoa, làm sao biết được sự thật, Hoàng thượng trị tội thần, thần chẳng phục, nếu để thần đích thân đi đến đấy, không lấy được chứng cớ, thần xin chịu chết.

Hòa Lâm tâu:

- Thần theo Đại học sĩ A Quế đến Triết Giang, do công trình đê biển Triết Giang đang thi công gấp rút, thần được giữ lại ở Hải Ninh. A Quế cử người của mình đi điều tra, thực hư thế nào, lúc ấy thần không được biết.

Lời tâu của Hòa Lâm được cả hai bên đồng tình, nhưng ẩn ý là A Quế không thể điều tra làm rõ được. Hòa Thân tâu:

- Đậu Quang Nại đã tâu như vậy, nếu không lấy được bằng chứng sẽ bắt giam không muộn.

Càn Long đồng ý, cử Hòa Thân cùng đi.

Đậu Quang Nại đến Bình Dương, làm theo cách của Tiền Phong trước đây, ăn bận thường phục đi điều tra, lấy được hóa đơn ép dân góp tiền của Tri phủ Hoàng Mai: một mẫu ruộng, mười vạn quan tiền. Hàng năm thu mua lương thực, không trả tiền, giao biên lai khống, trên biên lai chỉ có dấu ấn của quan phủ và chữ ký của Hoàng Mai. Trong tám năm làm Tri huyện Bình Dương, Hoàng Mai đã bỏ túi riêng, cả tiền quyên góp và tiền mua lương thực, không dưới hai mươi vạn lạng bạc. Lúc mẹ chết, không chịu phát tang, tổ chức diễn tuồng để phô trương, lấy cớ thu tiền mai táng.

Có được hóa đơn chứng từ, Đậu Quang Nại cấp tốc chuyển về Bắc Kinh. Càn Long cả giận, cử ngay A Quế đến Triết Giang thẩm tra lại và lệnh:

- A Quế chịu ơn sâu của Trẫm, được làm đại học sĩ đương nhiên không có ý bao che bênh vực, nhưng làm việc qua loa tắc trách, đáng bị cách chức, nhưng bây giờ hãy đi thẩm tra lại, sau khi trở về sẽ luận tội.

Hòa Thân thích thú hết cỡ.

Càn Long còn nói với A Quế:

- Đậu Quang Nại tính khí ngang tàng, hay cố chấp, khanh không nên để bụng. Trẫm để Quang Nại đi điều tra trước, khanh không được thành kiến, hiềm khích, hãy ở địa vị của Trẫm, xử lý công bằng nghiêm minh.

A Quế lên đường, không dám chậm trễ, nhanh chóng làm rõ sự việc, đề nghị xử trảm Hoàng Mai, bắt giam Tổng đốc Phú Lặc Hồn, không chút nể tình.

Hòa Thân lại sử dụng thủ đoạn trừng trị Lý Thị Nghiêu trước đây. Vụ án Triết Giang chính do Hòa Thân thổi bùng, nay ông ta lại muốn dập tắt. Hòa Thân muốn Phú Lặc Hồn bị trừng phạt, nhưng không muốn ông ta chết, bèn tâu:

- Nên điều Phú Lặc Hồn về kinh, điều tra làm rõ, không nên vội vàng giam vào đại ngục. Phú Lặc Hồn lập nhiều chiến công trong thời kỳ bình định Kim Xuyên, trước nay chưa có sai lầm nên nhẹ tay, không nên xử trảm.

Càn Long đồng ý.

Vừa đánh vừa xoa. Phú Lặc Hồn thoát chết, cảm kích Hòa Thân, cúi đầu làm tay chân cho Hòa Thân, trở thành Lý Thị Nghiêu thứ hai.

Hòa Thân chưa hài lòng vì Càn Long không trừng phạt A Quế mà chỉ quở trách vài câu.

Hòa Thân không cam chịu, tìm gặp Đậu Quang Nại nói:

- Chúc mừng ngài được thăng làm Thử lý quang lục tự khanh. Nhưng tôi lo cho ngài, tưởng A Quế nể tình riêng bênh che, chống đối ngài. Ngài cương trực, không a dua nịnh bợ, uy vũ không sợ, ai ai cũng biết tiếng ngài, vậy mà sao yếu đuối nhu nhược trước sự việc của A Quế.

- Câm mồm ngài lại. Đậu Quang Nại chỉ nói bốn từ ấy.

Hòa Thân như bị dội gáo nước lạnh.

Hòa Lâm từ đó được thăng quan tiến chức vùn vụt.

