Chương 16 KHÓI LỬA MIỀN TÂY BÙNG LÊN-GIẤC MỘNG NGÀY XUÂN TRIỀN MIÊN
Khuếch Nhĩ Ca xâm phạm Tây Tạng.
- Càn Long mở mắt định thần nhìn, vẫn còn ôm Hòa Thân trong lòng, té ra là một giấc mộng.
Càn Long vô cùng thích thú sau khi xem tuồng ở phủ Lưu Dung trở về. Việt kịch quả thật hay, đứng đầu các loại tuồng kịch khác. Càn Long ban thưởng cho Lưu Dung và gánh tuồng để tỏ lòng mến mộ. Về đến cung định quở trách Hòa Thân. Không ngờ Hòa Thân tâu:
- Đại quân của Phúc Khang An đã chia quân theo các ngả đường tiến đánh Khuếch Nhĩ Ca, đã làm trong sạch cả vùng biên giới từ Sát Mộc đến Tế Lung. Đại quân đã vượt qua núi Hy-ma-lay-a, tiến sâu vào nội địa Khuếch Nhĩ Ca.
Càn Long rất vui mừng, còn đâu quở trách Hòa Thân, và hỏi:
- Lương thảo cung cấp như thế nào?
- Hòa Thân cung cấp kịp thời, hậu phương Tây Tạng ổn định.
- Vì công việc Tây Tạng, khanh mất ăn mất ngủ, một mình khanh lo việc truyền dụ, xem biểu tấu, Tây Tạng ơn định, có phần công lao của khanh.
Đúng là, trong bá quan văn võ triều đình, chỉ có Hòa Thân là người tinh thông các ngôn ngữ Mãn, Tạng, Hán. Vì vậy mệnh lệnh của Hoàng thượng cho Tây Tạng, tấu chương của Tây Tạng về triều đình đều do Hòa Thân dịch, đặc biệt là mệnh lệnh đối với Tây Tạng. Các văn kiện bằng tiếng Mãn, Hán, Tạng đều do Hòa Thân khởi thảo, đưa Hoàng thượng quyết định.
Hòa Thân tâu:
- Hoàng thượng, Khuếch Nhĩ Ca có thể bình định trọng nay mai, nhưng ổn định Tây Tạng là vấn đề khó. Phải tìm kế lâu dài mới được.
Các quan văn võ đều tán thành ý kiến Hòa Thân. Thấy mọi người bàn tán sôi nổi, Càn Long nói:
- Các khanh có gì cứ tâu, trước mắt Trẫm cũng chưa nghĩ ra cách gì tốt nhất, hãy về suy nghĩ, nếu có cách nào hay, tâu ngay với Trẫm, nhưng trước mắt, Hòa Thân hãy truyền ý chỉ của Trẫm, sau khi đại quân đã thu được Khuếch Nhĩ ca, không được ở đấy lâu nhưng phải răn đe họ, khiến họ mãi mãi không được tái phạm.
Tây Tạng, từ khi triều đình nhà Đường gả công chúa Văn Thành cho thủ lĩnh Thổ Phồn là Thông Tán Can Bố, quan hệ rất khăng khít với trung nguyên. Triều Nguyên, chính quyền trung ương bắt đầu chính thức quản lý công việc ở các địa phương Tây Tạng. Năm 1247, tướng Nguyên là Khoát Thụy và Tát Ban, lãnh tụ đạo Lạt Ma ở Tây Tạng hội ngộ. Các thế lực địa phương ở Tây Tạng có quan hệ với Tôn Phiên ở Mông Cổ. Tây Tạng cống nộp lễ vật cho Mông Cổ, và chính thức chịu sự quản lý của Mông Cổ. Năm 1253 (năm Hiến Tôn thứ 3), cháu trai Tát Ban là Tát Giá cử Pháp Vương Bát Tư Ba đến Lục Bàn Sơn hội kiến với Hốt Tất Liệt. Hốt Tất Liệt phong Bát Tư Ba làm quốc sư, và cử ông ta làm đệ nhất trưởng quan của Viện tổng chế. Viện tổng chế, sau đổi tên là Viện Tuyên Công, theo thứ bậc thuộc loại nhất phẩm, cai trị các tăng đồ và thổ phiên, chia Tây Tạng thành 13 vạn hộ, quan lại từ trưởng vạn hộ trở lên do chính quyền trung ương đảm nhận.
Đạo Phật chia thành: Hoàng Giáo, Hồng Giáo, Bạch Giáo; Hoa Giáo, v.v... Người Tạng và người Mông đều theo đạo Lạt ma (Hoàng Giáo). Năm Vạn Lịch triều Minh, thủ lĩnh Hoàng Giáo là Tỏa Nam Gia Thố được tôn làm Đạt Lai (có nghĩa là Đại hải) Lạt ma (có nghĩa là Thượng sư), đó là Đạt Lai thứ 3.
Ở Tây Tạng, ngoài Đạt lai Lạt ma, còn có Ban Thiền. Ban Thiền gọi đủ là Ban Thiền Ngạch Nhĩ Đức Nê - Hiệu phong của Ban Thiền là do Vệ Lạp Đặt Mông Cổ và Thạc Đặc Bộ Hãn, Vương Cố Thực Hãn ban tặng. Năm 1645, Vương Cố Thực Hãn sau khi kiểm soát được Thanh Tạng, xem giáo chủ Hoàng Giáo là Khước Cát Kiên Tán làm thầy, tặng cho danh hiệu “Ban Thiền Bác Khắc Đa”, “Ban Thiền” là gọi tắc nhóm từ “Ban Trí Đạt Khâm Ba”, “Ban” là “học giả tinh không”, “Thiền” là “lớn”, Bác Khắc Đa là danh hiệu của nhân vật anh hùng đầy trí dũng. Từ đó mới có danh hiệu “Ban Thiền”.
Triều Thanh xem đạo Phật Lạt ma là quốc giáo; Năm Thuận Trị thứ 10 (1654) phong Đạt lai là “Tây Thiên Đại Thiện Tự Tại Phật Sở Lãnh Thiên Hạ Dịch Giáo Phổ Thông Ngọa Xích La Hằng Đạt lai Lạt ma”; Năm Khang Hy thứ 52 (1713) lại phong Ban Thiền là “Ban Thiền Ngạch Nhĩ Đức Nê”, “Ngạch Nhĩ Đức Nê” có nghĩa là “quí”. Từ đó danh hiệu “Ngạch Nhĩ Đức Nê” được giữ mãi về sau, thường nói gọn là “Ban Thiền”.
Trong lịch sử, Ban Thiền nổi tiếng là Ban Thiền thứ tư tên là La Tang Khước Cát Kiên Tán. Nửa trước thế kỷ 17, thời kỳ Vệ Tạng quấy nhiễu, La Tang Khước Cát Kiên Tán chủ trì công việc Hoàng Giáo, trụ trì các chùa: Trát Thập Bô Luân Bố, Triết Bang, Sắc La; năm 1616, Đạt Lai thứ tư qua đời, ông thuyết phục Tạng Ba Hản, đồng ý để Đạt lai thứ năm kế vị, và do ông chủ trì đón đến chùa Triết Bang. Ông đã từng giảng dạy cho Đạt lai Lạt ma thứ 5, kinh Sa Di Giới và Tì Khưu Giới. Cố Thực Hản và Tạng Hậu mời ông trụ trì chùa Trát Thập Bố Luân Bố và cắt một phần đất của Tạng Hậu giao ông quản lý. Năm Thuận Trị thứ tư, phong ông danh hiệu “Kim Cương Thượng Sư”. Năm 1662 La Tang Khước Cát Kiên Tán viên tịch. Đạt lai thứ 5 chọn định cho ông một linh đồng kế vị, từ đó Hoàng Giáo có tục Phật sống kế vị. Các Ban Thiền trước La Tang Khước Cát Kiên Tán đều là Ban Thiền truy nhận, linh đồng kế vị do Đạt lai thứ 5 chọn cho ông là La Tang Gia Hiết, là Ban Thiền thứ 6.
