Chương 14 ĐỤC XƯƠNG HÚT TỦY-THAM Ô HỐI LỘ
Hòa Thân nhận của đút lót cả hai bên nguyên cáo và bị cáo...
- Người nhà Hòa Thân thu tô khắp nơi, có thể nói “bẻ nát chân cò kiếm thịt tươi. Vạch bụng muỗi gầy moi lấy mỡ”.
- Những ngày lễ tết, hàng đoàn người mang lễ vật đến trước cửa nhà Hòa Thân.
Ở Châu Phụng Thiên Nghĩa có một người tên là Hứa Ngũ Đức, làm trang chủ cho Bối lặc Vĩnh Trạch. Phẩm cấp của hoàng tộc triều Thanh, cao nhất là thân vương, rồi đến quận vương, sau quận vương là bối lặc. Như vậy chúng ta thấy rõ địa vị của Vĩnh Trạch. Một hôm, Hứa Ngũ Đức đón tiếp người quản gia của Vĩnh Trạch là Hoắc Tam Đức.
Hoắc Tam Đức hơn 40 tuổi, dẫn theo mấy người tùy tùng, không vào nhà trang chủ ngay mà đứng ngoài nhìn xem một lượt. Hứa Ngũ Đức vội vàng mời vào nhà, ngồi trong phòng khách, chuẩn bị tiệc rượu. Hoắc Tam Đức chẳng khách sáo, uống rượu bát to, nuốt xong mấy đĩa thịt, hắn nói:
- Nhận lệnh bối lặc đến đây thu tiền tô, không biết trang chủ đã chuẩn bị chưa.
- Đã chuẩn bị đầy đủ. Hứa Ngũ Đức nói xong, đưa sổ sách ra.
Hoắc Tam Đức xem tỉ mỉ, nói:
- Trước đây nộp 620 lạng bạc, thực ra quá ít. Bây giờ bối lặc căn cứ theo quy định của triều Thanh, địa tô lần này là 853 lạng 6 tiền.
- Trước đây bối lặc đã có khế ước, đất ở đây quá ư cằn cỗi và chưa có quy định của triều đình. Hứa Ngũ Đức vừa nói vừa chìa tờ khế ước ra trước mặt Hoắc Tam Đức.
- Lúc ấy là lúc ấy, bây giờ là bây giờ, bác giao bạc ra. Hoắc Tam Đức chẳng xem khế ước, nói.
Thấy vậy, Hứa Ngũ Đức vội bảo cậu con trai là Hứa Tông Khương:
- Xem trong nhà còn bao nhiêu bạc, giao nộp cho quản gia.
Hứa Tông Khương tức giận mà không dám nói, mang hết tiền bạc có trong nhà ra, nhưng vẫn chưa đủ 200 lạng, nên phải giao luôn chiếc vòng đeo tay bằng vàng. Hoắc Tam Đức xem xong, nói:
- Bác phải hiếu kính quản gia này mấy lạng bạc mới phải. Bác thử nghĩ xem, tôi đã giảm bớt cho bác bao nhiêu. Nếu bình thường, theo thông lệ, bác phải nộp bao nhiêu tiền tô.
- Trang trại này của tôi khác với những nơi khác, nhìn hoa màu cũng thấy rõ, đất cát ở đây quá cằn cỗi, trước đây bối lặc cũng đã kiểm tra kỹ.
- Như vậy bác coi thường tôi quá.
- Tôi đâu dám coi thường bác. Nói xong, Hứa Ngũ Đức bảo cậu con lấy ra một sợi dây chuyền vàng, đưa cho Hoắc Tam Đức, và nói: - Đây là thứ quý nhất của gia đình.
Hoắc Tam Đức cầm xong, ném xuống đất, mắng:
- Bác định cướp bát cơm của tôi ư?
Hứa Ngũ Đức tức quá nói:
- Tôi và bác đều là người giúp việc của một ông chủ, bác là quản gia, tôi là trang chủ, tôi đâu kém gì bác? Chẳng qua, trước mặt chủ, bác trổ tài nịch hót, được lòng chủ, bác dựa uy hổ, không biết xấu hổ.
- Người đâu. Cho hắn một trận! Hoắc Tam Đức ra lệnh, mấy tên tùy tùng bước đến, bắt cha con Hứa Ngũ Đức dần cho một trận nên thân.
- Ngươi không xong với ta đâu. Hứa Ngũ Đức nói.
- Không xong thì sao nào? Thiếu tiền không trả đủ ư! Hôm nay lão cho người biết tay.
- Đồ xấu xa. Ngươi là con chó dựa thế chủ nhà.
- Mẹ kiếp, lại dám bảo là thế ư. Hoắc Tam Đức vừa nói vừa nhìn thấy mấy người đàn bà trong nhà Hứa Ngũ Đức bước ra. Hắn ôm chặt một cô gái trẻ đẹp, nói: Ta xem cô có thể làm gì ta nào, hãy làm ta xem. Nói xong hắn níu ngực cô gái, xé rách áo, để lộ ra hai bầu vú trắng nõn; trước mặt hai cha con Hứa Ngũ Đức, hắn ôm chặt cô gái, một tay thọc vào quần cô ta, cô gái kêu cha kêu mẹ. Hai cha con Ngũ Đức bị bọn tùy tùng giữ chặt nên chẳng làm gì được, tức đến ngất xỉu; Hoắc Tam Đức bê cô gái lên giường, vừa ôm vừa cắn, giở trò bẩn thỉu. Xong việc mang cả số bạc cùng hai tùy tùng bỏ đi.
Cô gái bị hiếp dâm, chính là vợ của Hứa Tông Khương. Cha con Hứa Ngữ Đức thề rằng: “Tan cửa nát nhà, cũng phải báo thù này”.