Được thăng quan tiến chức vì Thị lang bộ Hộ, Tô Lăng A tâu:

- Hòa Lâm tuy là quan nhỏ, nhưng khi theo Đại học sĩ A Quế đã thấy rõ vấn đề, công minh chính trực, sau lại theo Đậu Quang Nại tìm ra chứng cớ, đưa vụ việc ra ánh sáng, giúp Hoàng thượng trị vì đất nước quang minh chính đại. Hòa Lâm trước nay làm việc không nể nang bênh che, cần cù chăm chỉ, thật đáng khen thưởng.

- Hòa Thân, vậy nên khen thưởng đề bạt như thế nào? Càn Long hỏi.

- Thần không tiện nói, xin giao cho các đại học sĩ bàn bạc. Hòa Thân trả lời.

- Khách quan, không thiên vị, có ý kiến gì hay cứ nói.

- Hòa Lâm thay thế Thạnh Giai quản lý nghề dệt Hàng Châu là tiện nhất, vì, một là ở đó thiếu người, hai là tiếp tục điều tra rõ thêm vụ án này.

- Rất tốt. Càn Long nói.

Thạnh Giai vốn là em vợ Càn Long, vì vụ án này mà bị mất chức, lẽ nào Càn Long để mặc. Hòa Thân nhìn thấu ruột gan của Càn Long, để Hòa Lâm nhận việc ở đó vừa là nơi béo bở, vừa làm vừa lòng Càn Long về chuyện Thạnh Giai.

Nhận chức được hai năm, Hòa Lâm tâu với Càn Long:

- Đậu Quang Nại tâu trình đều đúng sự thật, lòng ngay thẳng. Thạnh Giai chuyển của cải về kinh tuy có nhiều, thực ra phần lớn đều là của công. Chuyện cũ của Thạnh Giai chỉ là phỏng đoán.

Bản tấu trúng ý Càn Long, cũng không bắt tội được Đậu Quang Nại. Thế là Thạnh Giai được phục chức, Hòa Lâm được thăng làm Ngự sử đạo Hồ Quảng.

Hòa Thân không những nắm quyền lớn về quân sự chính trị, ngoại giao, mà cả quyền chấm thi cũng dần dần rơi vào tay ông ta. Hòa Thân là Tổng tài Viện “Tứ Khố Toàn Thư”, chủ biên cuốn “Khâm Định Nhiệt Hà Chí”, chủ trì cuốn “Đại Thanh Nhất Thống Chí”. Cho rằng mình ngang với Kỷ Vân. Trong một buổi tiệc mừng thọ, có một cụ già một trăm bốn mươi mốt tuổi dự, Càn Long ra một vế đối:

“Hoa giáp trùng phùng, hựu tăng tam thất tuế nguyệt”

Hai lần hoa giáp tức là một trăm hai mươi tuổi, cộng thêm ba lần bảy, đúng một trăm bốn mươi mốt tuổi. Lúc ấy Hòa Thân muốn làm vế đối thứ hai, nhưng thấy Kỷ Vân đã tranh trước:

“Cổ hy song khánh, tái thêm nhất độ xuân thu”.

Hai lần bảy mươi tuổi tức một trăm bốn mươi tuổi, lại thêm một mùa xuân, đúng là một trăm bốn mươi mốt tuổi. Hòa Thân thấy Kỷ Vân tài ba hơn mình, rất căm, rồi liên tưởng khi trước Kỷ Vân trêu mình mà mình chẳng làm gì được, nên cảm thấy rất buồn phiền.

Làm Tổng tài Viện “Tứ Khố Toàn Thư”, rồi được làm Giáo tập Thứ cát sĩ năm Càn Long thứ năm mươi tư, ngày càng thọc tay sâu vào lĩnh vực văn hóa, gây ra nhiều chuyện rắc rối.

“Tứ Khố Toàn Thư” hoàn thành xong được mấy năm, đó là một việc tốt để lại tiếng thơm muôn đời, các vị Kỷ Vân, Lục Tích Hùng, Tổng hiệu Lục Phí Trì đều được thăng chức, được khen thưởng. Việc ấy quá rõ. Nhưng họ không ngờ, mấy năm sau đó đều bị nghiêm trị.

“Tứ Khố Toàn Thư” được cất giữ ở các nơi như Văn Tân Các tại Sơn Trang, Văn Nguyên Các trong vườn Viên Minh, Văn Uyên Các trong Tử Cấm Thành và Văn Tố Các tại Cố Cung Thạnh Kinh (Trầm Dương).

Một hôm, Hòa Thân lật xem “Tứ Khố Toàn Thư” để trong Văn Uyên Các, bỗng phát hiện có nhiều chữ chép sai, bèn ghi lại và tiếp tục tìm ghi các điểm sai khác tâu lên Càn Long:

- “Tứ Khố Toàn Thư” thể hiện giai đoạn cực thịnh văn chương của triều ta, thế mà Kỷ Vân và các người khác biên soạn sơ sài, có nhiều chỗ sai, đến nay vẫn chưa sửa đổi, lừa dối Hoàng thượng, thật đáng tội.

