← Quay lại trang sách

Chương 13 RẤT CHI BẨN THỈU-TỘT CÙNG VÔ SỈ

Hoà Thân gả cháu gái cho Miên Khánh, cháu trai yêu quý nhất của Càn Long.

- Hoà Thân lấy gái xuất cung, định thả sức mây mưa trăng gió một đêm, nào ngờ chẳng nên trò trống gì.

- Tô Lăng A đến Giang Ninh làm Tổng đốc Lưỡng Giang, gây nên vụ án oan nghiệt tày trời.

Mấy ngày nay, Hoà Thân bàn với Càn Long việc nên tổ chức lễ cưới cho Miên Khánh như thế nào?

Miên Khánh là con trai của Vĩnh Dung. Vĩnh Dung là con trai thứ sáu của Càn Long. Miên Khánh từ nhỏ rất thông minh, Càn Long vô cùng yêu mến. Hoà Thân sao lại không biết.

Càn Long năm thứ 54, Hoà Thân đưa Càn Long đến Sơn Trang nghỉ mát. Càn Long cũng đưa Miên Khánh, đứa cháu cưng của mình đi. Một hôm Càn Long nhìn thấy mọi người bắn cung. Lúc ấy Miên Khánh mặc võ phục chạy đến, khí thế dũng mãnh. Càn Long nhìn thấy cậu cháu oai phong lẫm liệt bỗng nghĩ đến công chúa thứ mười, nên càng yêu quý Miên Khánh, và nói:

- Cháu cũng biết bắn ư?

- Cháu đã học nhiều năm rồi.

- Cháu thử bắn ba mũi tên xem nào.

Miên Khánh cầm ba mũi tên, lấy sức, kéo căng cung bắn, cả ba mũi tên đều cắm vào giữa bia. Càn Long lại tìm thấy niềm vui của mình, ban thưởng cho Miên Khánh chiếc áo hoàng mã và chiếc đuôi lông công. Miên Khánh không những giỏi bắn cung mà từ nhỏ đã tinh thông âm nhạc, thỉnh thoảng gảy đàn cho Càn Long nghe. Hoà Thân thấy vậy, ghì chặt vào lòng, muốn gả cô con gái của cậu em Hoà Lâm cho Miên Khánh. Càn Long rất vui mừng, như vậy đã thân càng thân hơn.

Miên Khánh và con gái của Hoà Lâm lúc ấy đều đúng mười bốn tuổi, thật ra chưa định tổ chức lễ cưới cho hai cô cậu, nhưng vì Miên Khánh ốm yếu, nên Hoà Thân tâu với Càn Long nên cho họ thành hôn sớm, dùng “vui sướng” để kích thích Miên Khánh khoẻ mạnh lên. Vì vậy mà Hoà Thân và Càn Long bàn bạc nên chọn ngày làm lễ thành hôn cho hai cô cậu. Cuối cùng quyết định ngày 6 tháng 2.

Lúc này đã muộn rồi, Càn Long về cung, nhưng Hoà Thân vẫn đến Cục quân cơ, gặp Phúc Trường An hãy còn ở đấy, hai người nói chuyện với nhau một lát. Phúc Trường An nói:

- Việc bố trí cho Thầm Lộ phụ trách lương thực như thế nào?

- Người khác thì không nói, riêng Vương Kiệt thì không tán thành. Đúng là tảng đá trong hố xí, vừa thối vừa rắn. Hoà Thân đáp.

Lúc này, A Quế đã lâu ngày công tác nơi xa không có mặt ở Cục quân cơ, chỉ còn có hai người là Vương Kiệt và Đổng Hạo là dám tranh cãi với Hoà Thân. Lần này, vừa đúng lúc Đổng Hạo vắng mặt, Cục quân cơ chọn người phụ trách lương thực, Hoà Thân giới thiệu Thầm Lộ, Vương Kiệt không tán thành, nên phải tâu lên Hoàng thượng, Hoà Thân bị trách mắng.

Thầm Lộ là người cậu út của Phúc Trường An, tuổi trẻ, rất xảo quyệt, nhưng không có tài, Vương Kiệt tâu lên Hoàng thượng. Hoàng thượng cả giận.

Hoà Thân nói với Phúc Trường An:

- Không hiểu vì sao Hoàng thượng cũng bị Vương Kiệt làm mê muội đến thế.

- Lẽ nào hắn trong trắng như gái trinh, nhỏ nhẹ như con gái? Phúc Trường An nói.

- Bác nói như vậy, tôi lại có cách này. Hoà Thân cười nói, và kề mồm vào tai Phúc Trường An thì thầm.

Cả hai đều cười và kẻ trước người sau đến thẳng nhà Vương Kiệt. Hai người biết rõ hàng ngày Vương Kiệt về rất muộn, nên đoán rằng Vương Kiệt còn ở lại trong phòng làm việc, họ đẩy cửa phòng, một luồng hơi ấm toả ra, lò sưởi nóng rực, chiếc áo khoác của Vương Kiệt cởi ra để đó. Nhìn thấy Hoà Thân bước vào, Vương Kiệt hỏi:

- Có việc gì mà hai vị đến muộn thế này?

- Thấy ngài suốt ngày cặm cụi làm việc, đến đây giải sầu với ngài. Hoà Thân vừa nói vừa bước đến bên người Vương Kiệt.

Vương Kiệt nhìn thấy ánh mắt đắm đuối của Hoà Thân, biết rằng có chuyện không hay, vừa né vừa lùi. Lúc này Phúc Trường An bước đến, Vương Kiệt khó chạy thoát.