Hứa Ngũ Đức nghĩ đến một người bạn tốt tên là Hằng Đức hiện là hộ vệ của Lễ thân vương. Hứa Ngũ Đức cùng cậu con mang tiền bạc đến Bắc Kinh tìm Hằng Đức.
Hằng Đức đón tiếp nhiệt tình hai cha con người bạn cũ. Hứa Tông Khương nói rõ ý định đến thăm, kể lại chuyện đã xảy ra, rồi quỳ xuống trước mặt Hằng Đức cầu khẩn:
- Nghĩ rằng bác và cha cháu là hai người bạn tốt từ lâu, bác nhất định phải nghĩ cách giúp đỡ, tốn bao nhiêu tiền bạc cũng được.
Hằng Đức bảo Tông Khương đứng dậy, và suy nghĩ kỹ vấn đề này. Nhờ Lễ thân vương, cũng không thuyết phục được bối lặc trừng trị bọn gia nhân tâm phúc của ông ta, nói vậy chứ đâu dễ. Hơn nữa Lễ thân vương không thích dính líu đến những việc thế này. Bỗng trong đầu Hằng Đức lóe ra tia sáng:
- Có cách rồi. Bác đến nha môn Thống lĩnh bộ binh, Thống lĩnh bộ binh là Hòa Thân, chỉ có Hòa Thân mới thuyết phục được bối lặc!
Hứa Tông Khương rất đỗi vui mừng, nói:
- Cháu làm sao gặp được ông ấy.
- Ta và ông ấy bà con với nhau, chỉ cần có bạc đưa đến cho ông ấy là được rồi, thân thích chẳng qua là thứ yếu mà thôi. Không biết cháu có bao nhiêu lạng bạc.
- Nếu phải lo lót với quan trên, cháu bỏ ra một vạn lạng, hoặc 60 khoảnh đất, biếu bác 4.000 lạng. Nói xong đưa cho Hằng Đức 2.000 lạng.
Hằng Đức cả mừng, nói:
- Việc này ắt thành. Cháu ở đây chờ đợi.
Đúng là dựa thế Càn Long. Các hoàng tử hoàng tôn đều sợ Hòa Thân. Ở trong cung thấy thái giám dùng roi quất hoàng tử hoàng tôn, Hòa Thân vừa cười vừa nói: “Được đấy hôm nay quất mấy roi, ngày mai còn ngỗ nghịch thì tiếp tục”.
Hằng Đức từ tướng phủ trở về, nói:
- Tướng phụ đồng ý và nói, ông cần tiền chứ không cần đất, cháu phải mang tiền đến đây.
- Cháu sẽ về lấy tiền.
Sau mấy ngày, Hứa Tông Khương giao cho Hằng Đức 6.000 lạng bạc trắng để chuyển cho Hòa Thân. Hằng Đức nói:
- Gần đây ta cũng túng thiếu; không biết cháu có thể cho bác vay một ít tiền được không?
- Đã chuẩn bị cho bác 1.000 lạng, xin gửi bác.
- Số còn lại, sau khi xong việc, xin gửi nốt cho bác, gọi là chút lễ tạ ân.
Hằng Đức phấn khởi.
Hứa Tông Khương đến nha môn thống lĩnh bộ binh.
Hòa Thân gọi bối lặc Vĩnh Trạch đến. Vĩnh Trạch nói.
- Không biết Tể phụ có việc gì thế?
- Có, trang chủ của đại nhân tố cáo quản gia của đại nhân, ta đã cất bản cáo trạng rồi, việc này làm to chuyện, thanh danh của bối lặc sẽ chẳng ra gì, Hoàng thượng nghe được sẽ hạch tội.
Vĩnh Trạch rất sợ nghe câu “Hoàng thượng nghe được sẽ hạch tội”, vội vàng hỏi:
- Việc gì vậy?
- Hứa Ngũ Đức và dân chúng trong trang trại ông ta tố cáo quản gia của đại nhân ăn của hối lộ, chứng cớ rõ ràng, quản gia Hoắc Tam Đức hiếp dâm làm nhục người nhà trang chủ. Mọi người đều ký tên vào bản cáo trạng. Ta để bản cáo trạng tại nha môn thống lĩnh bộ binh, đại nhân muốn Hoàng thượng biết chuyện này, hay muốn dấu đi.
- Xin tướng phụ cứu tôi.
- Đại nhân phải mang bạc đến, đặt trước mặt ta đây, ta sẽ nghĩ cách lờ chuyện này.
- Đa tạ tướng phụ, vô cùng cảm kích.
Bối lặc Vĩnh Trạch mang đến 5.000 lạng bạc trắng.
Hòa Thân nói:
- Bấy nhiêu được rồi. Nhưng tên Hoắc Tam Đức không được ở trong phủ đại nhân nữa. Nếu còn gây sự, dân chúng phẫn uất, phải nghiêm trị Hoắc Tam Đức.
- Xin nghe lời tướng phụ.
Hòa Thân bắt Hoắc Tam Đức và bọn tùy tùng cùng cả gia đình chúng đày đến Hắc Long Giang, đời đời làm nô lệ.
Hứa Ngũ Đức phấn khởi. Nhưng lại ỉu xìu ngay, vì số tiền còn lại chưa tìm đâu ra.
Hằng Đức cho người nhà là Trần Hưng đến đòi Hứa Ngũ Đức, và trách mắng một hồi.
- Ta đã hết lòng vì tình bạn, việc xong xuôi, sao bác vội quên.