Càn Long cả giận, lập tức lệnh cho Kỷ Vân đến kho sách Văn Uyên Các, Lục Tích Hùng đến kho sách Văn Tố Các tiến hành hiệu đính, tất cả chi phí cho việc này đều do các ông ấy chịu tất.

Hòa Thân khoái chí.

Lục Tích Hùng đến Trầm Dương nhìn thấy núi sách chất đầy nhà gác ba tầng, than thở: “Mình làm mình chịu, nhưng sách nhiều thế này, bao giờ mới hiệu đính xong”. Việc biên soạn sách tuy đồ sộ hơn hiệu đính nhiều nhưng không chút lo buồn, giờ đây nhìn vào những cuốn sách ấy, ý chí và dũng khí trước đây không còn để mà hiệu đính. Lòng thầm trách Hoàng thượng, tức nhưng để bụng không dám nói. Mấy hôm sau sinh bệnh, qua đời.

Sau khi Lục Tích Hùng chết, Kỷ Vân và Lục Phí Trì cũng rơi vào cảnh lao đao khổ sở, dẫu thoát tội chết. Lục Phí Trì nghĩ rằng Lục Tích Hùng chết sớm là điều hạnh phúc, còn mình thì bất hạnh hơn, bị Càn Long quở mắng:

- Khanh là Tổng hiệu, để xảy ra nhiều sai sót, khó tránh khỏi tội.

Hòa Thân tưới thêm dầu vào lửa, phạt Lục Phí Trì phải bỏ tiền túi trang trí tất cả sách trong kho sách ở Triết Giang và đóng ba cái hòm đựng sách, sau đó tước hết chức vụ của Phí Trì, khiến Phí Trì tức chết.

Lục Phí Trì được “hạnh phúc” - “chết”, gia đình rơi vào cảnh khó khăn. Hòa Thân lập tức cho người khám xét tịch thu gia tài của Phí Trì. Càn Long còn chút tình, để lại cho vợ con ông ta một ngàn lạng bạc tiêu dùng.

Hòa Thân vô cùng thích thú, dồn bực tức vào “ông già” Kỷ Vân, phạt tiền sao chép sách. Như vậy cũng là may mắn cho ông già.

Không lâu sau đó, Càn Long lệnh cho Phế Thạch Kinh phụ trách Quốc Tử Giám mở khoa thi, do Hòa Thân làm Chánh chủ khảo, Kim Gián, Bành Nguyên Đoan, Vương Kiệt, Lưu Dung, Đổng Hạo làm chủ khảo. Bành Nguyên Đan phụ trách thanh tra. Vương Kiệt, Lưu Dung, Đổng Hạo tuy chức vị thấp hơn Hòa Thân nhưng đây là lần đầu tiên làm việc dưới sự phụ trách của Hòa Thân.

Khi họp bàn, Hòa Thân ngồi chính giữa, ngạo nghễ nhìn mọi người, bảo Vương Kiệt thế này, Lưu Dung thế nọ, Đổng Hạo thế kia, khiến mọi người bực mình. Hòa Thân vỗ vào Vương Kiệt giao làm việc này việc kia; hỏi Lưu Dung, chẳng lẽ ngài bất tài ư? Hàng ngày cùng Hoàng thượng ngâm họa thi thơ, ra câu đối cơ mà? Hôm nay làm việc với ta, mới biết chút học vấn của ngài chỉ là trò vỗ mông ngựa cho Hoàng thượng, hết chê lại lên lớp Lưu Dung. Với Đổng Hạo, khỏi phải nói, Hòa Thân lên lớp tới số. Hòa Thân lấy làm kỳ lạ, chẳng hiểu vì sao Hoàng thượng lại thích ba người này, có lẽ Hoàng thượng đã hoa mắt rồi.

Trong lúc Hòa Thân chú ý đến Lưu Dung, Vương Kiệt, Đổng Hạo, Bành Nguyên Đoàn âm thầm viết cuốn “Bất Kinh Khảo Văn Đề Yếu” dâng lên Hoàng thượng.

Càn Long xem xong cuốn sách, hết lời ca ngợi, trọng thưởng Bành Nguyên Đoan, thăng chức Cung Quan Bảo. Hòa Thân tức lộn ruột, ta là Chánh Tổng tài, cả ngày vùi đầu với công việc, chẳng có thời giờ viết sách, thế mà Bành Nguyên Đoan nhà người viết sách chẳng báo cáo với ta, lại tự tiện chuyển lên Hoàng thượng! Ta là Chánh tổng tài chưa viết cuốn sách đó mà ngươi đã viết rồi, dường như trình độ ngươi cao hơn ta chắc. Hòa Thân tức tối, tâu với Hoàng thượng:

- Lẽ nào Thiên tử không thể khảo chứng Kinh Văn.