- Anh em ơi, đùa một tí, vui vẻ đi nào. Hoà Thân vừa nói vừa ôm choàng lấy Vương Kiệt và hôn mấy cái lên môi Vương Kiệt. Vương Kiệt hai tay níu áo Hoà Thân. Hoà Thân nắm hai tay Vương Kiệt, rồi nói:

- Lần trước ta khen tay ngài trắng nõn mềm mại, ngài chẳng hiểu lòng tốt của ta, không biết ta yêu ngài, lần này ngài thấy rõ ta rất yêu ngài.

Vương Kiệt tí nữa ngất đi. Hoà Thân bất chấp, cởi hết cúc áo Vương Kiệt, cởi cả thắt lưng, tuột cả áo quần Vương Kiệt. Lúc này Hoà Thân nóng rực cả người. Hoà Thân nhiều lần nằm mơ thấy cùng Vương Kiệt vui vẻ nhưng không thành, cứ đến lúc ấy thì bị người khác phát hiện. Hôm nay thật đẹp, chẳng phải nằm mơ, Hoà Thân nghĩ vậy, và khẳng định rằng lần này vui vẻ gấp ngàn vạn lần với Nữ Hỷ Thần... Đang lúc đó, bỗng nhiên một viên than hồng rơi đốt nóng mông, Hoà Thân thét lên một tiếng, thế là mất hứng. Phúc Trường An thấy thế, từ ngoài cửa chạy vào, vực Hoà Thân dậy. Vương Kiệt vội vàng chỉnh đốn quần áo, bước ra ngoài.

- Nhanh lên, mặc áo quần cho ta, nhanh lên... Hoà Thân thét.

Phúc Trường An giúp Hoà Thân mặc nhanh quần áo, đưa về nhà mình. Vương Kiệt dẫn người đến tìm chẳng thấy đâu.

Vương Kiệt vô cùng tức giận, nhưng không có cách nào tố giác Hoà Thân. Việc đó ai cũng cho là hoang đường vô lý. Vương Kiệt xin nghỉ, bực tức nằm nhà, bỗng người nhà vào báo cáo Trần Mỹ đến. Vương Kiệt bảo: “Mời ông ta vào”.

Trần Mỹ là người Hải Diêm, làm ở bộ Lễ, Vương Kiệt chủ quản bộ Lễ, là cấp trên của ông ta.

- Ngài đến có việc gì, bỗng dưng đến nhà tìm ta. Vương Kiệt hỏi.

- Không biết Hòa Thân mắc bệnh gì, không gọi thầy thuốc đến chữa mà lại gọi tôi, tôi đến đây báo cáo với ngài, có nên đến đó hay không.

- Cứ đi đến đấy chữa cho ông ta.

- Thuộc hạ chẳng biết mô tê gì cả.

- Tên gian thần tặc tử đó, ngài đầu độc cho hắn chết đi, nếu không giết chết hắn, ngài chớ đến đây gặp tôi.

Trần Mỹ mặt tái xám. Vương Kiệt lại nói:

- Ngài là môn sinh do ta cất nhắc, là người hiểu ta, ta nói đây không phải do xúc động nhất thời, nếu ngài giết chết hắn, thì đúng là ngài đã vì thiên hạ trừ được một tên giặc, trừ được một tai họa lớn.

- Học trò sẽ tùy cơ ứng biến.

- Ngài đi đi, nhất định phải đầu độc cho hắn chết!

Trần Mỹ đến phủ Hòa Thân. Phủ Hòa Thân đang bận rộn chuẩn bị cho lễ cưới của con gái Hòa Lâm. Vì lúc ấy Hoà Lâm đang ở Tứ Xuyên, không thể về nhà, mọi việc cưới xin đều do Hòa Thân lo liệu.

Trần Mỹ được đưa vào một căn phòng, nhìn thấy Hòa Thân nằm sấp trên giường.

- Nghe nói ngươi biết chữa trị vết thương do vật bằng sắt gây nên, có phương thuốc gia truyền chữa trị vết bỏng, dao chém, nên mời ngươi đến đây chữa trị cho ta. Hòa Thân nói.

- Vết thương ở chỗ nào? Trần Mỹ hỏi.

- Ở dưới mông.

Trần Mỹ lật chăn ra, nhìn thấy trên chiếc mông trắng bệch của Hòa Thân có một chỗ bị cháy sém, bèn nói:

- Tại sao bị bỏng ở chỗ này, vết bỏng khá nặng... Đây là vết bỏng do than hồng gây nên, đã qua một ngày đêm, giá mà gọi tôi ngay thì hôm nay đã đỡ đi nhiều, đã cách một ngày đêm, thời gian khá lâu, giờ tôi cho thuốc e hiệu quả không tốt lắm.

- Ngươi hãy cố hết sức, ta đang có việc đại sự phải lo, không có ta không được.

- Tôi có loại thuốc trắng, thuốc gia truyền, lúc bị thương uống ngay, rất là thần nghiệm, để lâu thế này, hiệu lực kém đi. Nhưng tôi có một loại thuốc khác, có thể hoạt huyết nhuận bì, trộn chung với loại thuốc trắng kia uống, chắc chắn vết thương chóng lành.

- Như vậy càng tốt.

Nào ngờ, Hoà Thân nhìn thấy trong lúc trộn thuốc, Trần Mỹ hai tay run lên, mắt lắc láo, nên nghĩ ra một kế, đợi khi Trần Mỹ đem thuốc đến cho mình bèn thét lên:

- Đây là thuốc độc.

Trần Mỹ sợ run lẩy bẩy, bát thuốc cầm trên tay rơi choang xuống đất. Hoà Thân tức giận:

- Tại sao ngươi định hại ta. Có phải Vương Kiệt bảo không?