Cha con Hứa Ngũ Đức cũng thấy không phải, bàn với nhau. Trong số đất được phong của Vĩnh Trạch, mảnh đất Lý Kim Đồn rộng 35 khoảnh, đã ghi vào sổ đỏ sau khi đo đạc lại vào năm Ung Chính thứ 5. Mảnh đất này không liền kề với đất quan. Hai cha con quyết định lấy mảnh đất đó gán bù số tiền còn thiếu. Hứa Tông Khương đến Bắc Kinh, nói với Hằng Đức:
- Thật tình chúng cháu chưa tìm được đâu ra tiền bạc, nên xin cắt 20 khoảnh đất cho Hoà tướng phụ, còn 15 khoảnh cho bác.
- Việc này hãy thương lượng với tướng phụ.
Hằng Đức trở về nói với Hứa Tông Khương.
- Tướng phụ bảo, cháu phải viết giấy bán đất cho cháu trai của tướng phụ là Phong Thân Nghi Miên.
Hứa Tông Khương đồng ý. Hằng Đức cử người nhà là Trần Hưng cùng với Hứa Tông Khương đến Nghĩa Châu, Phụng Thiên, làm giấy bán đất. Lúc trở về, Hằng Đức bảo Trần Hưng:
- Khi đến Cẩm Châu, trao phong thư này cho đô thống Đài Phí Âm, là người bà con của ta, nhờ ông ta lo liệu việc này. Đến Cẩm Châu, không được nói là người nhà của ta, mà nói là người nhà của Phong Thân Nghi Miên, đổi lại tên trong sổ sách, nghe rõ chưa?
- Rõ rồi.
Trần Hưng đến Cẩm Châu, được đô thống Đài Phí Âm mời cơm và đưa đến thủ úy Triệu Lân. Thủ úy Triệu Lân vô cùng mừng rỡ. Con người này rất thích người ta ngày nào cũng mời anh ta ăn cơm, nếu không, anh ta cũng tìm đủ cách để người ta mời. Hôm nào chẳng có ai mời ăn cơm, anh ta chẳng dám khoe khoang với vợ. Hôm nào ăn no rượu say, ưỡn bụng về nhà thì dương dương tự đắc, khoe khoang với vợ rằng mình rất có bản lĩnh, giúp người khác được khối việc. Hôm nay lại được đô thống mời, lại có thêm một quản gia ở kinh thành về, vị quản gia này lại là người của Phong Thân Nghi Miên, anh ta càng khoác lác khoe khoang với vợ, với cả đồng sự và người quen.
Đài Phí Âm nói với anh ta rằng, mảnh đất đó là của Hòa Thân, phải lưu ý thật chu đáo, việc làm thủ tục giấy tờ mua bán là trách nhiệm của thủ úy thành, hồ sơ và giấy tờ mảnh đất đều do anh ta cất giữ. Triệu Lân quay về lục tìm hồ sơ, phát hiện mảnh đất đó là đất quan. Mảnh đất rộng lớn ấy khiến anh ta tỉnh rượu. Không dám tự động làm ẩu, nên báo lại với Đài Phí Âm. Đài Phí Âm nói: “Thế nào bác cũng có biện pháp, đất bán cho Hòa Thân là yên chuyện tất”.
Triệu Lân thấy cấp trên bảo vậy, không dám làm trái ý nếu không, sau này chẳng có ai mời rượu thịt. Do vậy mới viết tờ trình, địa giới mảnh đất này là do họ tộc tự quyết định, không phải đất quan. Triệu Lân viết bản báo cáo tỉ mỉ gửi cho đô thống nói, mảnh đất tuy có ghi vào sổ đỏ, nhưng không chú thích rõ “quan” hay “tư”, và ghi thêm quan quản lý địa giới xác nhận đó là đất tư, nên xử lý theo đất tư. Đô thống Đài Phí Âm nói: “Đồng ý lập giấy tờ mua bán, miễn thuế”.
Trần Hưng mang giấy tờ bán đất về giao cho Hằng Đức, và nói rằng, đất đó là đất quan, không được bán. Hằng Đức vội vàng chuyển hai bản giấy bán đất cho Hòa Thân. Hòa Thân nói:
- Vài hôm nữa ta sẽ giao bạc cho anh, 15 khoảnh đất giá bao nhiêu tiền?
- Tướng phụ nhận là được rồi, còn khoản tiền bạc nhỏ mọn của con, tướng phụ làm sao quên được.
Từ đó, Hòa Thân thực sự quên hẳn số bạc 15 khoảnh đất của Hằng Đức. Hòa Thân cử Lệ Nhị Cách trong phủ nội vụ đi kiểm tra đất. Lê Nhị Cách báo cáo:
- Đất cằn cỗi, diện tích đủ, nhưng đất đó không phải đất tư, mà là đất quan, không nên mua.
Hòa Thân gọi Hồ Lục đến, bảo:
- Tiền tô của 35 khoảnh đất đó không dưới 800 lạng bạc, nói rõ với trang chủ Hứa Ngũ Đức như vậy. Hiểu chưa?
Cha con Hứa Ngũ Đức dùng kế rước hổ đuổi sói, tuy nhất thời báo được thù, giải được hận, nhưng từ đó lún sâu vào vòng khổ ải. Hòa Thân thu tô càng chặt chẽ hà khắc hơn Hoắc Tam Đức.
Hồ Lục vừa bước đi, Hòa Thân đã gọi Vương Bình, bảo:
- Ngươi đến Thạch Gia Đồn, Thông Châu, phủ Thuận Thiên thu tiền tô, nói với họ mỗi năm nộp 446 lạng, sau này cứ thế mà thu, không được thay đổi. Nếu nộp không đủ ngươi có thể tùy đó xử lý, có thể lấy mạng thay tô.
