← Quay lại trang sách

Chương 15 HỘ GIÁ TÂY TUẦN.-CHE ĐẬY LỖI LẦM

Càn Long trên đường về kinh, trọ tại hành cung. Hành cung vừa mới xây, tường vách đều làm dối, nửa đêm sụp đổ, Càn Long sợ hãi. Kiến trúc của cả nước như thế nào?

Càn Long buồn lo...

- Lưu Dung phụng mạng đi kiểm tra, kiểm tra ra những gì? Thối nát!

Năm Càn Long thứ 57, các công trình cải tạo và mở rộng ở khu nghỉ mát Sơn Trang do Hòa Thân phụ trách sắp hoàn thành. Hòa Thân đã bỏ túi riêng khối lớn tiền của qua chuyến đi tuần thú phương nam cùng Càn Long và từ các công trình sửa chữa, mở rộng vườn Minh Viên và khu nghỉ mát Sơn Trang, do đó tính toán xem còn công trình nào nữa không. Suy đi nghĩ lại, bỗng nảy ra ý nghĩ đề nghị Càn Long tuần du miền tây. Hòa Thân cho rằng: nếu Hoàng thượng tuần du miền tây, ta sẽ cho cải tạo lại hành cung, đại doanh trước kia và dọc đường còn được quan lại tiến cống nhiều nữa kia! Nghĩ đến vậy, bèn vỗ tay lên trán - cái đầu này quả thực thông minh.

Phàm là tham quan ô lại, rất thích quản lý, công trình, một là, vì nước vì vua, danh chánh ngôn thuận, tư thế đàng hoàng; hai là, được nhiều màu mỡ nhất, có người quản lý một công trình, mấy đời con cháu ăn không hết. Cho nên quan nào cũng vậy, khi đã làm quan, đều muốn quản lý công trình. Ai nắm công trình, người đó có thực quyền. Quan lớn quản lý công trình lớn, quan nhỏ quản lý công trình nhỏ. Người ta nói: “Làm quan một đời, tạo phúc vạn đại”. Muốn tạo phúc, muốn có tiền cho con cháu sau này, các công trình xây dựng là nguồn thu nhập cực lớn. Nếu không trực tiếp nhận tiền bạc, thì sau khi hoàn thành các công trình của quốc gia, của hoàng gia, việc sửa chữa các công trình nhỏ của riêng mình như nhà cửa, vườn hoa... cũng đồng thời hoàn thành.

Cũng giống như cải tạo khu nghỉ mát Sơn Trang, vườn Minh Viên, công trình sửa chữa thuyền bè, hành cung chuẩn bị cho chuyến tuần du phương nam của Càn Long trước đây, chỉ có đại thần như Hòa Thân mới biết được. Hòa Thân tâu với Càn Long:

- Trước đây Hoàng đế Khang Hy đã năm lần tuần du Ngũ Đài Sơn miền tây, tôn kính đạo Phật, khuyến dụ Mông - Tạng, tìm hiểu phong tục tập quán, khảo sát địa phương, ngày nay thiên hạ thái bình Mông - Tạng an ninh, Hoàng thượng nên tổ chức chuyến tuần thú miền tây, để giáo hóa!

- Chiến tranh vùng biên cương vừa chấm dứt, tiền của quốc gia còn ít, Trẫm không muốn tiêu xài nhiều.

- Chuyến tuần du miền tây lần này, xin để nô tài lo liệu, giống như chuyến tuần du phương nam lần trước, không tốn một xu của nhà nước, Hoàng thượng yên tâm.

- Vậy khanh lo liệu, nhưng phải thương dân, không được xa xỉ.

Thế là, Hòa Thân truyền lệnh cho vương công đại thần, phò mã, thân vương, diêm chánh hà đốc, các đạo vận lương, đốc phủ đến huyện lệnh, theo cấp bậc quan chức mà nộp tiền, chuẩn bị cho Hoàng thượng tuần du Ngũ Đài Sơn, miền tây, khuyến khích ban thưởng các nhà buôn quyên góp tiền của, do đó, tiền bạc quyên góp từ khắp nơi ùn ùn mang đến chỗ Hòa Thân. Hòa Thân lệnh cho các nơi tu sửa hành cung, sửa chữa đường sá. Càn Long còn dụ rằng: “Lần này tuần du đến Ngũ Đài Sơn, tất cả các hành cung ở Trực Lệ, Sơn Tây tuy trước đây đã được cấp tiền sửa chữa nhưng từ chuyến tuần du lần trước đến nay đã cũ, nên chi thêm tiền trang trí lại, cấp mỗi nơi một vạn lạng”.

Ngũ Đài Sơn là thánh địa đạo Phật, xây đựng vào thời Bắc Ngụy, là trung tâm đạo Phật tức là đạo Lạt-ma tại Trung Nguyên. Tương truyền rằng cây bồ đề trên đỉnh Tựu Phong là nơi ở của Văn Thù Bồ Tát, do đó còn có tên gọi là Chân Dung Viện hay Văn Thù Tự. Chùa được xây dựng vào thời Bắc Nguy, đến thời Minh, trở thành bậc nhất trong các chùa chiền ở Ngũ Đài. Năm Minh Vĩnh Lạc, Tưởng Toàn Khúc Nhĩ Kế, đệ tử của Tông Ca Ba Đa, tổ sư Hoàng Giáo đạo Lạt-ma đã từng giảng phật pháp Hoàng giáo tại đây, và sau đó Hoàng giáo được truyền bá ở Ngũ Đài Sơn. Mông Cổ, Tây Tạng đều tin thờ Hoàng giáo. Hoàng đế Khang Hy và Càn Long sau này cũng nhân tuần du Ngũ Đài Sơn để tỏ lòng sùng kính Hoàng giáo trước mặt các thủ lĩnh và dân chúng Mông - Tạng, nhằm yên lòng họ.

Theo cách nói của Khang Hy, tuần du Ngũ Đài Sơn cũng là tìm hiểu phong tục tập quán, “chữa bệnh cho dân, mới yên giấc trên giường”.

Càn Long noi theo Hoàng tổ mấy lần tuần du miền tây, cũng với ý đồ trên. Nhưng, Càn Long 82 tuổi, lần thứ sáu tuần du miền tây chắc chắn không phải để đạo chơi ngắm cảnh, mục đích khác hẳn với những chuyến tuần du miền tây thuở trung niên.

Ngày 8 tháng 3, Càn Long từ kinh sư khởi giá tuần du, cùng đi có Hòa Thân, Phúc Trường An. Trên đường đi phô trương rầm rộ không cần phải nói, các quan địa phương đón tiếp cung phụng khó mà tưởng tượng.

Ngày 10 tháng 3, Càn Long đến vùng Thu Lan, bỗng nghe thấy phía trước bên lề đường có người rập đầu kêu than. Hòa Thân định chạy tới nhưng không kịp. Càn Long bảo:

- Hòa Thân, hãy hỏi xem có việc gì vậy.

Hòa Thân chỉ còn cách bước tới trước hỏi. Người kia đáp:

- Thảo dân là Dương Tú Cẩm, ở Quý Châu, đến đây cúi đầu kính xin Hoàng thượng giãi bày oan khúc.

- Đưa cáo trạng đây. Hòa Thân bảo và cầm cáo trạng xem rồi đệ trình lên Càn Long. Càn Long già, mắt kèm nhèm, mới xem được vài hàng đã chẳng thấy gì nữa, bèn nói:

- Hòa Thân xem và nói lại ta nghe.

Hòa Thân tâu:

- Người quỳ chặn đường là Dương Tú Cẩm, ở huyện Trấn Viễn, Quý Châu, làm lý tưởng trong huyện, khiếu kiện về việc thu nộp tiền lương thực hàng năm. Trước đây mỗi mẫu ruộng thu nửa thạch thóc, từ năm thứ 48 bắt đầu thu bạc, mỗi năm một tăng, lúc đầu mỗi mẫu nộp 6 tiền 5 phân, sau đó tăng lên 2 lạng 12 tiền, năm ngoái phải nộp 1 lạng 2 tiền.

- Ta chẳng hiểu gì cả, khanh nói lại cho ta nghe, rốt cuộc là bao nhiêu tiền.

- Lúc đầu mỗi mẫu phải nộp 6 tiền 5 phân sau tăng lên 2 lạng 12 tiền, năm ngoái là 1 lạng 2 tiền. Hoàng thượng có nghe rõ không?

- Rõ rồi, khanh tiếp tục nói đi.

- Vì phải thu nộp quá nhiều, Dương Tú Cẩm thu nộp không đủ, nhiều lần bị trách mắng, khổ chịu không nổi, nên mang đơn về kinh, vừa may gặp Hoàng thượng tuần du nên quì lạy bên đường kêu xin.

Những người tùy tùng, các vương công đại thần thấy Hoàng thượng mắt mũi kèm nhèm như vậy nên đều cảm thấy Càn Long đã ở cái buổi hoàng hôn ngày tàn.