Càn Long nói:

- Chính Trẫm lệnh cho các khanh đồng tâm hiệp lực viết Khắc Thạch Kinh, khảo chứng Kinh Văn là việc của các khanh, Bành Nguyên Đoan khảo chứng theo lệnh ta, có gì mà không thỏa đáng!

Hòa Thân thấy Hoàng thượng không chấp nhận ý kiến của mình nên tiếp tục tâu:

- Thần thấy “Đề Yếu” của Bành Nguyên Đoan có nhiều sai sót, thần xin viết một cuốn khác để đính chính, không biết ý Hoàng thượng thế nào.

Càn Long nói:

- Nếu thấy sai sót thì đính chính, đương nhiên là việc tốt, khanh tự viết một cuốn.

Hòa Thân triệu tập mấy vị hàn lâm học vấn cao siêu viết cuốn “Đề Yếu Cử Chính”, trình lên Hoàng thượng. Hoàng thượng nói:

- Cuốn sách này cũng có ý mới, tương đối tỉ mỉ.

- Cuốn sách của thần viết tỉ mỉ, cuốn sách của Bành Nguyên Đoan nên hủy đi.

- Nói vậy là sai rồi. Cuốn của Bành Nguyên Đoan không chỉ gợi mở mà còn rất xác đáng, mạch lạc rõ ràng, chứng cứ cụ thể, sao lại hủy đi, việc này không bàn nữa.

Hòa Thân đâu chịu để yên, lệnh cho thuộc hạ chép cuốn “Khảo Văn Đề Yếu Toàn Văn” do mình chủ biên thành ba bộ, để tại Mậu Lặc Điện, Hàn Lâm Viện và Quốc Tử Giám. Hòa Thân còn cho người xóa nhưng câu chữ khảo chứng của Bành Nguyên Đoan và viết đè lên bằng những câu chữ sai trái. Thế là cuốn “Bất Kinh Khảo Văn Đề Yếu” của Bành Nguyên Đoàn phải bỏ đi không dùng.

Tháng tư năm ấy (năm Càn Long thứ năm mươi tư) Hòa Thân đến phòng thi đình, đã có nhiều thí sinh tụ tập tại cửa phòng thi, trong đó có hai anh em Ngô Tỉnh Khâm và Ngô Tỉnh lan đã đậu cuộc thi hương được Hòa Thân nâng đỡ, nay đậu tiến sĩ. Hòa Thân lẽ nào không chiếu cố đến hai người này. Đối với tay chân tâm phúc sao lại không chiếu cố, huống hồ Ngô Tỉnh Khâm đã có công làm thân trâu ngựa cho mình.

Mỗi lần được cử làm quan chấm thi là một lần gặt hái được mùa của Hòa Thân, nhưng lần này Hòa Thân không nhận lễ vật của anh em họ Ngô. Hòa Thân nói:

- Hai anh em yên tâm đi, với sức học của hai người không thể nào thi trượt. Hòa Thân kiên quyết không nhận lễ vật của họ, hứa cho họ đậu. Hai anh em vẫn cứ không an tâm. Chân bước vào phòng thi, mà lòng cứ lo lắng. Sau lần sơ khảo, khi duyệt lại bài thi, Hòa Thân thấy ký hiệu trên bài thi của hai anh em. Ngô Tỉnh Khâm trúng tuyển, Ngô Tỉnh Lan không đậu. Hòa Thân nghĩ cách bắt ép cho Ngô Tỉnh Lan đậu.

Tại điện Kim Loan, Càn Long cùng các đại thần xem bài thi, Hòa Thân đọc xong một quyển thi, tâu:

- Kết cấu văn chương của thí sinh này không có sai sót lớn, chỉ riêng bài thơ này quá sơ sài, thiếu cảnh thiếu tình, chỉ được cái mộc mạc chất phác, xin Hoàng thượng không cho anh ta được phúc khảo.

Bạn thử tưởng tượng, thơ của Lý Bạch, Đỗ Phủ nếu đưa ra mổ xẻ, thì cũng khối sai sót, huống hồ đây là một thí sinh. Hòa Thân muốn tìm những sai sót trong bài thơ, nhưng không dễ. Thí sinh không may đó là Tiết Tãi Di.

Càn Long xem bài thơ, nói:

- Xem văn thơ của anh ta, có thể gia ân được phúc khảo.

- Hoàng thượng thật nhân hậu, thí sinh này thật có phúc nhưng khi phúc khảo lại thêm một người. Hòa Thân tâu.

Càn Long đồng ý.