Vương Bình đến Thạch Gia Đồn, đến nhà trang chủ Vương Đản. Vương Đản vội vàng chiêu đãi rượu thịt, tẩy trần.
Cơm xong, Vương Bình nói:
- Vâng lệnh chủ nhân đến đây thu tô.
- Đã chuẩn bị đầy đủ.
- Chủ nhân có lệnh, từ nay về sau, mỗi năm phải nộp đủ 446 lạng bạc, không được thiếu một phân, một li.
Vương Đản kinh ngạc nói:
- Cai quản trang trại là công việc trước nay của tôi. Trước đây, tôi nộp cho bối lặc chỉ có 180 lạng, sao bây giờ tăng hơn gấp đôi.
- Trước đây người ít, thiếu sức lao động, có đất trồng trọt nhưng lại không có người trồng trọt, bây giờ người đông, sức lao động dồi dào, khi phò mã Phong Thân Ân Đức mua mảnh đất này, có 29 phòng ở với giá 2. 800 lạng.
- Trước nay nộp tô theo diện tích đất, đâu có nộp tô theo số người, tuy người có tăng, sức lao động nhiều hơn, nhưng chi phí cũng tăng lên, vậy sao phải nộp tô nhiều đến thế?
- Ta đã nom thấy hoa màu rồi, có thể nộp đủ số tiền tô đấy, ta chỉ là người quản gia, chủ nhân bảo sao, ta làm vậy, xin trang chủ thông cảm.
- Xin đại quản gia nói khéo với tướng phụ, cho chúng tôi một lối thoát.
- Đã dứt khoát như vậy rồi, không thay đổi, lúc đi tướng phụ đã căn dặn rõ ràng.
- Như vậy lấy đâu ra tiền, tôi phải bàn bạc với các tá điền.
- Trang chủ phải giải thích rõ ràng, giải quyết nhanh gọn một lời nói ra như đinh đóng cột. Theo tôi, mục đích bàn bạc cũng chỉ nên gói gọn trong việc làm thế nào nộp đủ tiền tô, chứ không nên bàn lạc đề.
- Quản gia nói chí phải. Vương Đản nói xong bước đi.
Tổ tiên của Vương Đản, vào cuối triều Minh, là gia đình đông đúc, giàu có. Khi quân Thanh tràn vào, ông nội của Vương Đản là Vương Phúc Long, vào năm Thuận Trị thứ 2 đã giao nộp 14 khoảnh 59 mẫu đất để vào làm trang chủ của phủ nội vụ. Vương Đản cũng không rõ tổ tiên mình thuộc “kỳ nào”, mỗi năm nộp cho quan phủ tiền tô là 72 lạng 9 tiền 5 phân. Năm Ung Chính thứ nhất chuyển giao cho Di thân vương phủ, cả nhà Vương Đản gia nhập Chánh lam kỳ. Năm Càn Long thứ 31 cấp cho bối lặc phủ, năm thứ 32, bối lặc đo đạc lại, cộng với số đất dưỡng lão là 28 khoản 80 mẫu, tiền tô là 109 lạng 5 phân, cộng tất cả phải nộp là 182 lạng tròn. Bây giờ Vương Bình lại tăng tiền to lên, làm sao nộp đủ?
Vương Đản triệu tập các tá điền trong trang trại bàn bạc, mọi người đều phản đối tăng tô, nói:
- Đất này vốn là của tổ tiên giao nộp, phần lớn đất đai đều thuộc loại cằn cỗi bạc màu, nếu tăng tiền tô lên, quả thực không đủ ăn, không đồng ý.
Vương Đản trở lại nói với Vương Bình ý kiến của mọi người. Vương Bình nói:
- Đã như vậy, ta đích thân đi hỏi họ. Và bảo một người giúp việc: - Ngươi điều cho khoảng trăm lính, mang theo khí giới và dụng cụ đo đạc, không được làm huyên náo dân chúng.
Tối đó Vương Bình đến nhà một tá điền tên là Khang Kiệt, hỏi:
- Ngươi và những người khác đều chống nộp tô phải không?
- Tiền tô quả thật quá nhiều, không chịu nổi.
- Chống tô là phạm pháp, tướng phụ sẽ trị tội, ngươi không chịu nổi đâu. Trước nay ngươi và ta không có gì sai trái với nhau, ta mới nói với ngươi điều này, ta có ý thay đổi trang chủ, giao cho ngươi làm, ngươi thấy thế nào? Vương Bình với thủ đoạn vừa cứng vừa mềm, đã thuyết phục được Khang Kiệt và nói tiếp: - Ta sẽ nói với mọi người, cứ nộp tô như đã định.
Sáng hôm sau, Vương Bình dậy rất muộn, lúc mặt trời vượt lên đỉnh núi quá cao mới ra khỏi cửa, nhìn thấy người giúp việc dẫn đến khoảng một trăm tên lính. Vương Bình nói: “Các ngươi đo đạc lại các ngôi nhà, không được quấy nhiễu bà con dân chúng”.
Một tên đội, đã nhận tiền của Vương Bình, ra lệnh cho lính. Bọn lính nhanh chóng thực hiện mệnh lệnh, không bắt người cướp của, vui vẻ tiến hành.
Dân chúng trong trang trại đều lo sợ, nhưng thấy quân lính chỉ đo đạc, nói năng lễ phép; nên an tâm, tuy vậy vẫn lo nơm nớp. Lúc này Vương Bình bảo Vương Đản tập họp mọi người lại, tuyên bố:
- Mọi người nói tiền tô cao quá phải không? Vậy, ai nói.
Không ai lên tiếng. Vương Bình quét mắt nhìn mọi người, rồi nói tiếp:
- Nếu có khó khăn, ta sẽ liệu thưa lại với tướng phụ, tướng phụ rất thương bà con. Khang Kiệt, hãy nói xem có nộp được không?