- Làm gì có chuyện ấy. Vì sao lại nói như vậy?

- Thuốc rơi dưới đất kia là thuốc độc, người còn dám chối cãi ư?

- Đó là thuốc chữa trị cho đại nhân, sao lại nói là thuốc độc?

Bọn gia nô bắt Trần Mỹ lại. Trần Mỹ nói:

- Đây quả là lấy oán báo ân.

- Bắt chó vào đây. Hoà Thân bảo

Bọn gia nô hiểu ý. Bắt hai con chó đến. Nào ngờ cả hai con sau khi liếm hết số thuốc rơi đổ dưới đất, chẳng chết mà còn chạy nhảy hăng hơn, chẳng khác nào trai gái đang cơn hưng phấn. Ý đồ của Trần Mỹ là dùng cách “dương” sát, tức là cho Hoà Thân uống loại thuốc thần dương hoả nhiệt để vết thương chóng lở loét, phát sốt mà chết, nào ngờ việc không thành, Hoà Thân đâu có biết. Trần Mỹ nói:

- Tướng phụ trách oan tôi, xem hai con chó kia vô cùng khoan khoái, vừa liếm xong chỗ thuốc đã phấn chấn lên rồi, nếu tướng phụ uống, tinh thần tăng lên trăm lần.

- Ta đã mắng oan ngươi rồi, ngươi làm lại thuốc đi.

Trần Mỹ định lấy thuốc thuần dương hoả nhiệt, nhưng không còn nữa. Loại thuốc này rất khó tìm, thường không mang theo người. Vì thế đành cho Hoà Thân uống loại thuốc trắng không thôi và xoa rượu thuốc lên vết thương. Hoà Thân giữ Trần Mỹ lại, cám ơn và mời cơm. Nhưng thực ra là nghi ngờ muốn giữ Trần Mỹ lại, giả thử có trúng độc thì giải độc ngay. Quả nên sau hai giờ vết thương đã bắt đầu đóng vảy. Hoà Thân cả mừng nói:

- Thần hiệu thật.

- Loại thuốc kia, chỉ một tí thôi, lành ngay, nhưng đã hết rồi. Trần Mỹ nói.

Trần Mỹ đem chuyện ấy nói lại với Vương Kiệt. Vương Kiệt nói:

- Thế là mạng hắn chưa hết, hắn quá ranh mãnh, còn ngài thì không vững tâm khi lâm trận.

Từ đó về sau, Hoà Thân gặp Vương Kiệt cũng không dám sỗ sàng xông tới. Vương Kiệt thì tìm mọi cơ hội để giết Hoà Thân, hễ thấy Hoà Thân là ghét cay ghét đắng. Hơn một năm sau, rời khỏi Cục quân cơ, mãi đến lúc Hoà Thân bị hất nhào, Vương Kiệt mới trở lại Cục quân cơ.

Hoà Thân khỏi bệnh, chuẩn bị cho việc hôn nhân của cô cháu gái. Hoà Thân rất yêu cậu em, hai anh em từ nhỏ sống chết có nhau, nếm đủ mùi gian khổ. Giờ đây gả con lấy chồng, Hoà Lâm lại không thể tự mình chủ trì việc hôn nhân, Hoà Thân phải thay Hoà Lâm vậy. Cùng với cháu trai là Phong Thân Nghi Miên chủ trì hôn lễ.

Phong Thân Nghi Miên hơn Phong Thân Ân Đức mấy tuổi làm việc thành thạo chắc chắn, con nhà có truyền thống học hành, thi thơ nhạc đều thạo. Hoà Thân thấy cậu cháu tài đức kiêm toàn, lòng rất vui mừng, nên vợi đi nỗi buồn nhớ nhung người em.

Hoà Thân tuy bản thân cực kỳ xa xỉ, nhưng với con cái thì lấy tư tưởng nhà nho giáo dục, bảo con cái phải tiết kiệm; bản thân chống lại những ai khác với mình, ai theo mình thì sống, ai chống lại thì chết, hãm hại người trung lương, nhưng lại dạy bảo con cái quên mình vì nước, liêm chính vô tư.

Thấy cháu trai Phong Thân Nghi Miên trưởng thành như vậy, Hoà Thân sung sướng; thấy cháu gái bước tới trước bái biệt mình, ông không cầm nổi nước mắt, nói: “Cha cháu không thể về tiễn cháu, cháu cũng không nên quá nhớ cha cháu, về nhà quận vương, không giống như ở nhà mình, mọi việc phải cẩn thận chu đáo, phải hiếu kính Phúc Tấn, tôn kính quận vương..”

Hôn lễ được tổ chức sang trọng và rầm rộ, lễ vật tặng phẩm của các quan lớn nhỏ ở kinh và khắp nơi đưa đến chất như núi.

Hôn lễ của cháu gái vừa xong, Hoà Thân nghe tin có mấy cung nữ sắp xuất cung, không tiện trực tiếp hỏi Càn Long, nên gặp tổng quản thái giám căn dặn: “Khi Hoàng thượng tuần du phương nam, có đưa về một đoá Hoa Hồng đen từ Giang Nam, tổng quản lưu ý cho. Nếu Hoàng thượng tuổi cao hết ham muốn, thải cung nữ ra ngoài, ngài báo cho tôi biết”. Viên Tổng quan đâu đám không vâng lời đại thần phủ nội vụ, sau khi được thánh chỉ thải hồi cung nữ, liền thải hồi Hoa Hồng đen ra khỏi cung. Hoà Thân mừng quá sức mơ tưởng, vội vàng đến Thục Xuân Viên.