- Hoàng thượng, việc này xử lý thế nào... Hòa Thân hỏi và nhìn thấy cổ họng Càn Long như có đờm, vội vàng cầm ống nhổ đến trước mặt Càn Long. Quả nhiên Càn Long khục khặc mấy tiếng, nhổ ra một bãi đờm đặc quánh. Hòa Thân lau sạch mồm cho Càn Long.

- Mỗi mẫu đất thu nửa thạch, đã có quy định, sao lại thay đổi, mỗi năm tăng dần lên, năm ngoái sao lại giảm xuống, việc này phải điều tra rõ. Hơn nữa, toàn huyện đều nộp đủ, cớ sao chỉ riêng Dương Tú Cẩm kêu xin? Phải kiểm tra rõ.

- Thần cho rằng việc này phải xem xét kỹ. Nếu Dương Tú Cẩm bịa chuyện, thì phải trị tội, không thì dân chúng bắt chước làm theo, khắp nơi lắm chuyện; nếu các quan địa phương tùy tiện thu thêm mà không xem xét, khiến dân khổ sở, nước chẳng còn ra nước. Nô tài đề nghị, nên cho tổng đốc Lưỡng Giang, Tô Lăng A đi kiểm tra trước.

Càn Long suy nghĩ, cử Tô Lăng A đi kiểm tra, việc ở tỉnh khác, tất không vì tình riêng, rồi nói:

- Nghe nói Tô Lăng A già nua lẩm cẩm, Trẫm muốn gặp ông ta, cử ông ta đi kiểm tra, cũng có phần e ngại.

- Nô tài cho rằng, người già, nhìn xa trông rộng kinh nghiệm nhiều, đứng cao nhìn xa, làm việc chắc chắn, thấu đạt sự lý, Khương Tử Nha, Diều Sùng đều già cả nhưng được việc, hăng hái nhiệt tình, sao lại nói già cả lẩm cẩm. Lời tâu ngông cuồng. Xin Hoàng thượng bỏ qua.

- Khanh nói chí phải. Hãy cử Tô Lăng A đi điều tra cấp tốc tâu báo về ngay.

Tối hôm đó, nghỉ tại cung Thu Lan Thôn. Hành cung Thu Lan Thôn nằm trong địa phận Dương Châu. Cách Dương Châu 30 dặm, về phía nam, có Hoàng Kim Đài, tương truyền rằng, Yến Chiêu Vương cho xây nơi này để cầu hiền tài. Trước đây khi Càn Long còn khỏe đi tuần du miền tây đã đến Hoàng Kim Đài, có đề bài thơ “Hoàng Kim Đài” như sau:

“Ngựa trắng đang đợi đó, Lầu vàng đang chờ mong.

Giã từ túp lều tranh, Đáp lại lòng ao ước.

Nước chảy về chỗ trũng, Trời thu rộng đón khách.

Bài thơ này tạm đề, Mong chờ ai đáp lại”.

Càn Long lúc còn trai trẻ rất mong muốn có nhiều người hiền tài. Giờ đây đã 82 tuổi, trở lại chốn này, không biết ông còn muốn tìm hiền tài nữa không.

Dừng chân tại Long Tuyền Quan, nghỉ một ngày, bộ Hình chuyển lên Càn Long một vụ án: Thang Thị, con dâu của Vĩ Đà Bảo, người Sơn Tây, lén dấu thuốc độc, cho mẹ chồng uống. Thang Thị nói rằng thuốc đó là của cha mình đưa. Quan địa phương xét hỏi chưa ra, nhân Hoàng thượng xa giá đến đây, có cả các đại thần trong triều, nên gửi vụ án lên bộ Hình, bộ Hình chuyển lên Càn Long.

Càn Long gọi Hòa Thân đến, hỏi:

- Vụ án này phức tạp, theo khanh, mấu chốt vụ án là ở chỗ nào?

- Mấu chốt vụ án là ở ngay bản thân Thang Thị.

- Bộ Hình đã tra khảo, Thang Thị vẫn một mực khai thuốc đó là do cha mình đưa.

- Chỉ cần hỏi một câu thế này: “Vì sao cha ngươi lại cho ngươi thuốc đó”. Chắc chắn sẽ rõ ngay.

- Cứ thế. Khanh đi thẩm vấn xem sao.

Hòa Thân cho giải người đàn bà đó đến. Hỏi ngay:

- Vì sao ngươi vu cáo cha ngươi, lại còn dối trá?

- Vì sao tôi lại vu cáo cha tôi, cha tôi đưa thuốc cho tôi để tôi sát hại mẹ chồng.

- Con đàn bà điêu ngoa to gan thật, trước mặt tướng phụ mà còn lừa dối chối quanh. Ngươi nói xem, vì sao cha ngươi muốn giết mẹ chồng ngươi, không nói thì chết.

Thang Thị không đáp. Hòa Thân lại hỏi:

- Ngươi vu cáo cha ngươi, chắc là có uẩn khúc gì đây, ngươi không nói, ta cũng hiểu rõ, ta muốn ngươi khai rõ sự thật, chồng ngươi ép ngươi như thế nào?

Hòa Thân cho rằng, dù không nói ra nguyên nhân người cha dùng thuốc độc giết người thân, mà phải vu cáo giết mẹ chồng cũng vì người khác ép buộc, và còn buộc vu cáo cha mình dùng thuốc giết mẹ chồng, việc này chỉ có thể là một người mà thôi, người đó là Vĩ Đà Bảo, chồng của hắn.

Thang Thị thấy Hòa Thân nói rõ sự việc, nghĩ rằng không thể che dấu được nữa, nên khai ra tất:

- Thuốc độc là do chồng tôi đưa, bảo tôi sát hại mẹ chồng, sau đó vu cáo cho cha tôi.

- Vì sao chồng ngươi lại căm thù cha ngươi?

- Tôi không biết.

- Ngươi ép vợ giết mẹ, táng tận lương tâm; lại vu cáo cha vợ, trời đất không dung, quốc pháp không tha. Hòa Thân nói với Vĩ Đà Bảo, nhìn thẳng vào Vĩ Đà Bảo.

Vĩ Đà Bảo hoảng sợ. Hòa Thân thấy vậy, hiểu rõ, hỏi:

- Ngươi là một đứa táng tận lương tâm, ngươi và cha vợ đã cãi vã thế nào, mà ngươi vu cáo ông ta, hãm hại ông ta, lại còn mượn tay vợ đầu độc mẹ mình. Chết đến nơi rồi, vì sao ngươi căm hờn hai bậc cha mẹ, họ đã làm gì, để ngươi phải căm hờn như vậy. Nếu không khai ra, sẽ xử ngươi hình phạt lăng trì ép buộc vợ giết mẹ mình, vu cáo cha vợ vào tội chết, như vậy tất phải là hận lắm, không được quanh co.

Vĩ Đà Bảo thấy Hòa Thân nói rõ tất cả, nên có dấu cũng chẳng được, đành khai thật:

- Cha vợ và mẹ tôi thông dâm với nhau, bất chấp tất cả, thật đáng căm giận, thảo dân phải đầu độc giết chết cả hai.

Càn Long thấy Hòa Thân điều tra ra vụ này, hết sức khen ngợi Hòa Thân.

Ngày 22, Hòa Thân theo Hoàng thượng đến Ngũ Đài Sơn, nghỉ tại hành cung trên đỉnh Bồ Tát.

Lúc này đang giữa mùa xuân, khắp núi hoa nở rộ, gió rét thấu tận xương. Hòa Thân và Phúc Trường An, theo sát kiệu Càn Long chuyện trò với Càn Long. Hòa Thân luôn mồm nhắc nhở các thị vệ bước đi chậm rãi, giữ kiệu thăng bằng tránh xóc. Hòa Thân tâu:

- Nô tài cho rằng, Hoàng thượng tuổi cao, đi một chuyến thế này đâu phải dễ, đây là lần thứ sáu tuần du miền tây, sau này chắc gì Hoàng thượng đến nữa. Lần này phải dạo chơi cho thỏa thích, ngắm cảnh Ngũ Đài Sơn cho đã đời.

- Trẫm cũng nghĩ vậy.

Ngày 27, Càn Long khởi giá đến hành cung Bạch Vân Tự.

Đêm khuya gió rét thổi mạnh, rít lên từng cơn. Hòa Thân đang giúp Càn Long cởi áo, chuẩn bị đi ngủ, bỗng bức tường phía đông và phía nam sập đổ ào ào, gió núi thốc vào, Hòa Thân và Càn Long cả kinh. Hòa Thân vội vàng lấy chăn trùm kín Càn Long, bê Càn Long sang căn phòng khác, nào ngờ căn phòng này cũng rung chuyển dữ dội. Lúc này, Phúc Trường An chạy đến nói:

- Căn nhà thấp lè tè đằng kia chắc chắn hơn. Mọi người đến đó.