- Được ạ. Khang Kiệt đứng dậy đáp.
Mọi người đều ngạc nhiên, hôm qua nói hay lắm, hôm nay sao lại thay đổi rồi? Lẽ nào mọi người đều thay đổi ý kiến? Chẳng lẽ riêng ta giơ đầu chịu báng ư?
Vương Bình lại nói:
- Như vậy là đồng ý rồi. Hôm qua trang chủ Vương Đản nói dối ta, bây giờ ta quyết định thế này, Khang Kiệt làm trang chủ, Vương Đản làm tá điền,chia cho hắn 3 khoảnh 20 mẫu đất trồng trọt, số đất còn lại chia cho các hộ khác, mỗi năm tiền đất là 864.000 đồng tiền, tiền nhà là 14 lạng 5 tiền. Bây giờ đo lại diện tích nhà ở, căn cứ theo đó mà thu.
- Đất này là từ thuở ông cha tôi chuyển lại, đại quản gia sao lại làm thế? Vương Đản kinh ngạc vặn lại.
- Sao dám nói đất này là của ông cha ngươi, rõ ràng là của phò mã mua lại của bối lặc, đâu phải sở hữu của ngươi?
Vương Đản biết Hòa Thân rất nguy hiểm nên chẳng dám nhiều lời.
Quả nhiên có người không thể nộp đủ tiền tô. Vương Bình buộc họ bán thân trừ tô. Chỉ mấy hôm sau, Vương Bình mang cả tiền tô và cả mấy chàng trai cô gái trẻ đẹp bán thân làm nô lệ về Bắc Kinh. Hòa Thân thưởng cho hắn một nữ nô và một tráng đinh.
Mấy năm sau dân của cả Thạch Gia Đồn đều biến thành gia nô của Hòa Thân, không bán thân thì trong nhà một ngọn cỏ cũng không có.
Ở mấy chục huyện khác, Hòa Thân cũng thu tô theo cách đó, trừ huyện ở gần kinh thành. Lương thực, thực phẩm, hoa quả ùn ùn chở về phủ Hòa Thân.
Tám mươi vạn mẫu ruộng đem lại cho Hoà Thân biết bao nhiêu của cải, thế mà Hoà Thân vẫn đục xương hút tuỷ của dân chúng. Có một bài hát rất hình tượng nói về người nhà Hoà Thân thu tô như sau:
“Cướp bùn ra khỏi mồm chim én,
Lấy sắt mài giũa từ đầu kim.
Tìm vàng cạo gọt trên mặt Phật,
Dẫu không cũng phải tìm cho có.
Móc diều cun cút tìm hạt đậu,
Bẻ nát chân cò kiếm thịt tươi.
Vạch bụng muỗi gầy moi lấy mỡ,
Ông có làm gì cũng thế thôi”.
Năm ấy, thu tiền nhà ở được 1268 lạng 3 tiền và địa tô là 8492 điếu 240 đồng tiền (điếu = 1.000 đồng tiền.ND)
Tiền tô tức thu nộp suôn sẻ, Hoà Thân rất vui mừng. Hôm đó, trong lúc cùng Hô Thập Đồ và Khanh Lân, kiểm tra sổ sách, bỗng được báo Lưu Toàn đến. Hoà Thân vội bảo vào ngay. Lưu Toàn báo:
- Gần cuối năm, ở Bắc Kinh, Thiên Tân và các nơi khác giá gạo và lương thực vụt lên cao, lương thực trong kho nhà còn quá ít.
- Vì sao không cấp tốc nhập vào? Hoà Thân hỏi.
- Gạo ở các tỉnh đã bị thương nhân mua hết, vì đã cuối năm, chẳng có nhà nào trữ lương thực. Các nhà buôn gạo thấy giá lên cao, càng không muốn bán, tích trữ lại.
- Các kho lương thực và các cửa hàng lương thực còn được bao nhiêu? Hoà Thân hỏi Khanh Lân.
- Chưa đầy 40 thạch, Khanh Lân giở sổ ra xem và nói.
- Ta đi gặp Hoàng Thượng.
Hoà Thân đi gặp Hoàng Thượng và tâu rằng:
- Bây giờ sắp hết năm, lại là lúc giáp hạt, giá gạo khắp nơi lên cao, Bắc Kinh cao nhất. Tiền bạc mất giá, dân chúng không chịu nổi gánh nặng. Các cửa hàng lương thực tích trữ không bán ra, nếu để nạn đói xảy ra, e ảnh hưởng đến an ninh.
Lưu Dung tâu:
- Gần đây giá gạo tăng vọt, các cửa hàng lương thực tích trữ đầy nhà, nếu không bán ra, dân chúng kêu la thấu trời, triều đình phải bình ổn vật giá, lệnh cho họ bán gạo ra, đề phòng dân đói.
Càn Long nói:
- Việc này giao cho Hoà Thân giải quyết.
- Xin ra lệnh, từ nay về sau cấm tích trữ quá 50 thạch. Càn Long chuẩn tấu. Triều đình quy định: Các cửa hàng lương thực không được tích trữ quá 50 thạch lương thực. Nhưng sau khi lệnh được phát đi, thương nhân và vương công đại thần đều phản đối, chỉ có Lưu Dung ủng hộ Hoà Thân. Chẳng có cửa hàng nào chịu bán ra. Hoà Thân lại tâu:
- Quốc gia nên nghiêm trị những nhà buôn không tuân pháp luật để ổn định giá cả. Nếu không kiểm soát được giá cả, tết đến lòng dân xao xuyến, kinh sư cũng bị rung động không yên. Thần xin đi kiểm tra kỹ các cửa hàng lương thực. Ai vi phạm thì xử tội.