Trong Bế Nguyệt Lâu ở Thục Xuân Viên, Hoà Thân đã vớ được Hoa Hồng đen. Hoà Thân nói:

- Từ khi nhìn thấy cô em trên chiếc du thuyền ở Giang Nam, ta thật hối hận, tối hôm đó ta đã say mê dân đào hát, mười năm qua ta luôn mơ tưởng đến cô em. Hôm nay ta đã mãn nguyện.

Không ngờ Hoa Hồng đen đáp lại:

- Ái dà, giống như tì thiếp vậy, hôm ấy trong du thuyền, họ để thiếp hầu một đại nhân phong lưu tuấn tú, thiếp thật không bằng lòng, họ nói đó là Hoà đại nhân, lúc bấy giờ tuy thiếp ở chốn lầu xanh, nhưng cũng đã nghe tên Hòa đại nhân. Nào ngờ, đến nửa đêm, một ông lão bước vào, hỏi ra mới biết đó là Hoàng thượng, tất nhiên em rất vui mừng, không ngờ sáng hôm sau lại gặp Hòa đại nhân, tiện thiếp rất mến đại nhân. Nhưng vì gần trong gang tấc mà khó tỏ nỗi lòng, sau đó Hoàng thượng đưa về cung. Thân tuy ở chốn nhà cao cửa rộng, phận nô tỳ bị giam cầm, song làm sao giam cầm được lòng dạ của nô tỳ. Nô tỳ luôn mơ tưởng đến đại nhân.

Hòa Thân máu nóng sục sôi, ôm cô vào lòng. Hoa Hồng đen ngước mặt thè lưỡi, hai người mút lưỡi với nhau, vạn lời tâm sự chứa ẩn trong đó. Hoa Hồng đen nhẹ nhàng từ từ tuột hết áo quần của mình và của cả Hòa Thân, ôm chặt lấy Hòa Thân. Hòa Thân cảm thấy mạch máu toàn thân căng lên, đè lên người Hoa Hồng đen, lát sau, Hoa Hồng đen cảm thấy là lạ, bèn ra sức trổ hết tài nghệ, nhưng rồi hiểu ngay rằng Hòa Thân đã xịu và nằm lăn ra một bên.

Hoa Hồng đen cố kiềm ngọn lửa dục, ôm Hòa Thân vào lòng, an ủi:

- Trước nay có thế không?

- Trước nay đâu có vậy.

- Chắc là đại nhân nhớ thiếp lâu ngày, nay gặp nhau quá vội vàng, nên không thể.

Hai người an ủi lẫn nhau, rồi lại bắt đầu trở lại.

Sáng hôm sau, Hòa Thân đến phòng của Đậu Khấu. Đậu Khấu vẫn chưa dậy. Nhìn thấy Hòa Thân mặt mày bơ phờ. Đậu Khấu trách: “Những thứ trong cung đều là vật ngon, xem mặt mũi ông bơ phờ, đủ biết tối qua mây mưa trăng gió suốt đêm”.

Hòa Thân chẳng nói chẳng rằng, vội cởi áo quần, nhảy lên mình Đậu Khấu, thi thố tài năng, chẳng xoàng chút nào. Đậu Khấu thấy Hòa Thân mặt mày bơ phờ, nhưng chơi còn hăng hơn, hôm trước. Xong việc mới nói: “Quân lang nên chú ý đến sức khỏe”. Hòa Thân cũng chẳng nói một tiếng. Mấy ngày liền, Hòa Thân phờ phạc uể oải. Ngay đến Hoàng thượng và Phúc Trường An cũng nhận thấy thế, khuyên ông giữ gìn sức khỏe. Hay là có bệnh gì không?

Quan hệ giữa Phùng Thị (vợ Hòa Thân) và Đậu Khấu rất tốt. Một hôm, Phùng Thị nói với Đậu Khấu:

- Từ khi nhận con da đen ở trong cung ra, tinh thần của lão gia luôn luôn không ổn định, chị khuyên lão gia, lão gia cười, nói chẳng hề gì. Nhưng xem tinh thần lão gia, rõ ràng lão gia đã thái quá.

- Mợ yên tâm, em thấy tinh lực lão gia không có gì là bất ổn đâu, mấy buổi sáng từ nơi con da đen đến chỗ em, lão gia hăng lắm cơ. Đậu Khấu nói.

- Chẳng trách mấy hôm nay lão gia đến chỗ ta hơi muộn.

- Em sẽ chú ý nghe ngóng thêm.

Sáng hôm đó, Hòa Thân lại đến chỗ Đậu Khấu, theo lệ, hung hăng một trận. Đậu Khấu nói:

- Lão gia ngày nào cũng thế này, bà chị sẽ buồn phiền sinh bệnh, lão gia cứ như thế này, rốt cục để làm gì? Nếu quả có bệnh, hãy mau chữa trị, và nói với mọi người một tiếng, bà chị ở bên ấy buồn lắm.

Hòa Thân vừa nghe nói vợ buồn sinh bệnh, vội vàng ngồi dậy nói:

- Ta chẳng có bệnh tật gì cả.

- E người đàn bà kia có bệnh? Thiếp nghĩ rằng, các cô gái trong cung nhất định không thể không có bệnh.

- Ta đã nói. Là ta không thể...

- Dù lão gia không nói, thiếp cũng phải hỏi điều đó, thiếp đã suy nghĩ lâu rồi.

- Lạ thật, ở nơi nàng thì được, còn ở đàng kia vì sao không được?

- Thiếp có một cách này, bảo đảm không sai.

- Vậy, nàng nói ngay ra.

- Tối nay đến đấy, chớ nói năng gì cả, cho cô ấy mấy tát tai, mắng cô ấy là đồ đê tiện, và không được nghĩ đến người đàn ông đó, chỉ nghĩ đến Nạp Lan, thế thôi.