Đó là căn nhà ở của các phi tần. Các cô đang trần truồng như nhộng, bỗng thấy mấy người đàn ông bước vào, hốt hoảng cả lên. Hòa Thân đặt Càn Long lên giường một phi tần, kéo tấm chăn của phi tần này, lôi cánh tay của cô ta, ấn Càn Long vào lòng cô và nói:

- Ôm chặt lấy Hoàng thượng, không được để Hoàng thượng rét. Hoàng thượng, Hoàng thượng tạm thời ở đây, thần đi xem xem, trở lại ngay.

Mấy thái giám bước vào, Hòa Thân lệnh cho họ chăm sóc chu đáo Hoàng thượng, không được sai sót. Nói xong bước ra ngoài đến trước bức tường vừa sụp đổ xem kỹ. Hóa ra, căn phòng vẫn như cũ, bức tường hai mặt đông - nam chỉ dùng que tre chống lên, phủ bằng chiếu cói, bên ngoài trát vôi, nhìn qua trông như thật, Nhưng ai ngờ tối nay gió mạnh, bức tường kia lộ nguyên hình tường giả. Đến xem các căn nhà khác cũng đều như thế cả. Tường cũ phá đi làm lại, tưởng là tường mới chắc chắn, nào ngờ toàn tường giả.

Hòa Thân hoảng quá, quên cả mệt nhọc, muốn đến chỗ Càn Long đang nằm để đấm bóp xoa cho Càn Long, nhưng... ông không dám nghĩ thêm, nói với Phúc Trường An:

- Anh gọi ngay tên quan phụ trách sửa chữa hành cung đến xét hỏi. Nói xong vào ngôi nhà Càn Long đang nghỉ.

Lúc này Càn Long đã mặc áo quần chỉnh tề. Các vương công đại thần hộ giá đã có mặt trong phòng. Càn Long hỏi Hòa Thân tình hình bên ngoài. Hòa Thân không dám dấu diếm, tâu hết sự thật. Càn Long cả giận:

- Cả gan lừa dối Trẫm, đó chẳng phải là mưu sát Trẫm ư? Và lệnh cho Hòa Thân điều tra.

Có đại thần tâu:

- Tất cả các hành cung khác không thể không có hành vi làm dối đánh cắp vật liệu, phải tiến hành kiểm tra kỹ.

- Chuẩn tấu. Nghiêm trị không tha.

- Xin giao việc này cho nô tài, nô tài kiểm tra ngay đêm nay. Hoàng thượng đi đường mệt nhóc, lại thêm lo sợ, cần phải yên nghỉ, các vị đại thần cũng nên về nghỉ, Hòa Thân tâu. Mọi người rút lui, thái giám và phi tần tiếp tục hầu hạ Càn Long.

Tối đó, tên quan phụ trách sửa chữa hành cung bị giải đến. Hắn nói:

- Hòa đại nhân cứu tôi.

Nói chưa dứt lời, hắn đã bị thị vệ của Hòa Thân chặt đầu. Hòa Thân đâu để cho hắn nói. Trong vụ này kiếm được 1 vạn lạng bạc, Hòa Thân chặn lấy một nửa, để hắn một nửa. Hòa Thân nghĩ rằng: “Tay này cũng quá tham. Năm ngàn lạng đó, theo như hiện nay, sửa chữa có nhiều lắm cũng chỉ mất 200 lạng, số còn lại, cùng các quan khác chia nhau, ít nhất hắn cũng bỏ túi được 4.000 lạng. Ta phụ trách công trình, nhận được một ít bạc, thế mà dám làm dối trá, hành cung của Hoàng thượng mà cả gan dùng chiếu cói che chắn vôi hồ tựa đồ hàng mã, qua loa tắc trách cho xong chuyện, quả to gan thật”. Hòa Thân không nỡ giết hắn nhưng phải giết, vì sợ, trước mặt văn võ bá quan, hắn khai ra sự thật.

Chặt đầu hắn xong, Hòa Thân nói với Phúc Trường An:

- Anh đi trước kiểm tra xem dọc đường có tên vô lại nào không. Nếu có, anh phải biết nên xử lý như thế nào rồi, viên tri phủ ở trạm đầu tiên phía trước, giết được cứ giết.

Phúc Trường An vâng lệnh, dẫn thị vệ và quân lính đi ngay trong đêm.

Sáng sớm hôm sau, Hòa Thân đến phòng ngủ của Càn Long, cùng với mấy vị đại thần đứng chờ ngoài cửa. Một lát sau, Càn Long truyền cho vào, hỏi:

- Việc ấy giải quyết thế nào rồi?

- Nô tài đã xử tội tên ấy ngay tại chỗ.

- Chết chưa hết tội, giết hắn để răn thiên hạ.

- Nô tài đã lệnh cho Phúc Trường An đi ngay tối qua, kiểm tra các hành cung và đại doanh dọc đường, nếu nơi nào cả gan làm dối đánh cắp vật liệu, quan chức nào làm rối kỷ cương thì nhất định nghiêm trị, quyết không dung thứ.

- Các tỉnh cho đến triều trung phải kiểm tra chặt chẽ, thế nào cũng có kẻ tham ô phá rối kỷ cương pháp luật.

Càn Long nói đúng. Từ trung ương đến địa phương có công trình nào, có kiến trúc nào, mà không bị ăn chặn, có quan phụ trách nào không ăn hoa hồng, không tham ô hối lộ. Như tên quan kia bị Hòa Thân giết, giết trước những tên quan ấy rồi kiểm tra sau, chẳng sai tí nào. Nhưng nếu thật như vậy, các quan trong thiên hạ đều bị giết sạch. Ai có thể làm như vậy. Hòa Thân giết tên tri phủ nọ chẳng qua là để làm gương cho các quan khác. Nếu bạn nhận tội, tức bạn tự nhận trách nhiệm, tự nhận rủi ro, không liên quan gì đến Hòa Thân. Không phải như trong mơ, bạn dù có bị chém, cũng nói được nửa lời, đầu bạn mới bị cắt.

Xa giá rời khỏi hành cung Bạch Vân Tự, đi được một ngày, vào nghỉ tại hành cung Đài Lộc Tự. Nhìn thấy các cung điện nhà cửa ở đấy đều làm giả dối, Hòa Thân tâu với Càn Long:

- Tên tri phủ phụ trách đã bị trừng phạt tại chỗ.

Càn Long hết sức tức giận, muốn tự tay mình giết sạch lũ quan thối nát đó. Ai ngờ, trên đường đi, tình trạng làm dối ăn chặn coi thường luật pháp đó liên tiếp hiện ra. Càn Long cảm thấy quan lại thối nát, triệu Lưu Dung và Hòa Thân đến nói:

- Thiên hạ thái bình, quan lại an nhàn, sinh ra hư đốn, phá hỏng kỷ cương, nếu không chỉnh đốn, nước chẳng ra nước. Hãy truyền ý chỉ của Trẫm, từ triều đình đến địa phương, chỉnh đốn kỷ cương phép nước, thật nhanh thật mạnh, không được chậm trễ.

Hai người phụng mạng. Hòa Thân ở lại hầu hạ vua. Lưu Dung đi kiểm tra các tỉnh.

Ngày 1 tháng 4, nghỉ tại đại doanh Hoa Bì Thôn, được báo dân vùng Lệ Gia Sơn, huyện Thái Hồ, phải đào củ đuôi chồn ăn đỡ đói, nào ngờ đào xuống đất chỉ thấy thóc cháy, nên lấy thóc cháy giã nhỏ thành bột, trộn với gạo nấu ăn, tạm đỡ đói. Dân chúng các nơi nghe tin kéo đến đào tìm. Càn Long chỉ dụ cho quan lại địa phương tìm cách không kể cho dân chúng giành giật nhau dễ sanh chuyện. Nghe dân chúng đào được một ngàn mấy trăm thạch, Càn Long làm bài thơ “Chí Sự Thi”:

“Rễ cỏ với vỏ cây, Dân nghèo nhờ đó sống.

Xót thương bày cứu tế, Mong sao việc ấy không.

Yên lòng khi nghe báo, Dân đói được trời thương.

Đào củ khuấy hồ ăn. Không ngờ lại được thóc.

Giã bột hòa với gạo, Nấu cháo ăn đỡ đói.

May được hơn ngàn thạch, Khắp nơi đều kéo đến.

Huyện lệnh phân cho dân, Ai ai cũng được cấp.

Nhìn trông bát cháo kia, Tự ta thử thưởng thức.

Dân ta ăn thứ ấy, Ta thử mà lệ rơi.

Ơn trời còn mãi mãi, Cảm thấy sao xấu hổ.

Ân hận chất đầy người, Rủi ro mà may mắn.

Nhắn nhủ đàn con cháu, Hôm nay nếm vị này.

Mãi mãi phải nhớ ghi, Yêu dân phải hết lòng”.