Từ đó Ban Thiền và Đạt lai đều là sư đồ, thành định lệ trong khi giải quyết công việc của Tây Tạng thì địa vị của Ban Thiền và Đạt lai ngang nhau.
Đạt lai thứ 5 có một người con riêng là Tang Kết Gia Thố, rất được chiều chuộng. Đạt Lai thứ 5 để ông làm Đệ ba, chức quan hành chính cao nhất ở Tây Tạng. Sau khi Đạt lai thứ 5 viên tịch Tang Kết Gia Khố mất chỗ dựa, nhưng không cam tâm, nghĩ ra một mưu kế, bí mật tìm ra một người tướng mạo giống như Đạt lai thứ 5, giả làm Đại lai thứ 5, ngồi đó ra lệnh. Ông còn giúp Cát Nhĩ Đan của Mông Cổ làm loạn, trong suốt 15 năm, cho đến khi quân Thanh hoàn toàn dẹp xong giặc Cát Nhĩ Đan, lúc đó, tin Đạt lai thứ 5 qua đời mới bị lộ ra.
Quận vương Tây Tạng là La Tạng Hản biết mình đã bị Tang Kết Gia Thố lừa, tức giận, quyết chí báo thù. Tang Kết Gia Thố biết được, một mặt cho tìm một linh đồng kế vị đưa về ngồi trên sạp trong cung Bố Đạt la, mặt khác cho người đầu độc La Tạng Hản, không ngờ việc bại lộ. La Tạng Hản đem binh đánh bắt Tang Kết Gia Thố, xử chém. Đạt Lai thứ 6 do Tang Kết Gia Thố dựng lên, trên đường bị áp giải đến Bắc Kinh bị chết không rõ nguyên nhân. La Tạng Hản một mình nắm toàn quyền, sai quân lính mang con trai mình vào ngồi trên sạp trong cung Bố Đạt la, tuyên bố đó là Đạt lai thứ 6, nhưng dân chúng Tây Tạng thì gọi Đạt lai mới này là “cổ học” (tiên sinh), các nơi khác như Mông Cổ, Thanh Hải đều không thừa nhận vị Đạt lai này. Ở Thanh Hải lại lập ra một Đạt lai thứ 6. Thế là, Tây Tạng có đến 2 Đại Lai thứ 6.
Đầu mục bộ lạc Chuẩn Cát Nhĩ là Sách Vượng A La Bố Đản thừa cơ tấn công Tây Tạng, giết chết La Tạng Hản, bắt nhốt Đạt lai thứ 6 của La Tạng Hản. Quân Thanh đến cứu, bị đánh bại, Tây Tạng rơi vào cảnh hỗn loạn.
Triều Thanh cử đại binh tiến đánh Tây Tạng, đánh lui kỵ binh của Chuẩn Cát Nhĩ, lập lại ổn định, đưa vị Lạt ma thứ 6 của Thanh Hải đến La Sát, tổ chức long trọng lễ kế vị. Triều Thanh để cho Khang Tế Nại, một vị quan còn lại của La Tạng Hản, phụ trách quản lý vùng Tiền Tạng, Phả La Nại quản lý vùng Hậu Tạng. Thời Ung Chính, để tránh sự tranh chấp giữa các thủ lĩnh Tây Tạng với nhau, triều đình lại cử một vị đại thần thường trú tại Tây Tạng, giám sát công việc ở địa phương. Thế nhưng, Tây Tạng vẫn luôn luôn biến động. Khang Tế Nại bị chết trong một cuộc phản loạn, Phả La Nại đem quân dẹp yên cuộc phản loạn, được triều Thanh phong là Quận Vương. Từ đó, Tây Tạng dưới sự quản lý của Phả La Nại được yên ổn suốt hơn 20 năm.
Sau khi Phả La Nại qua đời, con trai ông là Châu Nhĩ Mạc Đặc Na Mộc Trát Lặc lại muốn độc chiếm Tây Tạng, đề nghị Càn Long rút quân khỏi Tây Tạng. Càn Long đồng ý. Quân Thanh vừa rút khỏi Tây Tạng, Châu Nhĩ Mạc Đặc Na Mộc Trát Lặc liền cắt đứt đường thông thương với nội địa, chuẩn bị phản loạn.
Đại thần thường trú tại Tây Tạng là Phụ Thanh và La Bố Đồn Sát phát hiện được mưu đồ của Châu Nhĩ Mạc Đặc Na Mộc Trát Lặc, cùng nhau bàn tìm đối sách. Phụ Thành nói:
- Một khi Châu Nhĩ Mạc Đặc Na Mộc Trát Lặc phản loạn, không những chúng ta bị giết, mà đại quân cũng khó tiến vào Tây Tạng, Tây Tạng bị mất, tốt nhất chúng ta cho người giết hắn đi.
- Tuy vậy, chúng ta cũng khó thoát chết, nhưng giết được hắn, việc khôi phục lại trật tự Tây Tạng sẽ dễ dàng nhiều. La Bố Đồn Sát tán thành.
Hai người mời Châu Nhĩ Mạc Đặc Na Mộc Trát Lặc đến dinh đại thần thường trú tại Tây Tạng, nói rằng có chiếu chỉ của Hoàng thượng và mời lên lầu trên tiếp nhận chiếu chỉ. Châu Nhĩ Mạc Đặc Na Mộc Trát Lặc vừa bước lên lầu, thì đã có người bí mật rút thang gác, ông vẫn chưa biết, thành tâm quỳ lạy làm lễ tiếp nhận thánh chỉ. Phụ Thanh nhân lúc Châu Nhĩ Mạc Đặc Na Mộc Trát Lặc cúi đầu lạy, rút kiếm chém chết ông ta. Tùy tùng của Châu Nhĩ Mạc Đặc Na Mộc Trát Lặc thấy thang gác bị rút, biết là việc chẳng lành, vội vàng điều động quân lính đến, bao vây chặt, nã pháo, đốt hủy lầu, cảnh tượng hỗn loạn. Hai vị đại thần thường trú Tây Tạng bị vây khốn trên lầu. Phụ Thanh bị nhiều vết thương, biết khó sống, nên rút kiếm tự sát. La Bố Đồn Sát tay cầm kiếm, mồm thét lên một tiếng, nhảy từ trên lầu xuống, vung kiếm giết hơn mấy chục người, nhưng một mình không địch nổi, nên mổ bụng tự sát.