Phúc khảo xong, các bài thi được đem duyệt lại. Hòa Thân lại đưa quyển thi của Tiết Tãi Di ra, tâu:

- Tiết Tãi Di phúc khảo không khớp với quyển thi, không thể bảo đảm là không có sự gian dối, xin điều tra vụ này.

Càn Long nghi hoặc:

- Việc này giao cho Hòa Thân xem xét.

Thế là Tiết Tãi Di bị đuổi về nguyên quán ở Sơn Tây.

Anh em họ Ngô và các môn sinh của Hòa Thân nhẹ nhàng vượt qua cửa ải. Và Hòa Thân, đâu đâu cũng có tay chân.

Trong con mắt của Hòa Thân, việc các thí sinh và các thuộc hạ mang lễ vật đến biếu là lẽ đương nhiên, giúp đỡ họ và nhận quà cáp là tất nhiên. Nhưng Hòa Thân còn ép buộc, vòi vĩnh họ, móc túi họ. Có lúc nhìn thấy vật gì ưng ý là tìm cách lấy bằng được.

Tháng sáu, năm Càn Long thứ năm mươi tư, Tổng đốc Lưỡng Quảng, Tôn Sĩ Nghị từ mặt trận An Nam về kinh báo cáo công việc, mang theo các vật phẩm cống nộp triều đình.

Tôn Sĩ Nghị đến điện Kim Loan, gặp ngay Hòa Thân bên ngoài Tây Cung Môn. Hòa Thân trố mắt nhìn, thấy Tôn Sĩ Nghị tay đang cầm một vật gì đó, bèn bước tới hỏi thăm năm ba cân chuyện, nhưng mắt không rời bàn tay Tôn Sĩ Nghị. Sau mấy câu thăm hỏi, đuôi cáo đã thò ra, Hòa Thân hỏi:

- Có thể cho tôi xem vật Tôn đại nhân đang cầm không?

- Đại nhân muốn xem thì xem, có gì mà không được.

Hòa Thân cầm xem, té ra đó là lọ đựng thuốc hít làm bằng ngọc minh châu, to bằng trứng chim sẻ, chạm trổ rất tinh vi, trong suốt, óng ánh. Hòa Thân hết lời ca ngợi, cầm chặt trong tay không muốn bỏ ra, nói với Tôn Sĩ Nghị:

- Xem đây là vật ra mắt được không?

Tôn Sĩ Nghị thấy Hòa Thân vòi vĩnh ngay trước mặt, nói thẳng:

- Vật này là để dâng lên Hoàng thượng, xin tâu với Hoàng thượng trước, quả thực tôi không dám trao tay...

Hòa Thân biết khó chơi, vừa cười vừa nói:

- Tôi đùa tí thôi mà.

Mấy hôm sau, Tôn Sĩ Nghị đến Cục Quân cơ, đúng lúc Hòa Thân trực ban. Hòa Thân nói:

- Tôn đại nhân, mời đại nhân xem lọ đựng thuốc hít này, so với cái của ngài thì thế nào?

- Xin cho hạ quan xem.

Hòa Thân đưa lọ đựng thuốc hít ra. Tôn Sĩ Nghị giật mình té ra lọ đựng thuốc ấy chính là cái lọ mình dâng lên Hoàng thượng.

- Kinh ngạc ư. Đây là Hoàng thượng tặng cho ta. - Hòa Thân cười.

Tôn Sĩ Nghị nghi hoặc, bắt đầu dò la thăm hỏi. Hỏi mấy thái giám mới biết không có chuyện ban tặng đó. Thông thường, các vật triều cống từ các địa phương đưa về đều do nội vụ chuyển tấu, Hòa Thân là đại học sĩ kiêm đại thần nội vụ, nên thường dấu không tấu báo hết các vật phẩm lên Hoàng thượng. Các vật phẩm quý hiếm do các nơi triều cống, đều bị Hòa Thân chọn lấy trước làm của riêng cho mình, còn lại những thứ kém hơn mới nộp vào cung.

Một hôm, Vĩnh Tông, hoàng tử thứ bảy, do Phúc Sát Thị sinh ra, hớt hải chạy tìm Hòa Thân. Hòa Thân hỏi:

- Có chuyện gì mà lo lắng thế?

- Ta đánh vỡ chậu cảnh bích ngọc của phụ hoàng, sợ phụ hoàng trách mắng, nên đến đây nhờ ngài tìm cách giúp đỡ.

- Hoàng tử không phải sợ, ngày mai ta sẽ cho một chậu khác.

Hôm sau Hòa Thân bê đến một chậu cảnh bằng ngọc bích cao một thước năm phân, màu sắc còn đẹp hơn, chạm trổ còn tinh vi hơn cái chậu bị đánh vỡ. Hoàng tử VĩnhTông nhận cái chậu, vô cùng cảm kích Hòa Thân.