Càn Long nói:

- Hòa Thân, Trẫm tuần du miền tây lần này thấy quan lại thối nát, nghe dân đói đào rễ cây ăn, Trẫm tự cho mình là bậc thiên tử vẹn toàn, có thỏa đáng không?

- Giang Sơn triều Đại Thanh rộng lớn, khó tránh khỏi có nơi nào đó thoát khỏi hạn hán lũ lụt, có một số dân chúng đói nghèo cũng là điều thường thấy ở một nước lớn. Xưa nay, có quan tốt thì cũng có quan xấu, có luật pháp thì có kẻ vi phạm pháp luật, nếu không có những kẻ vi phạm pháp luật, thì chẳng cần có pháp luật. Hoàng thượng văn thông võ lược, từ xưa nay chưa ai bằng, đúng là bậc thiên tử vẹn toàn.

Càn Long nghe có lý.

Khi Càn Long tuần du phương nam, Lưu Dung làm tri phủ Giang Ninh, có tiếng là vị quan hiền, sau được thăng lên chức Tả đô ngự sử, rồi Trực nam thư phòng, giúp Càn Long khởi thảo chỉ dụ, lúc đó cùng với Hòa Thân đến Sơn Đông điều tra vụ Lưu Quốc Thái, được Càn Long ban thưởng, làm Thượng thư bộ Công, rồi Tổng sư bát thư phòng, kiêm Tổng đốc Trực Lệ, được phong tước Hiệp biện đại học sĩ, quyền thế lẫy lừng. Năm thứ 54, vì thầy dạy các hoàng tử mấy ngày liền không đến thư phòng, Lưu Dung là Tổng sư bát nên bị giáng xuống làm thị lang. Sau đó không lâu lại nhận chức Nội các học sĩ, rồi Sứ bộ thượng thư.

Lưu Dung thường nói:

- Ta bình sanh có ba cái tài: được thăng chức, làm thơ, và chữ đẹp.

Học trò của ông là Anh Hòa hỏi:

- Thư pháp của thầy nổi tiếng gần xa, người Triều Tiên cũng phải xin thư pháp của thầy. Sao thầy quá khiêm tốn như vậy?

- Ta không thể không khiêm tốn, phải khiêm tốn mới được việc, việc chưa thành, thường có kẻ dòm ngó?

Thư pháp của Lưu Dung, lúc đầu theo phái Tùng Tuyết Nhân, sau đó hòa hợp với thư pháp Thư Đại Gia và trở thành một phái riêng, không gò bó theo người xưa, độc lập, trở thành người đứng đầu một môn phái thư pháp. Thơ của ông cũng mới lạ tự nhiên, như mây trôi nước chảy, có cả phong cách của Tô Đông Pha.

Do vậy, Lưu Dung được sủng ái, cũng giống như Kỷ Hiểu Lam, tuy nhiên có chỗ khác nhau. Lưu Dung không những có tài văn thơ, mà còn có tài chính trị. Giống như Hòa Thân, nhưng một chánh một tà, đều được Càn Long sủng ái.

Lưu Dung cùng với thị vệ và tùy tùng không xuống phía nam mà đi về phía bắc, lặng lẽ đến Đại Đồng, ăn mặc rách rưới tay cầm chiếc bánh nướng, vừa đi vừa ăn, đến một quán nước ngồi xuống, nhìn thấy những người xung quanh ăn mặc rách rưới, bèn nói:

- Sống khổ sở quá nhỉ.

Nào ngờ có người nghe được câu ấy, giật mình, vừa cười vừa nói:

- Có quan tri phủ chăm lo chu đáo, có Hoàng thượng anh minh dạy dỗ, chúng tôi làm sao mà sống khổ sở, ngài chẳng hiểu đạo lý gì cả.

Thế là, Lưu Dung cùng họ trò chuyện, chẳng ai để ý đến ông.

Lưu Dung đến mấy nơi, hỏi han dân chúng, ai nấy đều ca ngợi, thiên hạ thái bình, Hoàng thượng anh minh, quan lại hiền tài, chẳng ai nói “không”. Điều tra mấy ngày, đành đi về phía nam.

Nguyên do là, Minh Bảo, tri phủ Đại Đồng đã chơi trò như sau. Hắn cho mấy tên nha dịch thân tín, chia nhau trà trộn trong dân chúng, nghe ngóng dư luận, thấy có mấy người ta thán, bèn trói họ lại, kéo dong khắp phố, rồi chặt đầu họ, bêu trên cổng thành. Minh Bảo giả vờ không biết việc này, tuyên bố với dân chúng rằng: “có gì không vừa lòng, có gì oán hận, cứ nói ra, nói tất những gì chúng tôi sai sót, như vậy mới là yêu thương chúng tôi. Hãy nói đi”.

Do đó, có mấy người cho rằng Minh Bảo là một vị quan thanh liêm, không thích nịnh hót, biết nghe ý kiến của dân chúng, quan tâm đến nỗi khổ cực của dân chúng, vì quốc gia mà lo nghĩ, một lòng vì Hoàng thượng mà không chút vị tư, quang minh chính đại, không sợ khuyết điểm, nên đã mạnh dạn đưa ra một vài ý kiến. Quả nhiên được biểu dương. Dê không đầu không đi được, chim không đầu không bay được. Có dê đầu đàn, có chim đầu đàn, lại được biểu dương. Vậy là nhiều người góp ý kiến. Kết quả là, mấy con dê đó, mấy con chim đó bị giết sạch, bị vặt hết lông. Như thế đó, ở cái phủ Đại Đồng này, còn ai dám kêu khổ.

Minh Bảo cho người cấp báo với Hoà Thân rằng, Lưu Dung đã đến Đại Đồng. Ông cậu khen cậu cháu sáng suốt, thư viết: “Tể phụ liệu việc như thần, nói Lưu Dung lên bắc chứ không xuống nam. Đúng như vậy”.

Lúc này Hoà Thân theo Càn Long về Bắc Kinh, nhận được thư của Minh Bảo, cười to: “ Cho ông ta kiểm tra”. Ông viết thư gửi gấp đến các địa phương, lệnh cho những người thân tín tâm phúc phải hết sức cẩn thận.

Lưu Dung đến Đại Đồng chẳng có kết quả. Thay đổi kế hoạch, không đi Thái Nguyên, đến thẳng Hà Nam. Ông không nghỉ lại trong thành, men theo đường nhỏ, vào nghỉ trong thôn xóm.

Hôm đó, Lưu Dung đến địa phận Đặng Châu, Hà Nam, nhìn thấy một người bán ô đi theo ông ta trò chuyện, cười cười nói nói, đi được ba dặm đường, hai người gọi nhau anh em.

Lưu Dung hỏi:

- Chú em làm nghề này, kiếm được khá tiền không?

Vương Nhị, người bán ô đáp:

- Mấy năm trước còn được, mấy năm lại đây ngày càng khó khăn, dân chúng có đồng nào đều bị vơ vét sạch, ô là phương tiên dự phòng, nên có mấy người mua đâu, nông dân chẳng ai mua; trong thành, các tiểu thương tiểu chủ có một ít tiền cũng không mua vì chưa cần. Ô không bán được, đôi lúc còn bỏ tiền ra nữa chứ. Khi vào thành, phải nộp thuế vào cổng thành, lúc bày bán, đã có cậu cháu con chị tôi ở đấy thu thuế, nhưng đâu phải lúc nào nó cũng được trực ở đấy, nên lúc không may gặp người khác thì đành móc túi đưa ra một ít tiền. Cho nên những lúc không có cậu cháu tôi ở đấy, tôi không dám vào thành bày bán.

- Mấy năm nay, ở Đặng Châu không có thiên tai địch hoạ, sao lại cực khổ thế này? Lưu Dung hỏi:

- Anh là tiểu thương từ nơi khác đến, làm sao biết được sự tình ở đây. Năm nào được mùa, quan trên càng vòi vĩnh ghê gớm. Các vị nói: năm nay được mùa, phải cống nộp nhiều cho triều đình, nào đào sông, đắp đường... nhiều lắm, kể không xiết, hết lần này đến lượt khác đòi dân nộp tiền.

- Đó chẳng phải là việc tốt sao?

- Tốt thì tốt đấy. Nhưng với quan tham thì thành xấu tất. Đó chẳng qua là cái cớ, là cách tốt để họ moi tiền. Ngay cả vị lương chánh ở đây, mới làm việc được hai năm, thu thuế cho huyện trong hai năm, mà đã có nhà cửa vườn tược ở trong thành; nếu làm năm bảy năm thì cả đời chẳng lo đói. Người ta tranh nhau làm chức bảo trưởng, giáp trưởng. Làm bảo trưởng, giáp trưởng có thể khỏi đi làm xâu, khỏi nộp thóc gạo, thực ra có thiếu một suất thì lại bổ lên đầu người khác, nếu có dôi ra thì bảo trưởng, giáp trưởng lại làm thinh bỏ túi.

- Ta có thể đến nhà chú em nghỉ chân được không? Chú em cho ta xem những tờ biên lai ấy.