Trong số quý tộc Tây Tạng có Ban Đạt, phản đối việc phản loạn, tập họp một số binh sĩ, canh giữ cung Bố Đạt la, bảo vệ Đạt lai thứ 6. Quân của Đạt lai thứ 6 được lệnh dẹp bọn phản loạn, quân phản loạn bị cô lập, tình hình rối loạn được nhanh chóng ổn định. Sau đó không lâu quân Thanh do Nhạc Chung Kỳ chỉ huy đã tiến đến La Sát, khôi phục lại trật tự Tây Tạng. Để ổn định thêm tình hình, Nhạc Chung Kỳ đã bàn bạc với Ban Đạt định ra “Kế hoạch xử lý các vấn đề còn lại ở Tây Tạng”, qui định Tây Tạng không còn chế độ quận vương, mà chỉ có bốn Cát Bố Quân (quan địa chủ), giúp việc cho Đạt lai Lạt ma, mọi việc điều phải xin ý kiến Đạt lai Lạt ma và đại thần thường trú tại Tây Tạng. Nhờ đó Tây Tạng trở lại yên ổn.
Năm Càn Long thứ 45, Ban Thiền thứ 6, không quản đường xa vạn dặm, rời khỏi vùng núi tuyết, đến Nhiệt Hà dự lễ mừng thọ 70 tuổi của Càn Long, được Càn Long tiếp kiến, ban thưởng, các vương công, thủ lĩnh các bộ lạc Mông Cổ tặng quà có tới chục vạn lạng vàng, mũ ngọc, chuỗi hạt ngọc, tràng hạt, bát thủy tinh, áo cà sa thêu chỉ bằng vàng... nhiều vô kể. Tất cả tặng phẩm đó sau khi đưa về Tây Tạng đều do người anh ruột của Ban Thiền thứ 6 là Trọng Ba Hồ Đồ Khắc Đồ, phụ trách bảo quản tặng phẩm của Ban Thiền thứ 6. Không ngờ Ban Thiền thứ 6 bị bệnh qua đời tại Bắc Kinh. Trọng Ba Hồ Đồ Khắc Đồ chiếm các tặng phẩm đó làm của riêng, không phân phát cho các chùa nên các Lạt ma chẳng biết gì cả, cũng không chia cho người em là Sa Mã Nhĩ Ba Đồ Khắc Đồ vốn là một Lạt ma của Hồng Giáo, lúc ấy đang ở tại Khuếch Nhĩ Ca. Sa Mã Nhĩ Ba Đồ Khắc Đồ tức giận, tâu với quốc vương Khuếch Nhĩ Ca rằng, Trọng Ba Hồ Đồ Khắc Đồ chiếm đoạt tài sản và châu báu vàng bạc của Ban Thiền, nói rõ cả tình hình tín đồ Phật giáo Tây Tạng sợ chiến tranh và binh tình Tây Tạng suy nhược sợ địch. Cuối cùng, Sa Mã Nhĩ Đồ Khắc Đồ xúi dục Khuếch Nhĩ Ca lấy cớ tăng thuế buôn bán, trộn đất vào muối ăn, đem quân xâm chiếm Tây Tạng.
Khuếch Nhĩ Ca vốn là một bộ lạc của Nê-pan, ở phía tây bắc Cát-man-đu, thế lực ngày một mạnh, đem quân đi chinh phục các bộ lạc khác, dời đô đến Cát-man-đu, lập nên vương triều.
Việc Sa Mã Nhĩ Ba tăng thuế buôn bán, trộn đất vào muối ăn, thực ra là sự tranh chấp mậu dịch giữa Khuếch Nhĩ Ca và Tây Tạng. Trước đây, giao dịch giữa Khuếch Nhĩ Ca và Hậu Tạng đều dùng tiền bạc do Khuếch Nhĩ Ca đúc, có trộn đồng chì, hàm lượng bạc thấp, sau đó, Khuếch Nhĩ Ca đúc tiền mới hàm lượng bạc cao, Khuếch Nhĩ Ca muốn người Tây Tạng công nhận đồng tiền bạc của mình, nhưng người Tây Tạng không đồng ý. Trong buôn bán, một số thương nhân người Tây Tạng trộn đất cát vào muối ăn bán cho người Khuếch Nhĩ Ca, thu lời lớn, khiến người Khuếch Nhĩ Ca vô cùng căm tức. Lúc này Khuếch Nhĩ Ca đang lúc cực thịnh, âm mưu mở rộng về phương bắc, bèn lấy cớ quan lại Tây Tạng bày đặt tăng thuế, trộn đất cát vào muối ăn đem quân đánh chiếm các vùng Nhiếp La Mộc, Tế Lung, Tông Ca... của Hậu Tạng, vào năm Càn Long thứ 53.
Các chỉ dụ của Càn Long đều được Hòa Thân dịch ra tiếng Tạng gửi đến Tây Tạng, dịch ra tiếng Phiên gửi đến Khuếch Nhĩ Ca.
Thế nhưng khâm sai Ba Trung và tướng quân Ngạc Huy, Thành Đức sợ hãi không dám tiến quân, sau khi đưa quân vào Hậu Tạng, lừa dối triều đình tự tiện ký hòa ước nhục nhã với Khuếch Nhĩ Ca, buộc Tây Tạng mỗi năm phải cống nộp cho Khuếch Nhĩ Ca 300 đĩnh bạc, mỗi đĩnh trị giá 32 lạng bạc, Ba Trung không dám cho triều đình biết, nên số bạc nói trên do riêng Tây Tạng chịu. Ba Trung che dấu triều đình, tâu với Hoàng thượng:
“Khuếch Nhĩ Ca biết tội đã đầu hàng, các đầu mục đã đến doanh trại xin hàng. Thần thấy chúng thành khẩn, liền cho lui quân, công bố ân uy, tìm cách thu nhận. Thủ lĩnh Khuếch Nhĩ Ca là Hoàn Quỵ Hạng Môn đã hối lỗi xin ân xá, mạo muội xâm phạm biên cương, nay đại binh từ xa đến, không dám kháng cự, xin thề, và đóng dấu ký tên sẽ mãi mãi không gây chuyện nữa...”
Càn Long không phát hiện được hành vi giả dối của Ba Trung, Ngạc Huy và Thành Đức. Ngạc Huy còn được thăng chức Tổng đốc Tứ Xuyên.
Không ngờ Tây Tạng không nộp nổi số bạc quá to hơn 9.000 lạng, Khuếch Nhĩ Ca không nhận được số bạc đó, nên năm Càn Long thứ 56, đem quân chiếm cứ các vùng Nhiếp La Mục, Tế Lung và bao vây Trát Thập Luân Bố. Đại thần thường trú tại Tây Tạng là Bảo Thái cũng dấu kín tình hình Tây Tạng, đợi khi Khuếch Nhĩ Ca kéo quân đến, vội vàng đưa Ban Thiền thứ 6 từ Dương Bát Tinh đến Tiền Tạng, sau mấy ngày quân Khuếch Nhĩ Ca tiến vào chùa Trát Bố Luân Bố.
Triều đình kinh sợ, Càn Long không biết thực tình ở Tây Tạng giao cho Cục quân cơ bàn bạc. Sau đó mới biết rõ tình hình ở Tây Tạng. Ba Trung, Ngạc Huy, Bảo Thái đều bị bắt giam tra hỏi.
Ngày 28 tháng 9, Càn Long chỉ dụ cho Tổng đốc, Hiệp biện đại học sĩ Lưỡng Quảng, Nhất đẳng Gia nam công Phúc Khang An về kinh nhận kế hoạch, phong ông làm Đại tướng quân thống lĩnh đại quân tiến lên Tây Tạng dẹp giặc Khuếch Nhĩ Ca, cử viên tướng giỏi là Nhị đẳng Triệu thông công Hải Lan Sát và Khuê Sao la tướng quân ở Thành Đô làm quan tham tán, giúp Phúc Khang An xử lý việc quân. Không bao lâu, 14.000 người ngựa tiến quân vào Tây Tạng từ nhiều ngả đường.