Càn Long chuẩn tấu.
Hòa Thân điều động quân lính và thị vệ, đến các cửa hàng mở kho ra bán. Quân lính đến đâu, mọi người răm rắp tuân theo, mở kho bán thóc theo giá bình thường. Quân lính kiểm tra một cửa hàng tích trữ hơn 6 vạn thạch thóc, niêm phong lại. Hoà Thân tâu lên Càn Long xin bán tất cả với giá rẻ. Đồng thời mở các trạm cháo cứu tế dân chúng. Vật giá ở Bắc Kinh được bình ổn ngay tức khắc, dân chúng vỗ tay hoan hô, ca ngợi Hoà đại nhân.
Dường như trời cũng thương tình dân chúng, tuyết báo được mùa, đến tháng chạp, khắp nơi đầy tuyết trắng.
Trước cửa phủ Hoà Thân hàng đoàn người mang hàng hoá đến, tựa như một dòng tuyết. Diêm chánh Lưỡng Hoài là Uông Như Long vẫn như năm trước mang đến 20 vạn lạng bạc, ngoài ra còn có Tô Lăng A, Y Giang A, Cảnh An, Minh Bảo và những người thân tín khác của Hoà Thân. Quan chức các tỉnh cũng mang quà biếu, ùn ùn về Bắc Kinh, các huyện lệnh từ các châu phủ lại mang quà biếu lên tỉnh. Lúc đầu có người sợ rằng vì không có quan hệ nhiều với các quan lớn ở Bắc Kinh nên không dám gửi quà biếu công khai. Sau mấy lần thử nghiệm, nhận thấy quan ở kinh cũng như quan địa phương đều như nhau, thậm chí còn thích nhận quà biếu, do đó quà biếu lần nào cũng chia đôi, một lên tỉnh một lên kinh sư.
Ban đầu mang quà biếu lên phủ Hoà Thân thì đi vào ban đêm sợ người khác nhìn thấy, lại càng sợ quan trên phát hiện. Bây giờ họ đến cả ban ngày lẫn ban đêm, muốn được người khác thấy, lấy đó làm vinh dự rằng: Ta có quan hệ với Hoà tướng phụ. Nếu gặp người quen biết thì hàn huyên đôi câu chuyện, tỏ ra ta đây có quan hệ rất gần với Hoà tướng phụ. Nếu gặp người không quen biết thì gật đầu chào, xem họ như tri kỷ, tỏ lòng khâm phục: Họ là người “biết chơi”, cũng là tự khâm phục mình, có đường tiến có đường lui.
Người mang quà biếu đặt lễ vật ở Nhị Môn do “nội Lưu” Hô Thập Đồ chuyển vào nhà trong. Nếu là bạn cũ của tướng phụ thì mời ở lại, đưa họ đến gặp tướng phụ, nếu là quan chức bình thường thì ghi tên vào sổ. Quan ở kinh thì về ngay, ở xa đến thì Hô Thập Đồ tổ chức chiêu đãi nhưng phần đông họ cáo từ, chỉ muốn nói chuyện nhiều nhiều với Hô Thập Đồ. Khách được quý trọng nhất là Diêm Chính Lưỡng Hoài, tuần phủ Y Giang A, tổng đốc Lưỡng Giang Tô Lăng A. Họ được tướng phụ trực tiếp nói chuyện, thậm chí còn giữ lại cùng ăn cơm.
Cũng có một số người mang lễ vật đến Lưu Toàn, dần dần không ít người hiểu ra rằng, đến Lưu Toàn đạt hiệu quả nhiều hơn. Tuy có tốn kém ít tiền, nhưng Lưu Toàn chuyển lời lại cho Hoà Thân tỷ mỷ hơn, rõ ràng hơn. Hô Thập Đồ thu nhận quá nhiều lễ vật, ghi không thật rõ. Người đưa lễ vật không quan trọng bằng lễ vật, vì không có yêu cầu thăng quan tiến chức hay giúp đỡ gì cả. Nếu có yêu cầu gì thì lần khác mang quà đến, dù ngày lễ ngày tết bạn có biếu nhiều quà đi nữa, khi có việc cần giúp đỡ cũng không thể không có quà. Biếu quà ngày lễ ngày tết là cái lệ mà thôi chứ không có tác dụng lắm. Thế nhưng nếu không có, hậu quả thể hiện ngay lập tức: trong sổ không có tên bạn, bạn bị coi là người vong ân bội nghĩa, qua sông rút cầu, coi thường người ta. Rồi hãy chờ xem, nhẹ thì bị điều đến nơi ít việc, buộc phải vấp sai lầm, nặng thì tìm cách chức giáng chức. Quà biếu là tiêu chuẩn kiểm nghiệm lòng trung.
Lại đến ngày lạp bát (ngày 8 tháng Chạp), công chúa Hoà Hiếu Cố Luân ăn cháo lạp bát bột ngọc trai. Cháo nấu với 4 tiền bột ngọc trai, 2 tiền hồng sâm núi Trường Bạch, 2 lạng phục linh, 2 lạng sơn dược, 2 lạng biển đậu, 2 lạng ý dĩ, 2 lạng diệu kiến thực, 2 lạng hạt sen, 4 lạng gạo nếp, pha với nước xúp gà rừng và phi long ở núi Trường Bạch. Công chúa trước nay rất tiết kiệm, nên cháo này không ngon, bổ bằng của Hoà Thân.