Vương nhị là con người hiếu khách, nói:

- Nếu ông anh không ngại nhà em nghèo khó, đến đấy ở mấy ngày cũng được.

Tối đó, Lưu Dung ở tại nhà Vương Nhị, chào hỏi mẹ Vương Nhị và đưa cho Vương Nhị năm lạng bạc, coi như là quà biếu mẹ bạn. Vương Nhị là người thật thà, từ chối mãi không được, đành phải nhận, càng nhiệt tình với Lưu Dung. Biên lai thuế đất ghi mỗi mẫu một lạng tám tiền. Biên lai quyên góp ghi có đến hơn 40 khoản mục, tương ứng với số tiền quyên góp của Sơn Đông năm đó, nhưng triều đình đã có công văn đến các địa phương, huỷ bỏ các khoản quyên góp ấy, thế mà chẳng bỏ khoản nào.

Tối đến nói chuyện về tình hình Hà Nam. Vương Nhị vui vẻ kể chuyện Sùng Chấn Khôn, một tài tử của địa phương như sau:

- Sùng Chấn Khôn, một tài tử của Yêm Châu, được mọi người gọi là tài tử Trung Châu, học rộng biết nhiều. Tri phủ Yêm Châu là Thang Tự Từ, một tên quan tham nhũng khét tiếng, nhưng vì thầy của ông ta là Hoà Thân, nên không ai dám động đến ông ta, dù ông ta tác oai tác quái. Chiếc ghế của ông ta vẫn vững chắc. Thang Tự Từ có một tên nha dịch là Phan Cao, giỏi tài nịnh bợ, nên được Thang Tự Từ hết sức tin tưởng.

Thang Tự Từ trước đây bỏ tiền lo lót Hoà Thân mua chức tiến sĩ, chứ chẳng có học hành tài cán gì, nghe nói Đặng Châu có một tài tử được mọi người gọi là “tài tử Trung Châu”, nên sinh ra đố kỵ, bèn bảo Phan Cao đến nhà Sùng Chấn Khôn.

Một hôm, Phan Cao từ phủ nha về nhà, trên đường đi gặp Sùng Chấn Khôn, thấy Sùng Chấn Khôn tay cầm chiếc đèn lồng, trên mặt đèn có bốn chữ “ta là thiên tử”, giật mình, nhưng rồi lại thích thú, chạy ngay về phủ nha, kể chuyện lại với Thang Tự Từ. Thang Tự Từ mừng quá sức tưởng, vội sai nha dịch ra phố bắt giải Sùng Chấn Khôn về phủ nha, thăng đường thẩm vấn ngay đêm đó. Thang Tự Từ hỏi:

- Sùng Chấn Khôn, ngươi biết tội chưa?

- Tôi có tội gì đâu?

Phan Cao giật chiếc đèn lồng trong tay Sùng Chân Khôn đưa cho Thang Tự Từ. Thang Tự Từ hỏi:

- Trên chiếc đèn này có viết bốn chữ “Ta là thiên tử”. Đây không phải tội mưu phản là gì?

- Xin đại nhân nhìn cho kỹ, trên chiếc đèn này còn có mấy chữ nhỏ nữa.

Thang Tự Từ nhìn kỹ lại, quả nhiên thấy dưới bốn chữ “Ta là thiên tử” còn có ba chữ nhỏ “một người dân”. Nghĩa cả câu đó là “ta là một người dân của thiên tử”. Thang Tự Từ vểnh râu trợn mắt, tức quá, nhưng dành phải thả Sùng Chấn Khôn ra.

Mấy hôm sau, là ngày mừng thọ Thang Tự Từ 50 tuổi. Thang Tự Từ sai người đến nhờ Sùng Chấn Khôn viết cho mình một bức liễn, và một chữ “thọ”. Sùng Chấn Khôn đáp ứng ngay, lấy giấy bút ra viết và đưa cho tên nha dịch mang về.

Nha dịch mang chữ “thọ” và bức liễn về. Thang Tự Từ mừng há hốc mồm, từ từ mở chữ “thọ” ra, mọi người xúm lại tấm tắc khen chữ đẹp, kiểu chữ theo thể Nhan, thể hiện giàu sang, thật hợp với lễ mừng đại thọ 50 tuổi của tri phủ Thang Tự Từ. Đúng lúc mọi người đang trầm trồ khen ngợi, bỗng có người nói: “chữ thọ” đó thiếu một chấm, nhưng vẫn là thọ không chấm”. Mọi người nhìn lại, ừ không có “chấm”, thọ không có “chấm”, là không thọ, Thang Tự Từ tức quá vứt chữ “thọ” đi. Có người nhặt lên nói: “Chữ thọ” không chấm vốn là không thọ, nhưng vứt đi, thì càng không thọ”. Viên tri phủ càng căm, đang định xé nát bức liễn, nhưng đã có người mở bức liễn ra, bức liễn có hai câu đối:

“Tự giả tượng giã, tượng hổ tương báo tượng sài lang, bất tượng châu chủ.

Từ giả ái dã, ái kim ái ngân ái tiền tài, bất ái lê dân”.

(tạm dịch: Ông Tự giống gì, giống hổ giống báo giống sài lang, không giống tri châu,

Ông Từ yêu gì, yêu vàng yêu bạc yêu tiền của, chẳng yêu dân nghèo.)

Chữ đầu của hai câu đối trên ghép lại là hai chữ “Tự Từ”. Bức liễn đã chửi thậm tệ tên quan phủ chó má.

Nghe Vương Nhị kể xong. Lưu Dung hỏi:

- Các anh nói tên tri phủ đó là tên quan tham, vậy có gì làm bằng chứng?

Vương Nhị và Lưu Dung nằm chung trên một chiếc “giường” - sàn đất trải cỏ khô, bên trên phủ một bức chiếu. Vương Nhị ghé sát Lưu Dung nói:

- Ông anh, chẳng dấu gì ông anh, em còn biết chắc một việc này, các bao lương trong kho lương, một nửa là đất.

- Sao có thể như thế được? Lưu Dung cả kinh hỏi.

- Trước đây có một vị đại quan là Doãn Tráng Đồ, đã vì dân chúng tâu với Hoàng thượng rằng, các kho bạc và lương thực tại các tỉnh đều trống rỗng. Hoàng thượng không tin, cử ông đi kiểm tra, nào ngờ Hoà Thân cử Khánh Thành đi theo ông, kiềm chế mọi hoạt động của ông. Quan lại các tỉnh nhận được thông báo của Hoà Thân, đều vay mượn tiền bạc lương thực của nhà buôn và dân chúng đem về chất đầy kho. Khi Doãn Tráng Đồ đến kiểm tra, kho đầy ắp. Chẳng dấu gì ông anh, tuy Doãn Tráng Đồ không đến kiểm tra Đặng Châu chúng tôi, nhưng tri phủ Đặng Châu là đồ đệ của Hoà Thân cũng đã vay mượn dân chúng tôi cả tiền bạc và lương thực, có bao nhiêu mượn bấy nhiêu, càng nhiều càng tốt năm tới sẽ trừ bớt vào khoản tiền thuế ruộng thuế thân, không cho mượn thì tăng thuế. Tiền bạc của các gia đình, các hộ cho mượn đều tập trung lại, đúc thành khối đúng trọng lượng màu sắc như bạc trong kho. Nghe nói số bạc của Đặng Châu chúng tôi đều được chuyển lên Trực Lệ.

- Chú em chưa kể hết chuyện kho lương của tri phủ Đặng Châu, Thang Tự Từ phải không?

- Đặng Châu thu lương thực rất ít, thực ra đều được đổi thành bạc. Bạc lại rơi vào hầu bao các quan, số lương thực còn lại, một phần bán rẻ cho Hoà Thân, một phần để lại trong kho, số lượng không đủ thì làm thế nào? Chuyển đất vào kho, chứa vào bao, lúc niêm phong thì bỏ vào đấy một ít lương thực. Cứ vài năm lại báo về triều đình xảy lũ lụt hạn hán, phát lương thực cứu tế nạn nhân. Lương thực lẫn đất đó được phân về các địa phương, các địa phương lại phân cho dân chúng. Nếu ai nói trong đó có nhiều đất cát, thì họ chẳng được nhận kể cả phần lương thực lẫn đất cát đó, và bị bắt giữ lại, nói là họ nói xấu Hoàng thượng. Hoàng thượng yêu thương dân chúng, phân phát lương thực, cớ sao lại nói Hoàng thượng phân phát đất, phụ tấm lòng tốt của Hoàng thượng. Ông anh thử xem, nhận được tí lương thực còn hơn chẳng nhận được gì, nghe đâu số lương thực đó còn chuyển đến các vùng bị thiên tai khác, đại khái cũng như ở chỗ chúng em, dù sao có còn hơn không.

- Sao chú em lại biết cụ thể như thế?