Càn Long chỉ dụ cho các đại thần tìm cách giải quyết tốt vấn đề Tây Tạng, tốt nhất dứt điểm một lần để sau khỏi phải tốn công làm lại. Trong lúc các đại thần chưa nghĩ ra phương kế gì, thì Càn Long truyền lệnh chuẩn bị xa giá đi Nhiệt Hà. Lưu Dung tâu:
- Thần lúc đi thị sát, nghe có người bàn tán về sức khỏe của Hoàng thượng, lần này Hoàng thượng đi Nhiệt Hà, ngồi xe nên vén màn lên, thỉnh thoảng nên cưỡi ngựa, cưỡi lừa. Nghi trượng đơn giản càng tốt, thị vệ đi theo không nên nhiều, nếu muốn vào nhà dân thăm hỏi thì cứ tự nhiên.
- Như vậy là, khanh muốn Trẫm giả dạng thường dân đến Nhiệt Hà ư?
- Không nhất thiết phải thế. Hoàng thượng chỉ cần chỉ dụ cho dân chúng dọc đường không được bỏ bê công việc đồng ruộng, lãng phí thì giờ, lệnh cho các quan không cần chuẩn bị tiếp đón, Hoàng thượng tùy ý muốn đến nơi nào, nơi đó sẽ đón tiếp cũng không muộn.
Càn Long tự ngẫm nghĩ, ta tuy đã 82 tuổi, nhưng mắt vẫn tinh tai vẫn thính, tinh thần vẫn minh mẫn, vẫn chăm lo việc chính sự, quả thật nên để cho thiên hạ nhìn thấy ta khỏe mạnh, sau khi đến khu nghỉ mát Sơn Trang, sẽ đi dạo chơi ở Đại Hải Lý, làm mấy bài thơ để thiên hạ đọc, biết Trẫm cùng vui với dân chúng, chí lớn vẫn vươn ra ngàn dặm. Thế là, cho Hòa Thân, Phúc Trường An theo hộ giá, Lưu Dung ở lại kinh, tháng 5 lên đường đi Nhiệt Hà.
Tháng 5, đầu mùa hè, giữa trưa nóng bức, Càn Long thường đi vào lúc sáng sớm và chiều mát, buổi trưa nghỉ ngơi. Lúc đi đường, để xe trống không, Càn Long tự mình cưỡi lừa, Phúc Trường An đi trước dắt, Hòa Thân đi theo sau, vài ba thị vệ đi kèm hai bên, còn những người khác đi cách thật xa.
Càn Long ngồi trên lưng lừa nhìn cảnh đồng ruộng thôn xóm, lòng thầm cảm ơn Lưu Dung, cảm thấy thật sự trẻ lại, mắt nhìn cảnh vật như càng rõ thêm, tai nghe như càng nhạy thính hơn, tâm hồn sảng khoái, người đi lại trên đường mỉm cười nhìn Hoàng thượng, Càn Long thấy mình rất gần gũi với dân chúng. Trước đây khi đến Giang Nam, cũng giả dạng thường dân, nhưng cảm thấy không giống như bây giờ, thân phận thiên tử lúc này không che dấu, có thể dung hòa với dân chúng, lòng vô cùng đắc chí, ngày thường cách xa vời vợi với dân chúng qua bao lớp quan lại, giờ đây thiên tử nằm giữa họ, với Càn Long 82 tuổi mà nói, đây thật là cùng vui với dân.
Hôm sau, Càn Long đến một thôn trang, nghe thấy tiếng hát:
Rừng xanh hạc đậu đẹp cây cành;
Trúc mượt giao nhau tựa xây thành
Rừng già vượn hót tai nghe khoái,
Tán cây gió thổi mát lịm dần.
Nhìn thấy mọi người trong thôn trang vỗ bụng hát ca, vui sướng hồn nhiên, quả là mềm vui sướng của bậc thiên tử trong cảnh thái bình thịnh trị dân an.
Hòa Thân nhìn cảnh đấy bèn tâu:
- Tất cả đều do Hoàng thượng trị vì tài giỏi! Chúng ta sao không vào thôn trang ngắm xem?
Càn Long cũng có ý đó, nên cùng với Hòa Thân và Phúc Trường An vào thôn xóm, chỉ mang theo một thị vệ. Bước vào thôn trang nhìn thấy một hộ nông dân đang treo đèn kết hoa, chuẩn bị đám cưới. Càn Long trước nay chưa hề biết cách thức lễ cưới của nông dân như thế nào, nên bước vào. Dân trong thôn biết tin Hoàng thượng đến, lũ lượt kéo nhau quỳ xuống. Đây là vinh dự muôn đời của thôn trang. Càn Long nói:
- Các ngươi hãy đứng dậy, nếu không tổ chức lễ cưới như đã định, Trẫm không vui đâu.
Dân chúng nghe Hoàng thượng nói vậy, mới đứng dậy nhưng một lát sau, dân chúng vây chặt xung quanh Càn Long, mãi đến lúc Hòa Thân và Phúc Trường An yêu cầu giải tán, dân chúng mới ai về việc nấy.
Càn Long thấy thái độ chất phác chân thành lòng kính mến của dân làng đối với mình, nên vô cùng sung sướng, bất giác mỉm cười, nói:
- Hòa Thân, hôm nay có mang tiền đồng theo không?
- Có, nô tài mang theo khá nhiều.
- Lấy ra sáu quan tiền.
Càn Long cầm sáu quan tiền đồng, đưa cho chủ hộ nông dân và nói:
- Trẫm chúc cả nhà các ngươi đều tốt đẹp!
Toàn gia đình bác nông dân nọ quỳ lạy, cảm thấy đây là phúc đức của ông bà để lại. Đến ngày cưới, Hoàng thượng đến, và tặng thêm sáu quan tiền nữa. Đây là tiền đồng, là nguồn hạnh phúc. Đang lúc vui mừng, lại nghe Hoàng thượng nói:
- Lấy giấy điều và bút mực lại đây, Trẫm viết cho các ngươi câu đối.
Dân trong toàn thôn trang thấy vậy đến phấn khởi, trầm trồ ca ngợi:
- Câu đối do Hoàng thượng viết ư! Thực là ngàn vàng, ngàn ngàn vàng cũng chẳng mua được!
Chủ hộ mang giấy bút đến, đặt lên bàn. Càn Long viết ngay mấy chữ:
“Sáu quan tiền đồng mừng cưới, chê ít không nhận, yêu tiền nhận tiền”.
Viết xong, Càn Long nói:
- Câu đối thứ hai chưa nghĩ ra, vị nào đối được?
Mọi người, hồi hộp, nhất là chủ hộ nọ, không biết nên nhận sáu quan tiền hay không, nên thế nào thì tốt, lúc này lại thấy Hoàng thượng viết câu đối thứ nhất, để người khác làm câu đối thứ hai, mới hiểu ra rằng Hoàng thượng cố ý thử xem tài văn chương của vùng thôn trang này. Ai nấy đều cố nghĩ câu đối để làm Hoàng thượng vui lòng, nhưng chẳng ai nghĩ ra một chữ. Bỗng, cô dâu từ trong nhà, cất giọng giòn giã, đọc câu đối thứ hai:
“Hai gian nhà tranh đợi khách, chê nghèo chớ đến, người đến ăn no”.