- Tại sao thiếp biết chuyện ta với Nạp Lan? Tại sao thiếp biết ta đang nghĩ đến người đàn ông đó?

Đậu Khấu thở dài, nũng nịu mơn trớn Hòa Thân, ôm Hòa Thân vào lòng như ôm một đứa trẻ, và chẳng trả lời.

Quả nhiên, tối đó Hòa Thân đến Bế Nguyệt Lầu. Hòa Thân lại cởi áo quần ra. Hoa Hồng đen nói: “Tướng phụ không nên cố gượng, qua mấy ngày là tự nhiên trở lại như thường. Hôm nay nghỉ thôi, tướng phụ làm như vậy em rất đau khổ, em nói ra các lời không nên nói sau đây, nếu hôm nay không được nữa, tướng phụ lại muốn vui đùa với thiếp thì phải cho thiếp gọi thái giám đến”. Nghe thế, Hòa Thân tát đôm đốp vào mặt Hoa Hồng đen, và xé nát quần áo cô ta. Hoa Hồng đen sợ quá vội nói: “Tướng phụ tha mạng, tiện thiếp nói bậy. Xin tướng phụ tha mạng...”. Hòa Thân chẳng nói chẳng rằng, cho liền mấy chưởng. Hoa Hồng đen một mực xin tha. Hòa Thân xé nát quần áo cô ta... một trận cuồng phong bão táp. Hai người nhìn nhau không nói một câu, nhìn nhau một hồi lâu, Hòa Thân vùng dậy, như con tuấn mã cưỡi lên mình Hoa Hồng đen...

- Lão gia không có bệnh, mợ yên tâm. Đậu Khấu nói với Phùng Thị.

- Sao em gọi chị là mợ, chúng ta coi nhau như chị em cơ mà. Phùng Thị nói.

Quả nhiên, từ đó về sau Hòa Thân dồi dào tinh lực.

Phúc Trường An hỏi:

- Đại ca tìm được thuốc gì hay vậy, nhượng lại cho tiểu đệ một ít.

Càn Long thì nói:

- Chớ nên uống loại thuốc cường dương, tổn thọ đấy, vả lại nó là thuốc độc.

Hòa Thân chỉ cười.

Nào ai biết được, Hòa Thân bận rộn việc gả chồng cho cô cháu gái, sau đó lại phờ phạc xơ xác mấy hôm, và xảy ra một sự kiện lớn.

Một hôm, Lưu Dung đến kho bạc phát bạc, nom thấy mấy người từ trong kho vội vàng chạy ra, trông vẻ lén lút. Lưu Dung giả vờ không biết, đưa trình công văn có dấu ấn của Hoàng thượng và chữ ký của bộ Hộ, bước vào kho, phát hiện bạc mất dấu. Ông vờ lờ đi, phát bạc xong, đi ngay. Về nhà, ông bí mật cử một thị vệ khỏe mạnh, theo dõi mấy tên lính giữ kho. Các thị vệ nhìn thấy rõ ràng, mấy tên lính giữ kho nhét bạc vào thắt lưng đi về nhà. Trên đường về bị bắt quả tang.

Lưu Dung cho áp giải bọn chúng đến, hình cụ tra tấn sẵn sàng, bọn chúng đều khai rằng, mấy hôm vừa rồi đã nhiều lần đánh cắp bạc trong kho. Lưu Dung ghi khẩu cung, bọn chúng lăn dấu tay. Lưu Dung thu số bạc lại và cho quân lính đến lục soát nhà bọn chúng, phát hiện được số bạc bị đánh cắp.

Màu sắc và trọng lượng của bạc trong phủ kho khác với ngoài thị trường. Lưu Dung chuyển tang vật và khẩu cung lên Hoàng thượng. Càn Long cả giận, triệu gấp Hòa Thân, hỏi:

- Hòa Thân, khanh là đại thần quản kho, đã giáo dục, kiểm tra kỹ những người giúp việc chưa?

- Nô tài xưa nay quản lý và kiểm tra rất nghiêm những người giúp việc.

- Phẩm hạnh của Hải Thành và những người khác thế nào?

- Họ là hậu duệ của Mãn Kỳ chúng ta. Phẩm hạnh đoan chính, tuyệt đối không có vấn đề gì.

- Đúng thế không?

- Nô tài đâu dám lừa dối Hoàng thượng.

Càn Long đưa bản tấu của Lưu Dung cho Hòa Thân xem và nói:

- Khanh xem đi.

- Làm gì có chuyện này. Chẳng qua là Lưu Dung căm giận nô tài, vu cáo hãm hại nô tài. Hòa Thân cả kinh, đáp.

- Nhân chứng, tang vật đều bắt được, khanh còn chối cãi sao được. Đây là do khanh, hàng ngày thiếu kiểm tra đôn đốc.

- Xin cho nô tài thẩm tra xem lại khắc rõ.

- Khanh được Trẫm sủng ái, bao che cho thuộc hạ, cho rằng Trẫm không biết ư? Bây giờ người và tang vật đã bị tóm, đã quá rõ rồi, khanh còn thẩm tra, thẩm tra cái gì?

Nhìn thấy Càn Long tức giận, Hòa Thân vội tâu:

- Nô tài đã phụ lòng tin của Hoàng thượng, thiếu kiểm tra đôn đốc, xin trị tội nô tài. Nói xong quỳ mọp xuống sàn đất.

- Mấy hôm nay khanh bận việc nhà, không quản lý chặt thuộc hạ, Trẫm cũng không trách khanh, nhưng cứ bao che, còn ra thể thống gì nữa.