Bát đĩa đựng thức ăn hàng ngày của Hoà Thân, ai thấy cũng đều trầm trồ kinh ngạc: bát vàng, đĩa bạc, cốc Hồng Bồ, bát Pháp ngũ phúc, bát Pháp đồng thai ngũ phúc, và đồ sứ cổ giá trị. Mâm khay đều bằng vàng, bạc, sứ cổ, Pháp, thìa vàng cán ngà voi. Thức ăn chẳng cần nói, nào là cua bể hấp, yến sào, vịt tần, chân giò hầm hun khói, vịt hầm rượu, thịt ngỗng hong khô, gà hầm cải trắng, canh gà măng chua, canh gà tôm viên, xúp chim trĩ, vịt hấp với yến sào và lê quả, xúp dê trứng gà, v.v… sơn hào hải vị không thiếu thứ gì.
Ăn cháo lạp bát xong, công chúa vào phòng tìm Phong Thân Ân Đức. Công chúa dự cảm, Hoà Thân cứ như thế này thật là không hay tí nào, để lại mối lo sau này. Công chúa chẳng thấy bóng dáng Phong Thân Ân Đức đâu cả, bèn bước ra phòng, nhìn thấy xa xa trong bụi tuyết; Phong Thân Ân Đức đang nghịch tuyết như một chú bé con, mặc sức vui chơi thoả thích. Công chúa gọi to, Phong Thân Ân Đức nghe công chúa gọi, chạy vào nhà. Công chúa trách:
- Chàng đã lớn rồi mà còn chơi trò đó sao?
Phong Thân Ân Đức thấy công chúa giận, vội quì xuống nói:
- Xin công chúa thông cảm, Ân Đức này nhất thời nhớ lại niềm vui thời thơ ấu, nên quên tất cả.
Công chúa vội đỡ Ân Đức dậy, nói:
- Ân Đức càng nên chăm chỉ học tập, rèn luyện bản lĩnh, để khỏi phụ ân phụ hoàng, phụ lòng thiếp.
- Đâu dám không nghe lời khuyên bảo.
- Chúng ta là vợ chồng, sao lại khách sáo. Nói xong, công chúa kéo Ân Đức ngồi vào ghế, rồi tự ngồi lên đùi Ân Đức, nói tiếp:
- Thiếp có lời này, muốn nói với chàng. Phụ thân chàng chịu ân sâu của phụ hoàng, chưa hề báo đáp, chỉ biết tham tiền tham của, quả thật thiếp lo cho chàng. E rằng có ngày phụ thân chàng khó bảo toàn tính mạng, thiếp cũng vì chàng mà liên luỵ.
- Ta và mẹ thường khuyên phụ thân, nhưng ông nào có nghe. Phong Thân Nghi Miên cũng thường nhắc nhở phụ thân ta và chú ta. Cả hai cụ mọi việc đều tinh tường, nhưng chỉ có việc này, chẳng nghe ai khuyên bảo, nên đành vậy.
- Chàng hãy nghĩ xem có cách nào khuyên phụ thân chàng. Lúc nhỏ thiếp ở trong cung rất gần vui với phụ thân chàng, thiếp gọi cụ là “cụ”, cụ cũng coi thiếp như con gái. Bây giờ thiếp là vợ chàng là dâu của cụ, càng cần phải vì cụ mà suy nghĩ. Thiếp muốn, chàng nên tìm cách khuyên cụ, ví như, cụ thích xem tuồng, thì nên chăng bảo đào kép, ca hát những khúc hát lời ca nào có thể khiến cụ hồi tâm chuyển ý được không? Nói xong một hồi, công chúa bảo: - Đi, thiếp cùng chàng đi nghịch tuyết. Thế là kéo Phong Thân Ân Đức đi và gọi thêm mấy cô hầu cùng kéo chàng ra ngoài, đẩy chàng ngã xuống, nghịch ngợm.
Phong Thân Ân Đức yêu công chúa, vì tuy công chúa con nhà đế vương, lại là cô con gái út yêu quí của Hoàng thượng, song công chúa không hề vì thế mà kiêu ngạo, xử sự đúng đạo làm vợ, yêu thương chăm sóc chồng, giản dị cần kiệm, có kiến thức, tài hoa. Công chúa vẫn giữ sở thích của thuở nhỏ, cả ngày ăn mặc áo quần con trai, ngày nào cũng dậy từ lúc gà gáy cùng Ân Đức luyện tập cung kiếm, quyết không để Ân Đức mải mê chuyện chăn gối mà yếu mềm.
Từ lúc còn bé, công chúa được Hoà Thân yêu chiều. Từ khi về làm con dâu, thấy công chúa và Ân Đức yêu mến nhau nên càng phấn khởi vui mừng. Lúc nào ở nhà là hỏi con trai mình về tình hình công chúa, căn dặn con quan tâm nhiều hơn với công chúa.
Năm mới sắp đến, Hoà Thân chuẩn bị đưa công chúa và phò mã vào cung, không ngờ Phong Thân Ân Đức nói:
- Con đã bảo các đào kép chuẩn bị diễn tuồng, mời phụ thân đến xem. Xem xong hãy vào cung cũng chẳng muộn.
Hòa Thân nghe vậy, giận mắng:
- Chưa nói, con là phò mã, là một chàng rể bình thường, lẽ nào đi xem bọn đào kép biểu diễn quan trọng hơn là đi thăm cha mẹ vợ? Con là phò mã mà làm bạn với bọn đào kép, cha không cho phép như vậy. Con là con một của ta, lại là phò mã nếu nghe thấy con có điều gì tai tiếng, học đòi thói xấu của con em bát kỳ khác, cha không thể dung thứ.
