Chương 17 SỨ THẦN ANH ĐẾN TRUNG HOA.-HÒA THÂN TRỔ TÀI
Ma-gia-ơ-ni nói: “Nước tôi trước nay không có tục “bó chân”, đây không phải là vấn đề phong tục đơn giản”.
- Hòa Thân tâu: “Nô tài cho rằng, ông ta nhún chân làm lễ cũng chứng tỏ ông ta là bề tôi...”
- Ma-gia-ơ-ni nêu ra sáu yêu cầu với Hòa Thân...
Nước Anh đứng hàng đầu trong số các nước phương Tây buôn bán với Trung Hoa. Năm Càn Long thứ 54, trong số 86 chiếc thuyền nước ngoài cập bến Hoàng Phố ở Quảng Đông, nước Anh đã chiếm 61 chiếc. Chính vì vậy nước Anh cấp bách mở toang cánh cửa của Trung Quốc. Năm Càn Long thứ 52 (1787), nước Anh đã cử đặc sứ Ca-xư-ca-đơ đến thăm Trung Quốc, nhưng trên đường đi, Ca-xư-ca-đơ bị bệnh qua đời. Do đó, ngày 10 tháng 8, năm Càn Long thứ 57, chính phủ Anh được sự ủng hộ của các nước tư bản khác đã cử một đoàn đại biểu sang thăm Trung Quốc gồm 135 người thuộc các lĩnh vực quân sự, đo đạc, vẽ bản đồ, cơ khí hàng hải do Huân tước Ma-gia-ơ-ni làm đặc sứ, dùng tiền của Công ty Đông Ấn, xuất phát từ hải cảng Po-xmơ-dơ, bằng 2 chiếc quân hạm “Sư tử” và “In-đô-xtan”. Hai chiếc tàu chở 600 hòm lễ vật quý hiếm. Ma-gia-ơ-ni hy vọng chuyến đi này ký được hiệp định buôn bán Anh - Trung.
Sau hai tháng, Tổng đốc Lưỡng Quảng, Quách Thế Huân nhận được tờ trình của thương nhân nước Anh. ông cho dịch ra như sau:
“Quốc vương chúng tôi quản lý ba vùng, trước nay mở rộng buôn bán với nước ngoài. Nay nghe Đại hoàng đế thiên triều thọ 80 tuổi, chưa thể cử sứ đến kinh chúc thọ. Quốc vương chúng tôi thật không an tâm. Nay Quốc vương chúng tôi cử đại thần thân tín là Ma-gia-ơ-ni làm cống sứ, mang cống vật quý hiếm dâng lên Đại Hoàng đế tỏ lòng sùng kính. Mong Hoàng đế thiên triều ra ân cho kẻ ở xa, được mãi mãi thông thương thuận lợi”.
Càn Long được tin vô cùng phấn khởi, ngày 13 tháng 8 năm tới đúng là ngày sinh năm thứ 83 của mình. Hai con số 83 trùng hợp thật là hiếm có, nếu buổi lễ mừng thọ lại có người nước ngoài ở xa đến chúc mừng thì uy phong biết bao. Sứ thần nước Anh và sứ thần các nước khác đều có mặt dưới chân mình, được ghi vào sử sách, người già toàn vẹn lại càng thêm hoàn mỹ.
Càn Long chờ đợi, mong ngóng, đợi đến sốt ruột sốt gan, mãi đến cuối tháng 7 năm Càn Long thứ 58, đội thuyền của đoàn sứ thần nước Anh trải qua cuộc hành trình gần một năm trời mới đến Đại Cô Khẩu, Thiên Tân.
Càn Long truyền dụ các tỉnh ven biển, khi đoàn thuyền của Anh cập bến phải cử tướng chỉ huy quân lính hàng ngũ chỉnh tề, cờ xí hiên ngang, áo giáp binh khí hùng dũng, để thể hiện cái uy nghiêm của thiên triều trước mặt sứ thần phương Tây. Và dụ thêm: Sứ thần nước Anh không như các nước phiên thuộc Miến Điện, An Nam v.v..., phải quan tâm chăm sóc.
Đoàn thuyền đến Đại Cô Khẩu, 6 doanh quân lính, hàng ngũ chỉnh tề, đứng trên bờ, cờ xí rợp trời, vũ khí sáng ngời, tiếng vỗ tay vang dội, tiếng hô của binh sĩ rung động đất trời. Nghi thức chấm dứt, Tổng đốc Trực Lệ là Lương Khẳng Đường và Khâm sai đại thần Trưng Thụy lập tức cử người xuống thuyền đón tiếp, và chuyển đến khá nhiều thực phẩm: 20 con bò, 120 con dê, 120 con lợn, 200 gà vịt, 160 bao bột mì, 160 bao gạo, 14 hòm bánh mì, 20 hòm gạo đỏ và gạo trắng, 10 hòm chè lá, v.v…
Ma-gia-ơ-ni vui mừng nói:
- Thực phẩm nhiều thế này, thật khó tưởng tượng!
Phó sứ Xít-tang-tung nói:
- Đón tiếp thế này, ngoài phương Đông ra, chẳng có nơi nào trên thế giới làm được.