- Đều do kiến thức của nô tài nông cạn, nặng cảm tình với thuộc hạ, Hoàng thượng dạy bảo là phải, từ nay nô tài xin nhất định quản lý nghiêm bọn thuộc hạ. Nếu phạm lại, xin trị tội nô tài.

- Thôi được rồi. Mấy tên lính giữ kho nên xử lý thế nào?

- Đày đi Hắc Long Giang.

- Việc này giao cho các đại thần bàn bạc.

Đại học sĩ A Quế, Lưu Dung, Mục Hoàng đều cho rằng bọn lính giữ kho nên chém, Hòa Thân quản lý không chặt, lại là đại thần quản kho, nên cũng có tội.

Hải Thành, lính giữ kho, xử chém, những người khác sung vào đội quân ở Y Lê, Hòa Thân giáng hai cấp.

Tô Lăng A được Càn Long và Hòa Thân cho làm Tổng đốc Lưỡng Giang. Khi đến nhận nhiệm vụ, đề đốc học chính,... đều ra khỏi thành đón tiếp. Cái bụng phệ của Tô Lăng A nhô ra khỏi thùng xe, tiếp đến là chiếc đầu nom như cái đấu. Ông chắp hai tay, mồm hà hà chào mọi người. Các quan lần lượt tự giới thiệu. Trước tiên là đề đốc học chính, rồi đến bố chánh sứ, án sát sứ, tiếp theo là hai quan phiên, niết, các quan trong dinh phủ, và một số tri phủ huyện lệnh.

Trong số các quan chức đó, có một người khiến ông rất không hài lòng là quan học đài, xem ông chẳng ra gì, nụ cười bí ẩn. Theo quy chế quan chức triều Thanh, quan học đài bất kể chức vị cao thấp, khi làm học chánh, địa vị ngang với đốc phủ. Cũng theo lễ chế triều Thanh, các quan đồng cấp khi chào hỏi, nếu đối phương cung kính làm lễ thế nào thì mình cũng phải như vậy. Lưu Dung đã từng chơi xỏ Hòa Thân theo cách đó. Thế nhưng, Tô Lăng A cảm thấy vị học đài này chướng mắt, tuy nói tương đương với ta về cấp bậc, nhưng là tương đương thôi, làm sao vênh váo trước mặt ta được, huống chi là trước mặt các quan trong toàn tỉnh. Hai quan phiên đài và niết đài là hai nhân vật nắm thực quyền mà còn hết sức cung kính ta, tươi cười với ta, mỗi khi nói là cúi đầu, uốn gối, rất khiêm tốn. Vị học đài có gây cho ông khó chịu nhưng chẳng ảnh hưởng gì đến ông, ông vẫn là tổng đốc Lưỡng Giang, nắm quyền lớn quân sự - chính quyền của mấy tỉnh, ông là hoàng đế của vùng này. Hoàng đế, ôi, ta cũng là hoàng đế. Ta đúng là hoàng đế của mảnh đất “thiên đường” miền hạ du Trường Giang này. Nghĩ đến đấy, da bụng ông căng phồng, mũi ông ngước lên trời cao.

Bỗng nhiên ông sực nghĩ ra điều gì đó, vì sao Đô thống tướng quân không đến? Nhìn kỹ chỉ có mấy vị phó sứ, có lẽ lúc giới thiệu không để ý đến ông ta.

Hôm sau, hai vị phiên đài và niết đài đến bái kiến. Mỗi vị tay cầm vật phẩm đặt lên bàn, rồi khom người vái chào. Tô Lăng A mời hai vị ngồi và nói:

- Hoàng thượng ân dày đức lớn, cho tôi về đây tìm cỗ quan tài. Hai vị phiên đài và niết đài vội vàng nói:

- Đại nhân tuổi cao đức trọng, sao lại nói thế, chúng tôi đều là thuộc hạ, đâu dám không hiếu kính đại nhân, xin đại nhân vui sống tuổi già.

- Tổng đốc đại nhân mới đến nhận chức, tiền mua sắm nhà cửa chắc là chưa đủ, hạ quan đã chuẩn bị cho tổng đốc đại nhân một vạn lạng bạc trắng. Vị niết đài nói xong, đặt tờ ngân phiếu lên bàn.

- Vừa mới đến, đã làm phiền các vị, thật chẳng tốt chút nào.

- Bản quan cũng xin góp một vạn lạng, xin tổng đốc đại nhân nhận cho. Viên bố chánh sứ nói.

- Được được, nhận tất, nhận tất. Sau này sẽ chiếu cố cho nhau, chiếu cố cho nhau. Tổng đốc Tô Lăng A nói.

Sau khi bố chánh sứ, án sát sứ đi rồi, học đài đại nhân bước vào, cúi đầu làm lễ. Tô Lăng A ngồi im không thèm đứng dậy, chỉ chú ý nhìn viên ngọc như ý và tấm ngân phiếu hai vạn lạng của hai vị phiên đài và niết đài vừa biếu, liếc mắt nhìn vị học đài nói:

- Mời ngồi.

- Hạ quan đến muộn, mong tổng đốc đại nhân lượng thứ.

- Ngài và tôi đứng ngồi ngang nhau cơ mà? Đó là qui định của Đại Thanh, ngài còn nhớ rõ chứ, ái dà!

- Nếu hạ quan có gì mạo phạm, xin thứ tội.

- Hoàng thượng ân dày đức lớn, cho tôi về đây tìm cỗ quan tài.

- Lần đầu mới gặp, hạ quan không mang theo lễ vật, xin đại nhân lượng thứ.