- Cậu cháu của em là người thu thuế trong thành, cùng là cái chức quan béo bở. Chức quan béo bở như vậy phải là người thân tín của quan huyện quan phủ, phải cống nộp nhiều lễ vật cho họ. Do vậy các quan phủ huyện và các hương chánh làng xã hàng năm phải đem xe vào phủ kho, nói vậy, có nghĩa là nhân tài có máu mặt mới làm được.

Hôm sau, Lưu Dung triệu tập thị vệ và tuỳ tùng đến phủ Đặng Châu, đưa ấn quan ra, bảo Thang Tự Từ dẫn đến kho lương thực. Thang Tự Từ nói ngon nói ngọt úp úp mở mở cho qua chuyện. Lưu Dung không nghe. Thang Tự Từ cảm thấy lành ít dữ nhiều, nghĩ bụng: “May mà tướng phụ đã báo trước, ta đã có chuẩn bị chút ít, lần này cũng có thể lấp liếm qua được”. Thang Tự Từ không dám chống lại Lưu Dung đành phải đi trước dẫn đường.

Đến kho phủ, mở cửa kho. Lưu Dung lệnh cho bọn nha dịch mở các bao lương thực ra, nhìn thấy đầy lương thực, Lưu Dung bảo bọn nha dịch thọc tay bới sâu, nhưng chẳng thấy gì khác, bèn nói: “Được rồi”.

Thang Tự Từ lúc này mới hết lo. Lưu Dung phát hiện được tâm trạng đó, bèn nói: “Hãy khoan”.

Tim Thang Tự Từ như ngừng đập, Lưu Dung thấy vậy biết tỏng, lệnh cho tuỳ tùng của mình: “Thọc tay vào bới”.

Các tuỳ tùng bước vào, bới các bao thóc ra, chẳng phải đất là thứ gì đây? Lúc này Thang Tự Từ xịu xuống đất chân tay bủn rủn.

Lưu Dung kiểm tra hết các huyện, ở đâu kho lương cũng thiếu, kho bạc cũng hụt, những kho bạc vừa niêm phong kỹ, dùng tay đấm mạnh, toát ra một lỗ hổng to tướng!

Tấu báo gấp về triều đình. Triều đình kinh hoàng,

Càn Long kinh hoàng, Hoà Thân kinh hoàng.

Trên tường thành phủ Đặng Châu lại thêm mười mấy chiếc đầu lâu.

Nhà cửa của các tri phủ huyện lệnh đều bị tịch thu sung vào kho phủ.

Lúc này Vương Nhị mới biết người tiểu thương nọ cùng nằm với mình trên bức chiếu chính là Lưu Dung.

Hoà Thân lại cấp tốc lệnh cho các đồ đệ phải hành động thận trọng. Khi Lưu Dung thẩm vấn Thang Tự Từ, nhưng không nắm được chứng cứ về Hoà Thân. Thang Tự Từ chối, các huyện lệnh cũng chối, nói rằng bán cho các nhà buôn lương thực ở Bắc Kinh, nên không truy hỏi nguồn gốc của họ. Càn Long xem bản tấu, nghe Hoà Thân dính líu đến việc mua bán lương thực, nhưng lờ đi, cho rằng Hoà Thân không rời mình một bước, thì làm gì có chuyện mua lương thực.

Tô Lăng A liên tiếp nhận được mấy lá thư của Hòa Thân, suy tính nên xử lý sự việc ở Quý Châu thế nào. Cuối cùng quyết định: đáng ăn mà không ăn cũng không được, đáng lấy mà không lấy cũng không được, nên làm như thế nào phải làm như thế nấy, ăn xong, uống xong, lấy xong, cứ thế xử tội. Cuối cùng đem những thứ vơ vét được, biếu Hoàng thượng một ít, biếu Hoà Thân một ít, còn bao nhiêu thuộc về mình tất.

Tô Lăng A đến Quý Châu, chẳng thèm gặp Tuần phủ Quý Châu, đến thẳng huyện Trấn Viễn. Huyện lệnh Trấn Viễn và tri phủ cấp trên ông ta vội vàng ra thành nghênh tiếp, dựng lều, chuẩn bị đội nhạc, rất chi rầm rộ. Trưa đó bày tiệc chiêu đãi. Tô Lăng A vừa cười vừa nói, chốc chốc vỗ vai huyện lệnh, chốc chốc vỗ vai tri phủ. Tri phủ và huyện lệnh thấy ông ta thân mật như thế, an tâm phần nào. Tối đến, đưa tới mấy cô gái da trắng, và tất nhiên cả mấy vạn lạng bạc. Tô Lăng A không từ chối. Hôm sau, lại vui chơi suốt ngày. Ngày thứ ba, cho mấy tên tay sai thu thập chứng cứ. Tô Lăng A đặt các chứng cứ trước mặt tri phủ và huyện lệnh nói: “Mỗi mẫu tăng số bạc gấp ba lần, cũng quá đủ, chứng cứ ở đây, cần nói gì không, phải chăng muốn ta tâu lên Hoàng thượng?”

Tri phủ và tri huyện nhìn thấy chứng cứ, biên lai, giấy nhận hoảng sợ, vậy rõ ràng là quà biếu còn ít, nên phải lấy một phần ba của cải trong nhà ra cống nộp. Tô Lăng A lại nhét túi 10 vạn lạng. Hai ngày chơi đùa như vậy nhưng hôm sau bày trò thích thú hơn. Tô Lăng A ra lệnh bắt hai người, và nói: “Hoàng thượng lần này cử ta đến Quý Châu, Lưu Dung đi toàn quốc kiểm tra. Hai chúng ta đã nhận được lệnh và mật dụ, chém trước tâu sau. Hai ngươi làm bậy không chịu hối cải, lại còn hối lộ bản quan, khó tránh được cái chết”. Hai người chẳng rõ mô tê, xem cung cách đó không phải là đùa, hai người định giải bày, Tô Lăng A sai người bịt mồm họ lại, và lôi ra ngoài chém ngay, bêu đầu lâu lên cổng thành, tịch thu nhà cửa, bán vợ, sung con họ vào quân đội. Tất cả của cải bị tịch thu không nộp vào phủ quan. Tô Lăng A viết bản tấu nói rằng: “Báo cáo của Dương Tú Cẩm là đúng. Thần đến kiểm tra, tri phủ và tri huyện không chịu hối cải, mà còn hối lộ thần 5.000 lạng bạc và biếu dâng 2 cô gái da trắng. Thần lúc đầu lắng nghe họ nói, không tỏ thái độ, sau khi nắm đủ chứng cứ đã chém đầu hai người. Nay xin chuyển lên Hoàng thượng số bạc hối lộ và hai cô gái da trắng”.

Càn Long nói: “Như vậy là bị oan rồi, chỉ dụ lập tức phục chức cho Dương Tú Cẩm, truy xét tuần phủ, bố chánh sứ về tội thiếu điều tra xem xét.”

Tuần phủ Tôn Tuy và bố chánh sứ Quý Châu lập tức mời Tô Lăng A đến Quý Dương. Tôn Tuy nói:

- Tiền đồ của hai chúng tôi giờ đây nằm trong tay đại nhân, muôn đời đội ơn đại nhân, cúi xin đại nhân cho một con đường sống.

Bố chánh sứ nói:

- Cúi xin đại nhân hãy vì chúng tôi, tâu khéo với Hoàng thượng mấy lời. Đại nhân là cha mẹ tái sinh chúng tôi.

Tô Lăng A nghĩ bụng: mẹ kiếp, chỉ nói suông thì được cái gì ta đây cần thực tế. Bụng nghĩ vậy, mồm bật nói:

- Việc này khiến bản quan khó xử đây. Hiện nay Hoàng thượng đang tức giận, e rằng ta tâu chẳng ăn nhằm gì.

- Chỉ cần đại nhân nói khéo mấy lời với tướng phụ Hoà Thân, chúng tôi xin nộp đủ số bạc chuộc tội, chuộc tội với Hoàng thượng. Tôn Tuy nói xong mang ra hai chiếc hòm, nói tiếp: - Đây là hai hòm đựng vàng khối, một xin gửi đại nhân, một xin gửi Hoà tướng phụ, xin đại nhân vui lòng nhận cho, và xin Hòa tướng phụ tâu khéo mấy lời lên Hoàng thượng, bạc chuộc tội, chúng tôi đã chuẩn bị sẵn sàng, phần tôi 8 vạn lạng, phần bố chánh sứ 5 vạn lạng.

- Hiện nay Phúc Trường An chịu trách nhiệm thu nhận số bạc chuộc tội. Không biết Hoà tướng phụ có giúp gì được không, nhưng hai vị đã phó thác việc này cho bản quan và Hoà tướng phụ, nếu không nhận thì chúng ta không phải người cùng trong nhà, còn giúp được hay không thì chưa dám chắc, chúng tôi sẽ hết sức cố gắng.