Tháng bảy, năm Càn Long thứ năm mươi tư (1789), Ngự sử Hòa Lâm tố cáo án sát Hồ Bắc, Lý Thiên Bội dùng thuyền vận chuyển lương thực để chở gỗ cho nhà mình.

Khi Hòa Lâm làm Ngự sử vận chuyển lương thực, sử dụng thuyền công chở gỗ riêng cho mình thì là bình thường. Việc Hòa Lâm tố cáo Lý Thiên Bội là do Hòa Thân chỉ đạo.

Hòa Thân biết, gỗ do Lý Thiên Bội vận chuyển là của Phúc Khang An. Hòa Thân ghen tị, Càn Long đã tin yêu mình, cớ sao lại tin yêu Phúc Khang An. Được vua tin yêu, Phúc Khang An ngạo mạn, không coi ai ra gì. Hòa Thân tìm mọi cách để răn đe Phúc Khang An. Quả nhiên, dịp may đã đến.

Càn Long xem bản tấu, thấy vụ này khá quan trọng, dùng thuyền công để chở gỗ riêng, khiến sông ngòi tắc nghẽn, việc đi lại trên sông nước bị chậm trễ, việc này không thể coi thường, và hỏi Hòa Thân:

- Việc này quan trọng, nên cử ai đi điều tra?

- Việc này xin để Tể phụ A Quế đi mới làm rõ được vụ việc.

Càn Long đồng ý.

Hòa Thân lại chơi cái trò giống như xử lý vụ kho tàng trống rỗng ở Triết Giang trước đây, vừa điều A Quế đi xa, vừa tìm chỗ sai sót của A Quế, vừa tấn công Phúc Khang An. Buộc chặt hai đối thủ tầm cỡ lại mà đánh, như vậy, đỡ tốn sức.

A Quế lên đường đến Hồ Bắc, thăng đường cho gọi Lý Thiên Bội.

Lý Thiên Bội nói:

- Việc này thật ra hạ quan không rõ, việc vận chuyển đường sông năm nay; phần lớn do người con trai cả là Lý Tuần phụ trách, hạ quan bị bệnh nằm tại chỗ nửa năm, không làm việc, nên hạ quan thật tình không biết.

A Quế biết ông ta nói dối, không hỏi thêm, lệnh bắt giam Lý Tuần.

Lý Tuần quỳ xuống công đường nói:

- Lý Tuần khấu kiến đại nhân.

- Ngươi hãy ngẩng đầu lên.

Lý Tuần ngẩng đầu lên, nhìn thấy một cụ già ngồi phía dưới bức hoành phi “Chánh Đại Quang Minh”, mặt như quả táo, chòm râu phất phơ, đôi mày rậm như hai lưỡi dao vắt ngang hai bên, đôi mắt sáng quắc, đầy uy phong.

A Quế thấy ánh mắt Lý Tuần đảo qua đảo lại, biết anh ta hoang mang lo sợ, quát hỏi:

- Bố ngươi dấu diếm không khai, ta đã điều tra biết rõ, nếu ngươi còn dám dấu, ta nhất định sẽ nghiêm trị, lấy đầu ngươi.

- Tiểu nhân quyết không dám dấu tí nào, xin để tiểu nhân kể hết sự việc. Tổng đốc Lưỡng Quảng, Phúc Khang An viết thư cho bố tiểu nhân là Lý Thiên Bội, nói chiến sự với An Nam đang khẩn trương, không có thì giờ rỗi, nhà đang cần một số gỗ để xây dựng, nhờ mua hộ một ít và giúp chuyển về Bắc Kinh. Lúc ấy, bố tiểu nhân bệnh nặng, giao việc này cho tiểu nhân, tiểu nhân giao việc ấy cho người nhà, không ngờ chúng lén lút dùng thuyền công vận chuyển cho Tổng đốc Phúc Khang An 800 khúc gỗ và cho Trưởng lô diêm chính, Mục Đằng Ngạch 400 khúc.

Nghe xong, A Quế liền hiểu ra ngay: Đây là trò chơi khăm của Hòa Thân, đặt ta vào thế khó xử. Nhưng có một điều dám khẳng định là Hòa Thân nhân vụ này đả kích Phúc Khang An, ta nên xử lý việc này thế nào. A Quế suy nghĩ...