Tô Lăng A lờ đi. Vị học đài thấy nói chuyện không ăn ý nhau, nên đứng dậy bước đi nghĩ bụng: gặp nhau là vòi quà cáp, tổng đốc gì mà lạ vậy.

Cứ mỗi lần có thuộc hạ đến bái kiến, Tô Lăng A chỉ nói mỗi câu: “Hoàng thượng ân dày đức lớn, cho tôi về đây kiếm cỗ quan tài”.

Tô Lăng A nhận chức xong, hạch tội Đô thống tướng quân sao không đến bái kiến. Thuộc hạ bẩm báo, gần đây bọn cướp biển quấy phá, gây tai họa cho dân chúng, tướng quân cầm quân truy lùng bọn giặc. Tô Lăng A nói: “Truy lùng bọn cướp quan trọng hơn đón tiếp bản quan ư?”.

- Bẩm báo, tướng quân Dương Thiên Tương đến gặp.

- Mời vào.

- Thuộc hạ áp giải mấy tên cướp biển đến gặp đại soái.

- Tướng quân thật vất vả. Bọn chúng nguy hiểm lắm không?

- Bọn cướp biển gây tai họa suốt ngàn dặm miền duyên hải cấu kết với người phương Tây và biển đông, quả thực là bán nước.

- Bắt được cả chứ?

- Bắt giết một số, còn số lớn vẫn tác oai tác quái trên biển, hôm nay giải về đây mấy tên đầu sỏ, xin đại soái xét hỏi.

- Đưa mấy tên đầu sỏ vào.

Ba tên được áp giải vào, một tên lớn hơn, độ 40 tuổi, hai tên kia còn trẻ măng. Tô Lăng A hỏi:

- Các ngươi là thủ lĩnh?

- Chúng con là thường dân, nhà ở Lạc Thanh, Ôn Châu, gia đình có người già con trẻ, có ruộng vườn ở đấy làm sao có thể sinh sống bằng nghề cướp biển. Chẳng qua bọn cướp biển bắt tiểu nhân, cướp đoạt hết tài sản của chúng con, tướng quân Dương Thiên Tương đến cứu chúng con.

- Hai tên kia phải không?

- Tiểu nhân tuy là cướp biển, nhưng chỉ là tòng phạm thôi. Hai tên trai trẻ đáp.

- Ngươi đã nhận là quân cướp, vậy tên bên cạnh là thủ lĩnh của ngươi phải không?

- Chúng con chẳng biết hắn là ai, chỉ nghe nói có bắt được người ở Lạc Thanh, và cũng chẳng rõ có phải hắn không.

Tướng quân Dương Thiên Tương nói:

- Đại soái chớ tin lời bọn chúng. Dân chúng khắp nơi, ai mà không biết Lý Nguyên Long là cướp biển, rõ ràng ba tên này lừa bịp đại soái. Dương Thiên Tương nói.

- Ta xét hỏi hay là ngài xét hỏi. Ta hay ngài. Ở đây ai là quan lớn nhất? Anh xét hỏi phải không? Tổng đốc Tô Lăng A cả giận, vừa nói vừa đứng dậy, đến trước Dương Thiên Tương nói: - Hoàng thượng ân dày đức lớn, cho ta về đây kiếm cỗ quan tài. Nói xong, nhìn Dương Thiên Tương, thấy không có phản ứng gì, nói tiếp: - Ngài bắt nhầm dân chúng, muốn mạo nhận để lãnh công ư?

Dương Thiên Tương nói:

- Ba tên ấy đúng là trùm phỉ, xin đại soái xét hỏi rõ ràng, chớ để bọn chúng đánh lừa.

- Ta đây dễ mắc lừa? Ngài cho rằng ta không thể xét hỏi được ư? Ngài đi đi, để đó cho ta.

- Thưa vâng. Dương Thiên Tương chào xong bước đi.

Tô Lăng A nói:

- Các ngươi định lừa tổng đốc này ư, đáng tội gì?

Tên Lý Nguyên Long nói:

- Con đúng là người dân ở Lạc Thanh, nhà cửa ruộng vườn ở đấy. Nhà cũng khá giàu có, vàng bạc châu báu chẳng thiếu thứ gì, bọn cướp biển muốn cướp gia sản của con, để đề phòng bọn chúng, con đã đem dấu của cải, nên chúng bắt con, buộc người nhà đem tiền chuộc lại. Nếu con là trùm cướp, lẽ nào bọn cướp không nhận ra con. Nếu con là tên cướp biển, thì sao lại có nhà cửa ruộng vườn ở Lạc Thanh.

- Nói dối, tra tấn hắn!

- Ông trời ơi! Sao coi lương dân như tên cướp thế này! Lý Nguyên Long quỳ xuống đất khóc than.

- Nhìn cung cách của ngươi, đúng là ngươi bị oan rồi.

Lý Nguyên Long rút ra từ trong áo một viên minh châu cực lớn. Tô Lăng A vừa nhìn thấy đã trố mắt ra. Trước nay ông chưa từng thấy viên ngọc nào to như thế, lóng lánh ánh sáng chói mắt. Và nghe Lý Nguyên Long nói:

- Nếu đại nhân cho con là trùm cướp biển, giết chết con, con cũng đồng ý. Nhưng viên minh châu dấu trong người này, không thể chôn vùi cùng thi thể, minh châu lại thành ám châu. Thảo dân xin hiến dâng nó cho đại nhân, chỉ cầu xin sau khi con chết, cả nhà con được yên lành.

Tô Lăng A cầm lấy viên ngọc, nâng niu trên tay, nói:

- Như vậy, ngươi bị oan rồi. Ta cũng không hạch tội Dương Thiên Tương. Nói xong, thả ngay Lý Nguyên Long ra, lạnh lùng lệnh áp giải hai tên trai trẻ kia vào đại lao.