Càn Long nói:
- Đối hay!
Hòa Thân hưởng ứng:
- Đối hay, thật giỏi.
Thế là Hoàng thượng cùng Hòa Thân và Phúc Trường An bước vào nhà. Hoàng thượng đến buồng tân hôn, đúng giờ phút làm lễ động phòng. Suốt ba ngày, không phân biệt già trẻ lớn bé ai nấy vui đùa hết cỡ. Biết được phong tục đó Hoàng thượng hỏi:
- Trẫm thấy ngươi khá đẹp, lại đôi được câu đối của Trẫm, hãy theo Trẫm về kinh, làm cháu dâu ta, Trẫm phong cho ngươi tước Phúc Binh, ý ngươi thế nào?
Cô dâu đáp:
- Chim khách dù bay cao, sao sánh nổi phượng hoàng. Thiếp là dân thường đâu dám mơ quyền quý.
Càn Long thấy cô dâu đối đáp ví von rất hay, bỗng thích mê cô ta, muốn thử cô ta lần nữa để xem tài, bèn nói:
- Nếu ngươi không bằng lòng, lưỡi gươm của Trẫm sẽ kề cổ nhà ngươi.
Cô dâu đáp:
- Lòng tôi không phải đá, không thể làm vậy được; lòng tôi không phải tấm chiếu không thể cuốn lại được.
Càn Long cười, nói với Hòa Thân:
- Triều đình chúng ta không có khoa thi cho nữ, nếu có Trẫm sẽ lấy cô này làm nữ trạng nguyên.
- Hoàng thượng, Hoàng thượng lấy cô ta làm trạng nguyên như thế nào? Hòa Thân tâu.
Càn Long chưa nói, chú rể bất ngờ bước vào, cất giọng lanh lảnh:
“Đêm khuya trong vắt, ánh trăng bàng bạc, rượu chuốc vơi đầy. Lợi danh hư ảo, thôi đừng nghĩ suy. Than ôi, bóng cây qua cửa sổ, ngày tháng thoi đưa, đời như giấc mộng. Ôm ấp văn chương, cùng ai tri kỷ? Nào, hãy vui chơi thỏa thích. Không như trước kia, làm người nhàn hạ. Một cây đàn, một bầu rượu, một một túi thơ”.
Tiếng hát du dương. Càn Long và Hòa Thân nhìn anh ta cặp mắt long lanh như hai vì sao, mặt đỏ hồng như quả táo chín. Càn Long nói:
- Chẳng trách cô dâu mang nỗi lòng như vậy đối với ngươi, hãy theo Trẫm về triều làm quan?
Không ngờ chú rể lại cất giọng hát láy:
“Thung hoa đào có am hoa đào, am hoa đào có tiên hoa đào, tiên hoa đào trồng cây hoa đào, bán hoa đào lấy tiền mua rượu. Tỉnh rượu một mình ngồi trước hoa, say rượu ngủ khì dưới tán hoa. Nửa say nửa tỉnh suốt đêm ngày, hoa tàn hoa nở quanh năm tháng. Chỉ muốn chết già với rượu hoa. Chẳng thèm quỳ lạy trước ngựa xe. Bánh xe vó ngựa chuyện quan tướng, chén rượu cành hoa duyên kẻ sĩ. Quan tướng đem so cùng hàn sĩ, một ở dưới đất một trên trời. Rượu hoa xe ngựa nhìn xem thử, họ thì bận rộn ta nhàn rỗi. Thiên hạ cười ta quá dại ngu, ta cười thiên hạ nhìn không rõ. Rừng trước mặt kia chẳng thấy cây, hết hoa không rượu ra đồng cày”.
Nghe xong, Càn Long buồn rầu, Hòa Thân chua xót, Phúc Trường An xấu hổ.
Càn Long ăn cơm trưa ngay tại nhà người nông dân nọ. Cơm toàn là kê màu vàng, thức ăn là rau vườn cùng vôi một đĩa cá kho,một bát gà hầm, hai miếng cá rán. Càn Long ăn, thấy ngon hơn gấp nhiều lần so với trong cung. Thường ngày Càn Long ăn ít theo thuyết dưỡng sinh, nhưng hôm nay ăn đặc biệt nhiều tựa hồ mất cả phong độ của bậc Thiên tử, càng không giống một cụ già hơn 80 tuổi.
Xa giá lại đi hai ngày, Càn Long cảm thấy chán ngấy. Nhìn thấy mặt trời sắp lặn xuống đường chân trời, Càn Long vào nghỉ tại một hành cung. Càn Long cảm thấy mi mắt đè nặng, tai ù. Hòa Thân và Phúc Trường An cùng đỡ Càn Long nằm xuống, xoa bóp cho Càn Long một hồi, vất vả lắm mới làm cho Hoàng thượng chợp mắt.
Hòa Thân cũng có vẻ mỏi mệt, nhìn Phúc Trường An, choàng cánh tay lên sau cổ Phúc Trường An, nói: “Đưa ta về phòng ngủ”.
Phúc Trường An cũng quá mệt mỏi, nhưng đành phải dìu Hòa Thân về phòng ngủ, vực ông ta lên giường, cố gỡ cánh tay Hòa Thân ra khỏi cổ, nhưng nào có được, hai mắt díu lại. Phúc Trường An ôm chặt Hòa Thân, cùng ngủ.
Phúc Trường An, lúc đầu cũng muốn tranh hơn với Hòa Thân, nhưng thấy Hòa Thân hơn mình mọi mặt, trong con mắt của Hoàng thượng, mình không thể so với Hòa Thân, nên cam tâm làm tôi đòi cho Hòa Thân. Hòa Thân cần gì Phúc Trường An thỏa mãn đầy đủ. Phó Hằng dưới suối vàng biết được sẽ vô cùng hổ thẹn có một đứa con như vậy; Phúc Khang An nếu biết trước được cậu em như vậy, thì thanh gươm kia đã chém đầu Phúc Trường An trước khi chém chết Lâm Sáng Văn, Khuếch Nhĩ Ca.
Hôm sau, Hòa Thân thấy Càn Long dẫu đã trải qua một đêm dài ngon giấc vẫn còn mỏi mệt, bèn tìm mọi cách pha trò mua vui. Hòa Thân suốt ngày bên cạnh Hoàng thượng kể chuyện tiếu lâm, ca hát ngâm thơ, khiến Hoàng thượng vui cười thích thú, thế nhưng hôm nay dù kể chuyện thế nào, ca hát thế nào chăng nữa cũng không thể khiến Càn Long vui thích, nên kể lại câu chuyện của Quốc Thái đã kể trước đây. Quả nhiên, Càn Long cười lên mấy tiếng. Hòa Thân thấy tinh thần Càn Long sa sút như vậy bèn nghĩ ra một cách, tâu rằng:
- Hoàng thượng, nô tài cho rằng, tốt nhất là ăn mặc thường phục vi hành một chuyến. Sau trưa, Hoàng thượng thay quần áo, ra ngoài dạo chơi.
- Có lẽ nên như thế. Càn Long đáp.