Ân Đức quì xuống thưa:
- Thưa cha, đây là công chúa bảo con chuẩn bị, mời cha xem, mẹ con cũng rất tán thành. Cha xem xong hãy nói, con không học đòi thói xấu của các con em bát kỳ khác, cốt muốn học tập tấm gương cần cù gian khổ lúc bé của cha và chú, ở nhà lại có công chúa suốt ngày bên cạnh, thì làm gì có chuyện say đắm chơi bời.
- Công chúa bảo con như thế, chắc là có ý gì đây, ta đi thử xem sao.
Hai người đến Thọ Xuân Lâu, thấy phu nhân Phùng Thị đã chờ ở đấy. Phu nhân nói:
- Phu quân không nên để mọi người thất vọng.
Hòa Thân không hiểu được ẩn ý trong lời nói, ngồi xuống.
Một kép hát bước ra sân khấu xướng:
“Bóng liễu thuyền hoa vờn trước cửa,khói sương mịt mù, gió rung mặt nước, rêu phủ vách đá, cây già trên núi, ngoài cầu rực sáng. Cúi đầu mãi đọc sử xanh, ngoảnh đầu hỏi chốn hồng trần, trăng say lơ lửng, đá im lặng lờ, nước kia tình tứ, hoa này sầu thương”.
Bạch:
“Ta đích thị Trương Lương triều Hán, một trong tám nhân kiệt thời đầu triều Hán, từng giúp Cao Tổ lập nghiệp đế vương, lúc ngoảnh đầu lại, mới biết trăng tròn rồi khuyết, lẽ đời lúc có lúc không, chẳng màng công danh phú quý nơi triều trung”.
Xướng:
“Cung A phòng hoang vắng, cỏ dại mọc đầy, thế sự hưng vong, cũng như trăng tròn rồi khuyết, sách chất đầy nhà, tùng quế khắp vườn, mà nay cỏ dại um tùm, thôi đừng mơ ước giàu sang quyền quý chốn triều trung, hôm nay vinh hoa phú quý tột cùng, mai kia con cháu tay không có gì. Chỉ nói thế thôi, tôi cũng thấy vui rồi. Đến như thế sự hôm nay thật khó tỏ tường, thế gian này chẳng thấy có ai anh hùng, chẳng thấy có ai hào kiệt, làm sai đầu rơi...”
Hòa Thân khó thể tiếp tục ngồi nghe, nói với Phong Thân Ân Đức:
- Ra đây cha bảo.
Nhìn thấy sắc mặt Hòa Thân đổi khác, Ân Đức đành theo cha bước ra ngoài. Hòa Thân nói tiếp:
- Chỉ cần con chăm chỉ học tập rèn luyện, chỉ cần con và công chúa hoà thuận với nhau, kính yêu nhau, ngoài ra cha còn một ước mong nữa là con sinh cho cha một cháu trai. Mọi việc khác con không phải quan tâm.
Phong Thân Ân Đức quay lại chỗ công chúa, công chúa nói:
- Từ nay chàng cố công luyện tập, học thêm kiếm thuật, rèn luyện thân thể, đón chờ tương lai.
Phùng Thị trở về phòng, gọi Đậu Khấu lại, nói:
- Con người ta không thể thay đổi ư?
- Cần xem phương pháp cải tạo, có phương pháp có thể cải tạo, có phương pháp không thể cải tạo được.
- Em nói thử xem.
- Em cũng chưa có cách nào. Đậu Khấu thực ra có một câu chuyện nhưng không tiện nói với Phùng Thị.
Chuyện thế này:
Ngày xưa có một người suốt ngày bụng đói cồn cào. Một hôm đói quá, phải đến một nhà giàu có, xin ăn. Bỗng nhìn thấy chủ nhà ngồi bên một cái bàn chất đầy thức ăn sơn hào hải vị, đang ôm một chú chó vào lòng. Chú chó thỉnh thoảng liếm ngón tay, đôi môi của chủ nhà. Chủ nhà chốc chốc lại xé một miếng thịt đưa cho chú chó. Chú chó lắc đầu vung đuôi, tỏ vẻ chẳng khoái. Con người bụng đói kia ghen tỵ với chú chó béo tròn núc ních đang hưởng phần ăn ngon lành của chủ ban thưởng, và ước rằng, giá ta là chú chó kia thì tốt biết bao. Đang lúc ước mơ như vậy, bỗng một thiên thần thấu hiểu lòng dạ anh ta, bèn nói:
- Anh muốn trở thành chú chó kia, ta có thể giúp anh, biến người thành chó, làm người không biết xấu hổ, lúc thành chó, mọi người xem là đồ súc sinh, anh không sợ người ta chửi mắng ư?
- Thiên thần ơi! Con chỉ biến thành chó một lần thôi. Một lần cũng đủ rồi. Ăn no một lần, hưởng thụ một lần, con sẽ biến lại thành người, và không biến thành chó nữa.
- Vậy, hãy thử một lần xem sao.
Thế là thiên thần biến anh ta thành một chú chó. Chú chó này vẫn mang đặc tính của con người, khôn ngoan gấp trăm lần các chú chó khác, càng được chủ thích thú yêu chiều đến mức cùng ăn, cùng ngủ, cùng dạo chơi, không hề rời nhau. Hôm đó thiên thần thấy anh chàng kia đã hưởng thụ no nê, bèn nói:
- Ta biến anh trở lại thành người. Thiên thần biến anh trở lại thành người, nhưng anh ta chỉ có tướng mạo, tay chân giống người, còn tư tưởng, ý thức, cử chỉ hành động hoàn toàn giống chó, thấy ai có tiền thì vẫy đuôi thè lưỡi liếm, thấy ai nghèo thì nhe răng gầm gừ.
Thiên thần nói:
- Một khi đã biến thành chó thì khó biến trở lại thành người.
Thiên thần của Hoà Thân cũng chính là bản thân Hoà Thân.