Không ngờ, Dương Thiên Tương xông vào thét lớn:

- Đại soái sao lại dễ dàng thả hắn ra như vậy. Hắn là tên trùm phỉ đã nhiều năm gieo rắc tai họa cho dân chúng, ai cũng biết. Chỉ trong vòng mấy năm nhà hắn giàu to, của cải ở đâu ra? Sao đại soái lại thả hắn ra?

- Ngài dám la ó trước công đường, tống khứ ông ta ra ngoài.

- Ông là tên quan thối nát, cùng một duộc với bọn cướp biển, ta sẽ tố cáo ông. Dương Thiên Tương nói xong bỏ đi.

Hai tháng sau, Lý Nguyên Long cùng hai cậu con trai, mang theo 5.000 lạng bạc trắng, một cây san hô, mười mấy viên ngọc trai, đến nhà Tô Lăng A, và nói:

- Tôi đưa hai đứa con tôi đến đây, nếu là cướp biển có dám thế này không?

- Do Dương Thiên Tương không biết, ta đã tước hết chức vụ của hắn, và báo về triều đình rồi.

Hôm sau, có tin bọn cướp biển lại vào cướp phá các thôn trang. Tô Lăng A nói: “'Ta sẽ thân chinh”. Tô Lăng A đem theo một doanh binh lính đến bờ biển, đi được một tháng, nhìn thấy phía trước có đại đội quân Thanh kéo đến, dẫn đầu là hai đô thống. Nhìn thấy đại soái, họ xuống ngựa, quỳ xuống bái kiến. Tổng đốc Tô Lăng A hỏi:

- Dương Thiên Tương đâu?

- Dương tướng quân áp giải bọn cướp về phủ tổng đốc, đến nay chưa trở lại. Một đô thống đáp.

- Lạ thật, ông ta đi đã mấy tháng rồi. Bây giờ bọn cướp ở đâu? Các doanh nên hợp lại để truy lùng bọn cướp.

- Theo hướng Ôn Châu. Viên đô thống nói.

Đại đội quân Thanh gồm sáu doanh tiến về Ôn Châu.

Hành quân được mấy hôm, đã đến Lạc Thanh, gặp bọn cướp hai bên đánh nhau. Bọn cướp không địch nổi, rút ra ven biển. Quan binh đuổi theo, nhìn thấy trên bờ biển có một người, ngồi trên chiến mã, vung đại đao, sang trái sang phải, bọn cướp ngã nhào, chỉ còn mấy đứa leo thuyền bỏ chạy, số còn lại hơn 200 người, không chết cũng bị thương.

Người ngồi trên ngựa chính là Dương Thiên Tương, khắp mình vấy máu, cưỡi ngựa bước đến. Tô Lăng A đợi khi Dương Thiên Tương đến gần, liền ra lệnh cho binh sĩ đứng hai bên:

- Bắt lấy hắn!

Quân lính đứng im, không biết ông ra lệnh bắt ai.

Tô Lăng A tức giận thét:

- Ta bảo các ngươi bắt Dương Thiên Tương cơ mà.

Quân lính đành bắt Dương Thiên Tương. Dương Thiên Tương nói:

- Ta có tội gì?

- Thông đồng với bọn cướp, một mình ngươi ở đây, trong lúc bọn phỉ tụ tập lén lút ở đây, không phải thông đồng với bọn cướp thì là cái gì?

- Ta đang đi bắt Lý Nguyên Long, về trị tội, sao lại nói ta thông đồng với kẻ cướp.

Thà không nói đến Lý Nguyên Long, chứ nới đến hắn, Tô Lăng A càng giận thêm:

- Người dám chối cãi ư?

Quân lính trong sáu doanh, từ đô thống đến binh sĩ đều thanh minh cho Dương Thiên Tương, nhưng Tô Lăng A chẳng thèm nghe, và cũng chẳng xem công văn từ Mân - Triết đến. Tô Lăng A phán, Dương Thiên Tương thông đồng với cướp, phạm trọng tội, báo về triều đình, trong và ngoài đều phản đối, chỉ riêng có Hòa Thân là tán thành. Vụ án Dương Thiên Tương trở thành vụ án oan nghiệt.

Tô Lăng A ngu dốt, tham lam, vơ vét tiền của kẻ dưới gây họa cho nhân dân, vu cáo dân lành là kẻ cướp, để mặc bọn cướp tung hoành, ai ai cũng căm ghét, nhưng có bàn tay của Hòa Thân che chắn, ông ta đã không bị trừng phạt mà không bao lâu còn được Hòa Thân nâng lên vị trí đại học sĩ, rồi tể tướng.

Con đường hoạn lộ của Tô Lăng A suôn sẻ thông suốt, Hòa Lâm cũng vậy. Tháng giêng, năm Càn Long thứ 55 được bổ nhiệm, làm sử khoa cấp sự trung. Tháng hai, năm thứ 56 làm nội các học sĩ; tháng 11 kiêm tả thị lang bộ Công. Tháng giêng, năm thứ 57, làm phó đô thống chánh lam kỳ. Tháng hai năm ấy, Quách Nhỉ Ca (Nê-pan) đem quân xâm lấn Tây Tạng, Phúc Khang An mang quân đi đánh. Hòa Lâm cùng đi đến Tây Tạng lo việc quân lương, kết quả tốt, được Hoàng thượng khen thưởng, được đề bạt làm đô thống Mãn quân Tương Bạch Kỳ, thượng thư bộ Công. Năm thứ 59 làm Tổng đốc Tứ Xuyên.