Trưa, tại hành cung, Hòa Thân và Phúc Trường An lại phải đấm lưng xoa bóp cho Càn Long, Càn Long bỗng nghe một tiếng nổ như sét đánh, đất trời rung chuyển, định thần lại nhìn thấy một cây cổ thụ cao đến mấy trượng, gốc to bự, đang trổ những đóa hoa đẹp, tựa hồ những chuỗi ngọc buông rủ dưới cành cây. Trước nay Càn Long chưa từng thấy một cây cổ thụ nào như thế này trổ hoa đẹp như vậy, ngẩn ngơ nhìn mãi, đột nhiên nghe tiếng một người ở phía sau cất giọng:
- “Mùi thơm lan tỏa khắp bốn phương. Cánh hoa đỏ thắm đón xuân sang. Cây chốn bồng lai mọc dưới trần. Mừng đón con trời đến với dân”.
Càn Long quay đầu lại nhìn thấy Đoạn Sinh, chú rể hôm nọ, bèn nói:
- Trước nay Trẫm chưa bao giờ nhìn thấy cây cổ thụ to lớn như thế lại trổ hoa nhiều như vậy, ngươi hãy nói vì sao cây kia cao to như thế, ra hoa nhiều và đẹp như thế?
- Cây kia đã sống mấy ngàn năm, cách mấy trăm năm mới trổ hoa một lần, nhưng chưa lần nào hoa nở rộ như lần này. Mấy ngàn năm qua, dân chúng ở xung quanh đã bón phân tưới nước cho cây, đã biến hài cốt của mình thành phân bón, máu của mình thành chất dinh dưỡng, hơi thở và linh hồn của mình quấn quýt giữa những chiếc lá xanh. Nguồn phân bón đó tích tụ ngày càng nhiều, nhiều cho đến hôm nay cây cao to dường ấy, nở hoa nhiều và đẹp dường ấy.
- Thế thì mấy trăm năm sau, hoa của nó chắc hẳn càng to hơn bây giờ.
- Bệ hạ nói sai rồi. Cây cổ thụ này từ nay sẽ khô héo, trổ hoa cũng chẳng được nhiều. Nếu muốn xanh tươi thật sự trừ phi cây kia và người chăm sóc nó trở thành kẻ điên dại, hoặc thành yêu tinh.
- Vậy là thế nào?
- Bởi vì người chăm sóc hoa dần dần hiểu rõ, cây cổ thụ kia vốn không muốn họ hầu hạ, và tự cảm thấy mình đã mang tính người. Bệ hạ nghĩ xem, nếu họ đều muốn khôi phục lại tính người cho cây, thề sẽ không bón phân tưới nước nữa, hoa kia không phải dần dần khô héo ư? Nếu thật sự xanh tươi như hôm nay, chẳng phải là cây kia và người kia đều đã trở thành kẻ điên dại và yêu tinh rồi sao?
- Ngươi cũng là người chăm sóc hoa ư?
- Thảo dân cũng là người trồng cây và chăm sóc hoa, nhưng không phải là người bảo vệ hoa kia. Nhà thảo dân ở tại Đào Hòa Nguyên, thảo dân chỉ trồng đào và liễu.
- Trẫm có thể đến đấy xem được không?
- Đâu dám không tuân lệnh.
Càn Long theo Đoạn Sinh vòng quanh cửa núi, một hẻm núi hiện ra, khắp núi đồi toàn hoa thơm cỏ lạ, bờ ruộng dọc ngang, chó gà nô đùa, nhà nông đang bận rộn cuốc cày Càn Long thốt lên:
- Như vùng đất này, làm Thiên tử như thế nào nhỉ? Vừa nói vừa theo Đoạn Sinh đi đến một cái sân, quanh sân là một hàng rào bằng cây mây đầy gai. Kéo cánh cửa ngỏ tre sơ sài, bước vào sân, sân sạch bóng, cây hoa che kín sân. Ba gian nhà tranh tắm trong ánh nắng, cửa mở tung. Bên trong mấy cô gái đang ngồi quanh bàn đùa vui thoả thích, thấy có người vào cũng chẳng buồn quay lại.
- Chúng tôi ở đây. Đoạn Sinh nói: - Con gái không lẩn tránh con trai, cũng không biết Thiên tử là ai, Hoàng thượng hãy vui đùa với họ, thảo dân đi cuốc đây.
Càn Long nhìn thấy bốn cô gái đều trạc tuổi mười lăm, mười sáu, mười bảy. Cô nào mặt cũng như hoa đào, trông thật bắt mắt. Cô gái ngồi đúng hướng nam chính là cô dâu hôm nọ. Bốn cô thấy Càn Long ngây người, nên cười to. Một cô lên tiếng:
- Trên đời này lại có con người như tượng đất kia ư?
Càn Long định thần lại, nói:
- Các cô tiên nữ quả thông minh trí tuệ, cớ sao trách Trẫm là tượng đất?
- Ai là “Trẫm”? Một cô hỏi.
Lúc này Càn Long mới nhớ lại câu nói của Đoạn Sinh rằng, ở đây người ta không biết Trẫm là ai, nên nói:
- Ta đây là Trẫm.
- Trông ông ngơ ngác, vô hồn, không phải tượng đất thì là cái gì? Nếu ông không phải kẻ ngu kẻ đần, vậy ông hãy làm một bài thơ vịnh “Hoa đào cảnh xuân” xem sao.
Càn Long thầm nghĩ, ta đang muốn tỏ rõ bản lĩnh, chinh phục mấy con a đầu điên rồ này, không cần suy nghĩ, đọc ngay bốn câu sau:
Ngày xuân uống rượu chúc thọ trường,
Cảnh mới vật thay thịnh vượng hưng.
Hoa đào trang điểm hơn son phấn,
Sắc hoa say đắm khách qua đường.
Càn Long cho rằng bốn câu thơ trên nhất định khiến họ thán phục, nào ngờ vừa ngâm xong, bốn cô gái cười rũ rượi. Càn Long hỏi:
- Cớ sao cười như vậy?
- Không ngờ thơ ông tầm thường đến thế. Cô dâu nọ đáp.
Càn Long cảm thấy khó chịu. Cô dâu nọ nói tiếp:
- Chúng mày chớ cười nữa, một người thối nát như ông ta, ngoài chữ “phúc”, chữ “thọ” còn biết nói gì hơn.
Mấy cô kia không cười nữa, đứng dậy nói:
- Tại sao anh Đoạn Sinh lại mời con người này đến, chúng em xin chịu thôi. Nói xong, vội vàng cáo từ, chỉ còn mỗi mình cô dâu nọ ở lại. Càn Long lúng túng không biết nên như thế nào cho phải. Cô dâu nọ đưa mắt nhìn Càn Long rồi nói:
- Mời ông theo tôi đến xem cảnh Đào Hoa Nguyên.
Càn Long bước theo sau cô dâu nọ, cảm thấy mùi thơm quấn quýt bên người, không rõ từ tấm thân cô dâu toả ra hay từ hoa đào bay lại. Bước vào giữa vườn hoa đào, cô dâu quay đầu lại nhìn Càn Long. Càn Long bỗng đê mê trong chốc lát, nhìn cô dâu, mặt rạng rỡ dưới ánh hoa đào, trông càng kiều diễm, lòng không khỏi rung động. Nhìn ánh mắt cô dâu như có ý gì với mình đây, nên định bụng thử xem:
- Có một bài thơ như sau, đọc cô nghe, có được không?
- Người ngoài như ông đều gọi con gái là cô ư?
- Không chỉ gọi như thế mà còn nhiều cách gọi khác nữa, ta cũng không biết hết, dường như có mấy trăm cách gọi.
- Nhiều cách gọi như vậy có lợi gì? Đều là con gái cơ mà?