- Chúng tôi cũng chẳng muốn đại nhân khó nghĩ, sự việc không nhất định phải làm tốt, dù tốt hay không tốt chúng tôi vẫn cám ơn đại nhân và Hoà tướng phụ. Còn với ngài Phúc Trường An, hai chúng tôi cũng đã chuẩn bị sẵn tiền bạc rồi, cám ơn đại nhân đã nhắc nhở. Tôn Tuy nói.

Lời nhắc nhở đó vô cùng quan trọng. Hôm nay, Tô Lăng A nhắc tuần phủ và bố chánh sứ cống nộp Phúc Trường An; ngày mai, Phúc Thường An lại nhắc nhở người khác cống nộp cho Tô Lăng A.

Từ trong điện Di Tính ở vườn Viên Minh, tiếng cười của Càn Long không ngớt vang lên. Hoà Thân thấy cơ hội đã đến, liền vội tâu:

- Có tấu báo của Tô Lăng A, tâu rằng, Tôn Tuy và bố chánh sứ đã bị cấp dưới che dấu, đã quyết tâm hối cải và đã nộp 14 vạn bạc chuộc tội, nô tài đề nghị giáng hai người xuống một cấp, lưu dụng để răn đe, không biết Hoàng thượng nghĩ thế nào.

- Thế nào cũng được. Nói xong Càn Long liền cười.- Khanh xem hai cô gái kia, theo Trẫm còn trắng hơn cả Minh Quý và Tuyết Như, biết đâu, hai cô gái da trắng này, khiến Tô Lăng A hồ đồ, viết tấu báo không rõ ràng. Càn Long cười thật to.

Lưu Dung nghe Tô Lăng A đã xử lý xong công việc ở Quý Châu, biết rằng con cá chạch ấy đã tuột tay rồi, nên đến An Huy và Giang Ninh. Lúc ấy Tô Lăng A cũng vừa đến Giang Ninh được hai ngày. Trong hai ngày đó, Tô Lăng A đã vơ vét được một ít tiền bạc.

Giang Ninh có một nhà buôn giàu có sắp đi Tô Châu, người vợ nói:

- Ai cũng nói, ở Tô Châu thứ gì cũng có, hàng phương Tây rất nhiều. Chuyến này phải mua cho thiếp một thứ gì đấy.

Nhà buôn nọ nghe vợ nói vậy, liền hỏi:

- Nàng muốn gì ta mang về thứ ấy, trừ mặt trăng trên trời.

- Mặt trăng trên trời cơ.

- Đùa đấy chứ!

- Thiếp muốn có một cái lược ngà hình mặt trăng ấy mà.

Nhà buôn nọ đến Tô Châu nhập hàng xong, chuẩn bị trở về, bỗng nhớ lại lời dặn của vợ. Chuyện này không thể quên được. Các bà đáo để ghê gớm lắm. Không mua, bà xã sẽ làm rùm beng lên. Nhưng khi nghĩ đến “cái lược ngà” thì không biết nó là cái gì. Trước nay chưa hề thấy. Nó là cái quỷ quái gì. Bỗng sực nhớ, vợ nói giống mặt trăng trên trời, anh ta liền ngước mắt lên trời, hôm đó đúng ngày rằm, trăng tròn hết cỡ. Anh ta dựa vào hình mặt trăng, mua một món hàng phương Tây - chiếc gương soi.

Lúc bấy giờ, gương soi bằng thuỷ tinh rất hiếm, sáng rõ hơn gương soi bằng đồng truyền thống của Trung Quốc gấp bao nhiêu lần. Ở Giang Ninh ít có người nom thấy loại gương soi này.

Về đến nhà, vợ cầm gương lên xem, nhìn thấy một cô gái trẻ trong gương, vừa kinh ngạc vừa tức giận, chửi mắng:

- Lược ngà không mua, lại đi lấy một người thiếp.

Bà mẹ chồng nghe nàng dâu réo chửi, bước đến khuyên giải, bỗng nhìn thấy trong gương xuất hiện một bà già, và cũng quở trách:

- Con trai ta, chỉ biết phung phí tiền của, sao lại lấy một bà già thế này?

Nghe vậy, cô vợ càng tức khí lên, cãi vã đánh nhau với chồng, đúng lúc đó cậu em vợ xuất hiện thấy bà chị bị đánh, nên xô ông anh rể ngã xuống đất. Nhà buôn nọ bất đồ nắm chặt bộ hạ của cậu em vợ, khiến cậu ta hôn mê bất tỉnh, lúc tỉnh lại không đứng dậy nổi. Cậu em vợ là vị quan của triều đình, bị nhục như vậy, đâu chịu, nên đệ đơn lên phủ Giang Ninh. Nhà buôn nọ rất có thế lực, tri phủ Giang Ninh lại từng nhận của nhà buôn nọ khá nhiều tiền bạc nên thấy khó xử. Đúng lúc này Tô Lăng A đến Nam Kinh, đơn kiện được chuyển lên Tô Lăng A. Tô Lăng A biết đây là một nhà buôn giàu có nổi tiếng, nên nghĩ cách moi tiền. Quả nhiên vừa nhắc đến, nhà buôn nọ đã mang đến rất nhiều đồ vật hiếm. Tô Lăng A phán rằng, người em vợ bày chuyện gây rối, vợ chồng tranh cãi nhau là chuyện thường tình. Phận làm em sao không khuyên giải mà còn đổ dầu vào lửa. Cậu em vợ nằm trên giường ấm ức, lại nghĩ nếu sau này bị phế hỏng thì lấy ai nối nghiệp. Vừa lúc đó nghe tin Lưu Dung đến, anh ta lại đưa đơn khiếu kiện, hy vọng Lưu Dung xét lại. Anh ta là viên quan cũ của Lưu Dung, khi Lưu Dung còn là tri phủ ở Giang Ninh. Hôm đó, Lưu Dung ngồi một bên ở công đường, Tô Lăng A cất giọng:

- Mang chiếc lược ngà và giải phạm nhân vào. Mọi người vào. Tô Lăng A lại hỏi lại từ đầu đến cuối câu chuyện. Nguyên nhân câu chuyện là chiếc lược ngà. Tô Lăng A bảo:

- Đem chiếc lược ngà ra đây.

Sai dịch đặt “chiếc lược ngà” lên bàn. Tô Lăng A cúi đầu nhìn, vô cùng bực tức, giận mắng:

- Đồ khốn kiếp lại có thể ngồi trên bàn ta, vểnh râu trợn mắt với ta... sao mà dữ tợn thế... thật chẳng ra thể thống gì cả... lẽ nào chấp nhận một con người gớm ghiếc như ngươi?.

Lưu Dung nhìn thấy Tô Lăng A thét mắng với chiếc gương soi, không nhịn cười được.

Hôm sau, trước công đường phủ tổng đốc lại xảy ra một chuyện mới tinh. Nguyên là, Tô Lăng A tự xưng mình là công chánh vô tư, cho dân trước cửa công đường một bức liễn, có hai câu đối, câu trên là: “ ái dân như tử”, câu dưới là: “Chấp pháp như sơn” (yêu dân như con; chấp pháp như núi ngụ ý là thi hành pháp luật kiên quyết - ND). Một hôm, Tô Lăng A vừa đến công đường, nhìn lên cửa lại thấy hai câu đối trên tấm liễn kia kéo dài thêm mấy chữ: “ái dân như tử, kim tử ngân tử giai thị từ” và “Chấp pháp như sơn, tiền sơn kháo sơn khỉ phi sơn”. (yêu dân như con, con vàng con bạc đều là con; chấp pháp như núi, núi tiền núi dựa há không phải núi? - ND).

Lưu Dung thấy Tô Lăng A xử án quá hồ đồ như vậy, giờ lại thấy hai câu đối kia, càng cho rằng Tô Lăng A khó đảm đương được nhiệm vụ, bèn hỏi một viên quan Giang Ninh ngồi bên cạnh:

- Tô đại nhân làm quan như thế nào? Dân chúng ra sao?

-Tô đại nhân làm quan trên, hạ quan đâu dám bình phẩm, hạ quan có biết được một ít tình hình dân chúng ở đây.

- Hãy nói rõ.

- Hạ quan xin trả lời đại nhân bằng hai câu đối thấy trên phố như sau:

Câu 1: Nhị Tam Tứ Ngũ (hai ba bốn năm - ND)

Câu 2: Lục Thất Bát Cửu (sáu bảy tám chín - ND)

Phía dưới viết: Nam Bắc.

Lưu Dung hiểu ngay câu đối muốn nói là, thiếu áo, thiếu ăn, không có đồ vật gì cả. (Đây là cách chơi chữ trong tiếng Trung. Hai câu đối thiếu chữ “nhất” là một, đồng âm với chữ “y” là áo; thiếu chữ “thập” là mười, đồng âm với chữ “thực” là ăn. Câu phía dưới thiếu chữ “đông” và “tây”, hai chữ này hợp lại thành từ “đông tây” là đồ vật:ND). Câu đối rất hay, không thể bắt tội được.