Vụ này, đúng là Hòa Thân nhân việc công báo thù riêng, và cũng có thể thông cảm với Phúc Khang An. Phúc Khang An có nhiều công lớn, bình định được Kim Xuyên, dẹp được Tân Giáo ở Cam Túc, và bọn phản loạn Lâm Sáng Văn ở Đài Loan, đánh đông dẹp tây, có thể tha thứ, nay Phúc Khang An làm Tổng đốc Lưỡng Quảng đang đánh nhau với An Nam, không thể thay tướng giữa trận, điều về được; Phúc Khang An đang ở tiền tuyến, nhờ người mua gỗ làm nhà, cũng hợp với lẽ thường, việc dùng thuyền lương chưa chắc đã biết. Hiện nay chống đối với Hòa Thân chỉ có hai người: ta và Phúc Khang An. Ta đã già rồi, khó làm được gì. Phúc Khang An còn trai trẻ, là tướng tài khó có của đất nước, nếu vì việc này xử lý nghiêm Phúc Khang An, khi đất nước có việc, lấy ai làm tướng? Phúc Khang An là tướng được Càn Long yêu mến, lại là con của cố Đại học sĩ Phó Hằng, và cháu của hoàng Hậu, thế nào Hoàng thượng cũng quý trọng.

Suy đi nghĩ lại, A Quế quyết định làm nhẹ bớt sự việc tâu lên Càn Long:

- Cha con Lý Thiên Bội dùng thuyền công chở gỗ cho người khác, lẽ ra phải nghiêm trị. Gỗ vận chuyển tuy là của Phúc Khang An nhưng Phúc Khang An không biết việc này, nghĩ rằng Phúc Khang An có công với nước, xin khỏi phải xét xử.

Càn Long khiển trách A Quế:

- A Quế chịu ơn sâu của Trẫm, biết Trẫm trước nay luôn công bằng chính trực, không thiên vị, vậy mà xin miễn xét xử Phúc Khang An, như thế là bao che. Dù có gia ân luận tội, xử lý phải cân nhắc, nên để Trẫm phán xét, khanh là Tể phụ, cũng không thể vượt qua Trẫm. Lẽ nào, vì Phúc Khang An là con của Phó Hằng, có nhiều công lớn, mà không xét hỏi? Nếu việc này do Phúc Khang An bày ra, A Quế bao che, Trẫm cần phải xét hỏi. Để các đại thần thân tín cùng nhau làm bậy, người như khanh và Hòa Thân chẳng làm được việc gì sao?

Nghe Càn Long nói như vậy, A Quế toát mồ hôi, đó chẳng phải chỉ trích A Quế đã vượt quyền ư?

Càn Long gọi A Quế, Hòa Thân, Hòa Lâm và các vị Đại học sĩ đến cùng bàn xem nên có ý kiến xử lý thế nào.

Án sát Hồ Bắc, Lý Thiên Bội bị cách chức sung vào quân đội ở Y Lê. Phúc Khang An vì lập chiến công đánh An Nam nên vẫn giữ chức và lưu nhiệm, phạt mười năm lương Tổng đốc. Các đại thần xử lý vụ này như: Đại học sĩ A Quế, Tổng đốc Hồ Quảng Tất Nguyên, Tổng quản đường sông Dục Ký, Tuần Vũ Hồ Bắc Huệ Linh... đều bị khiển trách.

Càn Long viết chiếu: “Trẫm lên ngôi hơn năm mươi năm, đúng thưởng sai phạt, kỷ cương nghiêm minh, không thiên vị đại thần người Mãn hay người Hán. Trẫm công minh chính trực, không hổ thẹn với thần dân”.

Hòa Lâm được Càn Long coi như tấm gương chánh trực vô tư, không bao lâu được phong làm Sử khoa Cấp sự trung, sau đó được phong làm Nội các học sĩ, đồng thời kiêm Tả Thị lang bộ Công.

Phúc Khang An đang đắc chí, bị Hòa Thân cho một gậy vào đầu, từ đó, hai người bất hòa nhau.

A Quế và Phúc Khang An lần này bị đả kích mạnh, nhất là A Quế, bị Càn Long mắng là vượt quyền và còn nghi là muốn cướp quyền, từ đó về sau đành lép vế với Hòa Thân, không dám có ý kiến gì với Càn Long, và không còn thực quyền trong Cục Quân Cơ.

Qua vụ việc này, Phúc Khang An biết được thủ đoạn của Hòa Thân và vị trí của Hòa Thân trong con mắt của Càn Long nên làm việc thận trọng. Cho đến lúc chết vấn ngấm ngầm chống đối hai anh em Hòa Thân.

Hòa Thân đắc thắng, mở ra trang sách huy hoàng hơn cho cuộc đời mình.

Ngày 27 tháng 11 năm Càn Long thứ năm mươi tư, Hòa Thân 40 tuổi, cậu con trai Phong Thân Ân Đức vừa đúng 15 tuổi cùng với công chúa Hòa Hiếu Cố Luân tổ chức lễ cưới.

Công chúa thứ mười này được Càn Long vô cùng yêu thương hơn cả hoàng tử như phần trên đã nói.