- Như các cô ở đây không thể hiểu được, ta cũng không giải thích nổi. Cô có nghe bài thơ của ta không?
Cô dâu nọ nghiêng đầu như trêu chọc Càn Long, đôi má lúm đồng tiền như nụ hoa chúm chím, dùng ngón tay chỉ lên ngực nói:
- Ông cũng làm được thơ ư? Tôi không tin.
Càn Long càng nhìn thấy cô ta đẹp, càng nhìn thấy cô ta có tình ý với mình, nên nói:
- Thơ của ta, rất hay, nhất định cô sẽ thích thú.
Cô dâu nọ thẹn thùng đáp:
- Vậy hãy đọc, tôi nghe nào.
Càn Long đọc:
“Ngẩn ngơ dưới gốc hoa đào,
hai ta say đắm vì chung mối tình.
Bàn tay ngà ngọc trao nhau,
bên này bên ấy hồn đâu chẳng còn.
Trời xuân xanh thẫm chia ba,
bởi do một nhánh dâu xanh yếu mềm.
Hoa rơi như mộng hoàng hôn,
tình tuy mới bén, gốc đà ăn sâu”.
Cô dâu nọ nói:
- Quả thật là hay, nhưng Đoạn Sinh đã từng ngâm cho tôi nghe rồi. Nói xong mắt chớp chớp.
Càn Long ruột gan như lửa đốt, chịu không nổi trước sự khiêu khích đó, bất ngờ chồm tới, ôm chầm cô ta, hôn đôi môi cô ta. Cô ta bỗng đẩy Càn Long ra:
- Người nơi khác đến đây đều là đồ súc sinh, chẳng biết liêm sỉ gì cả. Nói xong giơ bàn tay ngà ngọc tát hai cái lên mặt Càn Long.
Càn Long như nghe hai tiếng sấm nổ vang lên, mặt mày choáng váng, đến khi trấn tĩnh lại, mới hay mình đang ôm chặt Hòa Thân trong lòng. Rõ là một giấc mộng, Càn Long ngẩn ngơ.
Hòa Thân vừa rồi thấy Càn Long ôm siết chặt mình, ông cũng siết chặt lấy Càn Long. Sau một lúc, vẫn thấy Càn Long cứ thế, nên nói:
- Hoàng thượng, các phi tần sắp đến rồi.
Xa giá tiếp tục đi về phía bắc. Đến Nhiệt Hà, đã mỏi mệt hết cả hứng thú, chẳng buồn đi bơi lội. Nhưng Hòa Thân không chịu:
- Hoàng Thượng, nô tài cho rằng bơi lội là để tượng trưng mà thôi, cũng giống như mùa thu đến Mộc Lan săn bắn, để tỏ ra rằng con em Bát Kỳ không quên luyện võ, Hoàng thượng vẫn trẻ khoẻ, không nên bỏ qua bơi lội, cần phải phô trương thanh thế.
Càn Long đồng ý. Đúng lúc ấy, tin thắng lợi của Phúc Khang An truyền đến, tinh thần bỗng phấn chấn, thế là chuẩn bị đi bơi.
Hôm đó, trời xanh nước biếc, hải âu bay lượn trên ngọn sóng, ánh dương rực rỡ. Hai ngàn nam nữ đã sắp hàng sẵn trên bãi cát chào đón. Để Hoàng thượng phấn khởi, Hòa Thân chọn một ngàn nam thanh niên khỏe mạnh, và một ngàn nữ thanh niên khỏe đẹp dạy họ ca hát, bơi lội, vui đùa. Họ cũng rất lấy làm vinh dự được cùng bơi lội với Hoàng thượng, vô cùng tự hào.
Khi kiệu Hoàng thượng xuất hiện trên bãi biển, tiếng hoan hô như sóng gầm. Càn Long vô cùng phấn chấn, nỗi mệt nhọc trong mấy ngày qua đã tan biến, và vội vàng bước xuống kiệu, cởi hết quần áo ra. Hai ngàn nam nữ thanh niên hoan hô vang dội, vây quanh Càn Long đang bơi lội trong nước biển xanh trong. Trời xanh, biển biếc, trời biển mênh mông, chung quanh tiếng cười đùa reo vang không ngớt, Càn Long cảm thấy trẻ lại, cảm thấy tràn đầy ước mơ.
Cuối tháng 7, đúng mùa săn bắn ở Mộc Lan, Hòa Thân chuyển đến bản tấu của Phúc Khang An.
Chuyện là, Phúc Khang An ở nơi biên cương yên tĩnh, bỗng nhận được chỉ dụ của Càn Long, nhanh chóng tấn công vào nội địa Khuếch Nhĩ Ca. Để đề phòng địch quấy rối hậu phương, Phúc Khang An chia quân thành ba cánh. Lãnh đội đại thần Thành Đức, Đại Lâm Bảo chia nhau phụ trách hai cánh tả hữu, nhằm chia thế lực quân địch. Phúc Khang An chỉ huy cánh giữa. Cánh giữa còn chia ra hai bộ phận tiền quân và hậu quân. Hải Lan Sát phụ trách tiền quân, Phúc Khang An hậu quân.
Hôm đó, quân Thanh gần đến Cát Đa, theo đường chính từ Cát Đa đến mỏm núi Tác Mộc Cổ La Ba Tải phải đến hơn hai mươi dặm, dưới núi có một dòng sông lớn vắt ngang. Nếu qua sông chiếm cứ mỏm núi, thì thành Khuếch Nhĩ Ca nằm dưới chân núi. Do đó Phúc Khang An không nghe theo lời đề nghị của Hải Lan Sát là khống chế con sông, đóng quân bờ phía bắc, phô trương thanh thế, mà lại cậy thế mạnh, xua quân vượt sông sang bờ nam, bất chấp mưa gió tiến quân lên núi. Giầy chiến của quân Thanh đều bị rách nát tả tơi, đành chân trần dẫm lên sỏi đá sắc cạnh, mưa to từng cơn đổ xuống, vắt đỉa khắp nơi thi nhau hút máu, chân cẳng quân Thanh sưng phù lở loét. Phó đô thống A Mãn Thái đang đi qua cầu bị trúng đạn rơi xuống nước chết. Quân Thanh bất chấp địa thế có lợi về phía Khuếch Nhĩ Ca, vẫn cố sức tiến lên núi, gỗ đá từ trên núi lăn xuống như mưa. Phúc Khang An tay vung đại đao xông lên phía trước, quân sĩ cũng liều chết xông lên. Đang lúc sức cùng lực tận, bỗng thấy quân của Khuếch Nhĩ Ca xuất hiện ở hai bên, rung cờ hò hét, chấn động khắp núi rừng. Phúc Khang An chỉnh đốn lại đội hình, quần nhau với địch, dường như không thể chống đỡ nổi, thì thấy Đài Phi Anh A, Trương Chi Nguyên, Đức Lãng Thái v.v... đang cầm quân từ hai bên đánh tới, Hải Lan Sát dẫn đội hậu quân bảo vệ cây cầu, chặn địch ở phía bắc, lúc này cũng cùng nhau đánh tiến về bờ nam, Phúc Khang An được cứu quân Thanh tiếp tục tấn công lên núi. Trận này quân Thanh chiếm được hai ngọn núi lớn, hai mươi mấy cứ điểm, giết chết 13 viên tướng và 6 vạn quân địch, phía quân Thanh, các tướng Đài Phi Anh A, ngự tiền thị vệ Mặc Nhĩ Căn, Bảo Hòa, Anh Quý bị tử trận.