Lưu Dung viết bản tấu kể hết những điều tai nghe mắt thấy ở Giang Ninh, cuối bản tấu viết: “Tô Lăng A hết sức hồ đồ, xin Hoàng thượng trị tội”. Rõ ràng đã vạch tội Tô Lăng A.

Hoà Thân nhận được bản tấu, thấy không đáng ngại lắm, vì bản tấu không có chứng cớ cụ thể, không có gì nguy hiểm, chỉ ngại bản tấu của Lưu Dung nặng cân hơn người khác, Hoàng thượng đang bực tức, nếu cao hứng lên, ai biết được, có thể xử tội Tô Lăng A.

Nào ngờ, hôm đó tại Kim Điện, Càn Long xem xong bản tấu của Lưu Dung, cười như nắc nẻ, cười mãi không thôi. Vương công đại thần thấy vậy, thoạt đầu chẳng hiểu mô tê gì cả, sau đó, chẳng hiểu làm sao, mọi người đều cười rũ rượi, kể cả Hoà Thân cũng bật cười. Chừng như cười đã hết hơi, Càn Long mới thôi cười và cất tiếng nói: “Lưu Dung sợ Trẫm mấy hôm nay buồn phiền nên mới viết bản tấu này để Trẫm xua tan cơn bực tức”. Hoà Thân nhẹ nhõm cả người. Càn Long coi những sự việc nêu trong bản tấu của Lưu Dung như câu chuyện giải sầu cho mình, và nói: “Nếu Tô Lăng A biết chuyện Lưu Dung đả kích mình thế này, chắc tức vỡ bụng”.

Lưu Dung không ngờ bản tấu của mình kết quả như vậy.

Lưu Dung rời Giang Ninh, đi tuần sát những trọng điểm đón tiếp Hoàng thượng như Triết Giang. Các văn nhân ở tỉnh Triết Giang rất chi chân thật, chỉ vùi đầu đọc sách, làm thơ, tầm chương trích cú, sáng tác nhiều áng văn chương, viết ra nhiều sách đệ trình lên Hoàng thượng, khiến Hoàng thượng thích thú. Nhưng quan ở Triết Giang chẳng khác gì ở các nơi, tài che dấu thuộc loại cao thủ, dẫu Lưu Dung có bản lĩnh đến mấy, cũng khó điều tra cho ra, dù có ra chăng nữa cũng mấy chuyện vụn vặt không đáng kể. Vì vậy dân chúng không ai dám tố cáo quan phủ. Các quan đã đề phòng, họ đã có kinh nghiệm, phải khoá chặt mồm của dân chúng. Lưu Dung không tài nào tra xét được.

Lưu Dung từ Triết Giang quay về Tô Châu, Giang Tô, rồi qua Dương Châu đến Sơn Đông, từ Sơn Đông đến Trực Lệ. Cuối cùng quay về Bắc Kinh, trên đường đi kiểm tra đã tấu báo nhiều quan lại phạm tội, có người bị chặt đầu, có người bị cách chức, Hoà Thân thì đắc chí, mấy người tâm phúc của ông vô sự, chỉ vài tên tiểu tốt bị trừng phạt, chẳng ảnh hưởng gì cả.

Sau khi tấu báo với Hoàng thượng, Lưu Dung xin nghỉ ba ngày. Sau ba ngày nghỉ, Lưu Dung đến triều rất sớm, chưa đến canh năm đã có mặt tại Lậu Cung. Một lát sau, mọi người mới đến, gà gáy sang canh năm đã lâu rồi mà chẳng thấy Hoàng thượng truyền vào điện. Có mấy vị quan nói nịnh Lưu Dung:

- Lưu đại nhân đi đường vất vả, bọn tham quan ô lại nghe tiếng đã khiếp sợ, dân chúng thì gọi Lưu đại nhân là “Lưu Thanh Thiên”, tiếng tăm hơn đại nhân tể phụ Lưu trung đường trước đây.

Ý nói là Lưu Dung còn hơn cả người cha là Lưu Huân Thống, rõ ràng là câu nói nịnh. Nghe câu đó, Lưu Dung không hài lòng, Hoà Thân cũng không hài lòng. Hoà Thân không hài lòng vì; nếu tên tuổi Lưu Dung vượt quá người cha ông ta, như vậy có nghĩa là Hoà Thân không bằng Lưu Dung, Hoà Thân kém Lưu Dung! Nghĩ như vậy, liền buột mồm mỉa mai.

- Bắt mấy tên tép riu mà cũng gọi là bản lĩnh, có người phạm tội sờ sờ ra đó mà còn không dám động đấy, chỉ vì là đại thần.

- Đại nhân nói ai là đại thần phạm pháp, nói cho tôi nghe nào, xem tôi dám vạch tội hắn không?

- Nếu tôi biết ai đó phạm tội thì chẳng đến lượt đại nhân vạch tội, phải tìm được tội của người đó mới gọi là có bản lĩnh.

- Dẫu người đó là đại thần chăng nữa, tôi cũng sẽ tìm ra chứng cứ, vạch tội hắn.

Câu đó, Lưu Dung ám chỉ Hoà Thân, lúc này đại thần lớn nhất không phải Hoà Thân thì còn ai, A Quế là đại thần lớn nhất nhưng không phải trong số đó. Câu đó là nói Hoà Thân, mọi người có mặt đều nghe rõ ràng.

- Lưu đại nhân, nếu người đó là một đại thần lớn nhất, đại nhân dám tố cáo ông ta, tôi xin lạy đại nhân ba lạy, ngược lại, nếu đại nhân không dám tố cáo, hãy lạy tôi ba lạy.

Lưu Dung nghĩ bụng: lần này ta phải trêu Hoà Thân một mẻ, ta trêu bất cứ vị đại thần nào, ta sẽ tâu với Hoàng thượng, biết đâu còn có thể khiến đại thần đó gây vui cho Hoàng thượng. Nghĩ vậy Lưu Dung nói:

- Hoà Thân, đó là lời đại nhân nói, xin đừng hối tiếc, dù người ấy là quan to đến đâu, đại nhân hãy nói ra, tôi không dám tố cáo. Tôi xin lạy đại nhân ba lạy.

Lưu Dung và Hoà Thân thách đố nhau. Vương công đại thần có mặt ở đấy đều biết rõ, hai người đang tranh nhau xem ai được Hoàng thượng yêu thích hơn. Rõ ràng là một câu đùa nhưng thực ra là vấn đề không ai phục ai. Chỉ nghe như vậy, Hoà Thân đã lên tiếng:

- Lưu đại nhân nghe rõ nhé, bất cứ người ấy là quan to đến mấy, đại nhân cũng dám tố cáo phải không?

- Đúng.

- Xin hai vị vương gia làm chứng. Nếu Lưu đại nhân không dám tố cáo, sẽ phải lạy tôi ba lạy.

Hai vị thân vương thấy vui đều nói:

- Ai không giữ lời hứa, chúng tôi sẽ vứt vào bể nước làm chú rùa.

Lưu Dung nói:

- Được có hai vị vương gia ở đây bảo đảm, không sợ Hoà Thân chối cãi.

Hoà Thân cũng nói:

- Xin hai vương gia vỗ tay.

Hoà Thân và Lưu Dung vỗ tay ba lần.

Lưu Dung nói:

- Đại nhân hãy nói tên người ấy ra.

- Mở to mắt ra mà xem, quan to nhất trong thiên hạ không ai hơn thiên tử hiện nay. Hoà Thân ngừng một lát, nói tiếp: - Đại nhân có dám tố cáo Thánh thượng hiện nay không?

Lúc này, mọi người có mặt đều hốt hoảng, ngớ người ra, hai vị thân vương cũng cả kinh không nói được lời nào. Lưu Dung bỗng lặng người đi, cái lưng gù như bị đè nặng thêm, nghĩ bụng: “Hoà Thân quả là ranh ma, đã bẫy ta rồi. Phải thoát khỏi cái bẫy này, dù thoát không được cũng phải thoát”. Nghĩ vậy liền nói:

- Dù là đương kim Hoàng thượng, ta cũng dám tố cáo! Hoà Thân, đại nhân chớ nuốt lời, nếu ta tố cáo đương kim Hoàng thượng, đại nhân nhớ lạy ta ba lạy.

- Và vỗ tay ba lần. Hoà Thân nói

Hai vị thân vương ngây người ra.

Lúc này, thái giám truyền, các vương công đại thần vào điện.

Tài năng của con người có lúc không cần phải đọc nhiều sách mới có được. Trương Lương, Gia Cát Lượng có tài cũng đâu phải đọc nhiều sách vở, tài năng đó thế hiện ở bốn chữ: tuỳ cơ ứng biến. Lưu Dung bước vào Kim Loan Điện, trong đầu đã tính toán sẵn, chờ cho hai bên bá quan văn võ đứng yên, bước ra tâu:

- Khởi tấu Hoàng thượng, thần Lưu Dung có t?