Trước khi Mãn Thanh vào Trung Nguyên, các con gái của Nỗ Nhĩ Cáp Xích đều gọi là “cách cách”, năm thứ nhất Thanh Sùng Đức, Hoàng đế Thái Tông chính thức đổi hiệu là Đại Thanh, quy định các con gái do Hoàng Hậu sinh ra đều gọi là “Công chúa Cố Luân”, tước vị tương đương thân vương; con gái do phi tần sinh ra gọi là “Công chúa Hòa Thạc”, tước vị tương đương thân vương. Công chúa lấy chồng, chồng gọi là “Ngạch phụ”, người lấy công chúa Cố Luân gọi là “Ngạch phụ Cố Luân”, người lấy công chúa Hòa Thạc gọi là “Ngạch phụ Hòa Thạc”. “Cố Luân” tiếng Mãn là “quốc gia”.

Công chúa Hòa Hiếu thứ mười là do Đôn Phi sinh ra, khi mười ba tuổi được đặc cách phong là Công chúa Hòa Hiếu Cố Luân, và ngày 12 tháng 3 được phép để tóc chuẩn bị lấy chồng. Ngày bắt đầu để tóc, Càn Long tặng cho công chúa khá nhiều gấm vóc vải lụa, châu báu, ngày 26 tháng 3 lại tặng thêm vô số vật quý đồng thời ban thưởng cho Phong Thân Ân Đức.

Ngày 27 tháng 11, bầu trời trong xanh không một gợn mây, mặt trời chiếu sáng khắp nơi. Yến tiệc đã bày ra tại điện Bảo Hòa, khoản đãi Ngạch phụ Cố Luân và các vương công đại thần.

Càn Long khoác áo long bào, tươi cười, đứng giữa điện. Cô con gái yêu quý nhất, viên ngọc trong tay sắp rời, Càn Long bảy mươi chín tuổi vô cùng xúc động, từ đó mất đi niềm khoái lạc, êm ấm.

Công chúa bước đến trước mặt phụ hoàng làm lễ từ biệt, ra khỏi nơi cung cấm từng sống suốt mười mấy năm, từ biệt người cha thân yêu. Càn Long nói:

- Về nhà chồng, chớ cậy quyền quí, hiếu thuận với cha mẹ chồng, tôn trọng chồng con. Càn Long và công chúa rơi lệ.

Đến giờ lành, công chúa Hòa Hiếu khoác chiếc áo dài màu vàng thêu phượng, đầu đội chiếc mũ da báo nạm mười viên ngọc cỡ lớn, bước lên xe hoa. Đi trước xe hoa có đại thần Tổng quản Phủ nội vụ và các quan viên cấp dưới, theo sau có phu nhân Phúc Tấn và các mệnh phụ, hai mươi lính hộ tống, cùng đội ngũ vận chuyển vàng bạc châu báu, đồ dùng gia đình... không sao kể hết. Hai bên đường đi, người đứng xem đông như kiến, trố mắt nhìn của hồi môn được xe thồ, người khiêng.

Đoàn người tiễn đưa công chúa vừa đến phủ đệ Hòa Thân, pháo nổ vang trời, đèn hoa sáng trưng. Vợ chồng Hòa Thân quỳ chào công chúa, đưa công chúa vào nhà. Giờ hợp cẩn đến, có hai đôi vợ chồng, do phủ nội vụ chọn, bưng một mâm thịt đến, quỳ trước mặt công chúa, dùng dao thái nhỏ tảng thịt, rót ba chén rượu, công chúa Hòa Hiếu và Ngạch phụ Cố Luân đối ẩm, mọi người rút lui. Cô dâu chú rể hưởng niềm vui động phòng hoa chúc.

Sáu ngày sau lễ cưới, công chúa cùng ngạch phụ trở về cung. Càn Long ban tặng 30 vạn lạng bạc trắng, cảm thấy ít quá, chưa tỏ hết tình thương đối với công chúa, nên ban thưởng nhiều thêm.

Càn Long tổ chức lễ hồi cung cho công chúa rất linh đình. Bá quan vãn võ khắp nơi kéo về hoàng cung, người nào cũng mang theo lễ vật quý hiếm.

A Quế cũng đến chào công chúa và ngạch phụ. Dù đức cao trọng vọng, tuổi quá cổ lai hy, đầu tóc bạc phơ, đi lại chậm chạp, cũng phải quỳ xuống làm lễ. Khổ thay, ngạch phụ lại là con trai của Hòa Thân. Điều này có một ý nghĩa tượng trưng. Hòa Thân từ đó không ai sánh được, trở thành sủng thần số một, quyền thần đầu bảng không ai đụng đến được.

Càn Long anh minh gả con gái cho con trai Hòa Thân, ban tặng không biết bao nhiêu vàng bạc châu báu, thế nhưng liệu công chúa có hạnh phúc không?