Phúc Khang An đóng quân trên núi, cử Hải Lan Sát bảo vệ cầu, thông suốt liên lạc với phía sau. Thế là Gia Đức Mãn Đô đã ở dưới chân Phúc Khang An, quốc vương Khuếch Nhĩ Ca cử sứ cầu hòa. Phúc Khang An cấp báo về triều đình.
Càn Long xem xong bản tấu, vô cùng phấn khởi. Hoà Thân tâu:
- Hoàng thượng, lúc này đã cuối thu, Phúc An Khang không thể tiến quân nữa, nếu không kịp thời, đông đến, tuyết phủ, tiến lui không được, lương thảo không đủ, sẽ rơi vào thảm cảnh.
- Rất hợp ý Trẫm, Trẫm rất lo Phúc Khang An mạo hiểm tiến quân, tham chiến thành trì. Khanh hãy viết chỉ dụ, hoả tốc gửi cho Phúc Khang An.
Chỉ dụ như sau: “Khí hậu ở Tây Tạng rất rét, sau tháng 9, băng tuyết phủ kín núi rừng, năm nay thời tiết rét sớm; dự báo trung tuần tháng 9, đã bắt đầu có tuyết, nếu không kịp thời lui quân, lương thảo không tiếp tế được tiến không đánh được địch, lui bị băng tuyết cản trở, tình thế hiểm nguy. Phúc Khang An nên tính toán kỹ, nếu thực khó tiến quân, không ngại tâu rõ sự thực. Trẫm ở xa vạn dặm, không thể theo dõi hết mọi việc, Phúc Khang An tuỳ cơ ứng biến, lập công nơi đất Tạng”.
Càn Long xem xong gật đầu, cho gửi hoả tốc chỉ dụ đến Phúc Khang An. Qua hai ngày, đã đến tháng 8. Càn Long triệu Hòa Thân đến, nói:
- Chỉ dụ hôm nọ, dường như có chỗ mơ hồ, khanh truyền đạt ý Trẫm, năm nay khí hậu rét hơn năm ngoái, tuyết rơi sớm hơn, vạn nhất Phúc Khang An cứ tiến quân, mạo hiểm tiến sâu, mùa đông đến ngay, tiến lui đều khó, quan hệ đến việc lớn. Khanh hãy truyền dụ thêm cho Phúc Khang An, nếu quả thực không thể tiến đánh, Ba Đô Nhĩ Tát Giả cũng không dám tấn công doanh trại quân ta, nhân lúc chúng khiếp sợ, lệnh cho chúng cử người về kinh dâng biểu nộp cống, thành thực nhận lỗi, đầu hàng lui quân.
Phúc Khang An quyết định cho chúng đầu hàng. Trung tuần tháng 8, Càn Long trở về khu nghỉ mát Sơn Trang, bản tấu của Phúc Khang An vừa đến, tâu rằng Khuếch Nhĩ Ca đã cử đại đầu mục Cát Kỳ Đệ Đạt Đặc Tháp Ba chuẩn bị đi Bắc Kinh mang theo 25 vật cống như nhạc công, voi, ngựa, chim công, v.v... bày tỏ sau này không dám tái phạm. Ngoài ra còn đưa đến doanh trại 100 con trâu, 100 con dê và lợn, 200 thạch gạo, 100 sọt hoa quả và lương thực, 100 vò rượu, để uỷ lạo quân sĩ.
Tháng 9, Càn Long về kinh, Phúc Khang An rút quân về Tây Tạng. Càn Long triệu Hoà Thân đến, bảo:
- Lệnh cho Phúc Khang An ở lại Tây Tạng xử lý công việc tại đấy.
- Hoàng thượng anh minh, nô tài cho rằng, Khuếch Nhĩ Ca tội không thể tha, nhưng việc xâm nhập của họ có liên quan đến nội bộ Tây Tạng, Phúc Khang An nên điều tra rõ tình hình Tây Tạng, định ra phương sách, ổn định Tây Tạng.
- Rất hợp ý Trẫm, việc Khuếch Nhĩ Ca xâm nhập lần này có liên quan đến Lạt ma Tây Tạng và đại thần trú tại Tây Tạng, Trẫm cảm thấy quan lại Tây Tạng và một số Lạt ma, Kiết long, có hiện tượng đồi bại. Khanh truyền dụ của Trẫm, lệnh cho Phúc Khang An nghiêm trị đại thần trú tại Tây Tạng và những Lạt ma gây rối, định ra luật lệ, ổn định trật tự Tây Tạng, làm rõ chức trách mọi lĩnh vực.
Hoà Thân viết chỉ dụ, gửi đến Tây Tạng.
Tháng 10, Càn Long tự cho mình đã lập được 10 chiến công lớn “mười chiến công: 2 lần bình định Kiết Nhĩ, 1 lần bình định bộ lạc Hồi, 2 lần dẹp Kim Xuyên, 1 lần yên định Đài Loan; 1 lần yên định Miến Điện, 1 lần yên định An Nam, 2 lần buộc Khuếch Nhĩ Ca đầu hàng”.
Càn Long muốn phong vương cho Phúc Khang An, việc này khiến Hoà Thân ấm ức, nên ông đem câu chuyện Ngô Tam Quế và Đường Phiên Trấn kể nhiều lần cho Càn Long nghe. Do vậy suy nghĩ của Càn Long dần dần thay đổi và chỉ dụ rằng: “Phúc Khang An là cháu của Hoàng hậu Hiếu Hiền, con của Đại học sĩ Phó Hằng, nếu phong vương, sẽ có người cho rằng Trẫm quá ưu ái hậu tộc, hơn nữa anh em cha con Phúc Khang An đều nắm quyền cao chức trọng, phú quý vinh hoa, chẳng thiếu thứ gì, nay nhân Khuếch Nhĩ Ca biết tội hối cải, đầu hàng, Phúc Khang An rút quân về Tây Tạng, thay vì phong vương, ban thưởng Kinh xa đô uý hạng nhất lưu truyền con cháu, đứng vào hàng Vương công thân quân hiệu”.
Hải Lan Sát được phong từ tước công bậc hai lên tước công bậc nhất.
Hoà Thân vẫn là Tương tán công kiêm nhiệm Hàn Lâm viện học sĩ. Hoà Lâm ở lại Tây Tạng quản lý công việc.
Tháng giêng năm sau, theo ý chỉ của Càn Long, Phúc Khang An điều tra kỹ vùng biên phòng khu Tây Tạng phát hiện nhiều vấn đề nghiêm trọng từ các chủ trương thuế khoá, mậu dịch cho đến công việc của đại thần trú tại Tây Tạng, cùng với các Lạt ma và Ban Thiền định ra “Chương trình ổn định Tây Tạng”, được Càn Long hết sức khen ngợi và giao cho Cục quân cơ bổ sung hoàn thiện, do Hoà Thân phụ trách. Không lâu, 29 điều của “Chương trình ổn định Tây Tạng” (tiếng Tạng gọi là “Văn kiện năm con bê”) được công bố. Vấn đề Tây Tạng được giải quyết trọn vẹn. Phúc Khang An về Bắc Kinh tâu báo công việc và được bổ nhiệm làm tổng đốc Vân - Quý. Lúc này, Càn Long lại nhận được bản tấu, sứ giả nước Anh tướng Ma-gia-ơ-ni sắp sang thăm Trung Hoa.