Hôm sau, Lương Khẳng Đường lại cho người mang bốn bàn đầy rượu thịt ngon, mỗi bàn gồm 48 món ăn, xuống thuyền.
Hôm sau nữa, Khâm sai đại thần, Trường lô diêm vận sứ Trưng Thụy xuống thuyền cùng với sứ thần Anh làm một số thủ tục. Trước đó, Trương Thụy đã nhận được mật lệnh của Thượng thư Viện lý phiên Hòa Thân: “Trưng Thụy, nên nhân lúc chuyện gẫu, khéo léo kể chuyện, các phiên quốc, thuộc quốc khi đến Thiên triều tiến cống, đều phải làm đại lễ ba quỳ chín lạy, dù đó là Quốc vương đi nữa. Nay Quốc vương của ngài cử ngài đến chúc thọ, tất nhiên phải tuân theo quy định của Thiên triều”. Nhân đó bày vẽ cho họ.
Do đó, Trưng Thụy gặp Ma-gia-ơ-ni và Xít-tang-tung:
- Nghe nói người của quý quốc có phong tục dùng vải bó chân không thể quỳ lạy, nhưng khi các ngài yết kiến Đại hoàng đế thì nên tạm thời tháo bỏ vải buộc chân, làm lễ xong hãy buộc lại, như vậy rất tiện. Nếu các ngài quá câu nệ vì phong tục quý quốc, không làm lễ đó, sẽ mất đi lòng thành kính của Quốc vương quý quốc đã cử các ngài đến tiến cống mừng thọ, và khiến người khác chê cười các ngài không biết quỳ lạy, hơn nữa trong triều đình mà không làm lễ, các đại thần hành lễ cũng không đồng ý. Bây giờ các ngài nên tập trước, nếu không đến lúc đó qùy lạy không quen, mọi người sẽ chê cười.
Ma-gia-ơ-ni nói:
- Nước tôi trước nay không có phong tục bó chân, vấn đề này không phải là vấn đề quỳ lạy đơn thuần, mà là một cử chỉ tiêu biểu cho sự tôn nghiêm của một quốc gia, cử chỉ này không phải tiêu biểu cho riêng tôi, tôi là đại diện cho một đất nước. Lễ tiết của bất cứ một quốc gia nào buộc thần dân mình phải thực hiện đối với Quốc vương họ, cũng không thể đòi hỏi đại diện một nước khác phải làm theo như vậy. Nước này đại diện cho sự khuất phục và thuận tùng, nước kia đại diện cho sự tôn kính và hữu nghị. Giữa hai trường hợp đó có sự khác nhau.
- Ngài là sứ thần đi tiến cống, tại buổi yến tiệc mừng sinh nhật Hoàng đế Đại Thanh, sao không làm đại lễ long trọng nhất, để bày tỏ lòng tôn kính của các ngài đối với Hoàng thượng?
- Ở đây, tôi phải nói rõ, chúng tôi không phải là “sứ thần đi cống”. Chúng tôi đến đây để đàm phán với quý quốc một số việc, tuy chúng tôi có chuẩn bị nhiều lễ vật quý hiếm dâng tặng Đại hoàng đế, nhưng không phải như các ngài nói là “Sứ thần đi cống”. “Sứ thần đi cống” có nghĩa là phục tùng, tùng thuộc; dâng tặng lễ vật có nghĩa là tôn kính, hữu nghị chân thành.
- Cách bày tỏ sự tôn kính chân thành nhất đối với Hoàng đế Trung Quốc là làm lễ quỳ lạy, mong rằng các ngài đã nhập gia thì phải tùy tục.
- Nếu muốn chúng tôi quỳ lạy, chúng tôi cũng đồng ý, nhưng có một điều kiện. Chúng tôi có mang theo bức ảnh Quốc vương chúng tôi, phía các ngài cũng phải cử một đặc sứ có địa vị và thân phận như tôi, ăn bận triều phục, quỳ lạy trước ảnh Quốc vương chúng tôi. Điều kiện này rất cần thiết, do vậy chúng ta nên có một bị vong lục chính thức.
Trưng Thụy mang bị vong lục về triều yết kiến Càn Long. Gặp Càn Long không dám đưa bị vong lục ra và cũng không dám tấu báo những lời nói đại nghịch bất đạo.
Do vậy, đoàn Ma-gia-ơ-ni được lệnh chuyển qua thuyền nhỏ của Trung Quốc, qua Thiên Tân đến Bắc Kinh. Quan viên triều Thanh cắm lên mỗi chiếc thuyền một lá cờ nhỏ ba cạnh, trên cờ đề hai chữ “Thuyền cống”.
Xít tang-tung hỏi:
- Họ viết gì trên lá cờ?
- “Thuyền cống”. Ma-gia-ơ-ni đáp.
- Vứt mẹ lá cờ ấy đi.
- Chúng ta vất vả, mất một năm trời mới đến đây. Nhiệm vụ đất nước giao cho chúng ta là gì? Nếu vì những chuyện vặt mà quên chuyện đại sự quốc gia, thật hổ thẹn với sứ mạng.
Vì vậy họ lờ đi, để mặc lá cờ phất phới.
Đến Bắc Kinh, họ được bố trí ở tại Hùng Mã Viện, Tây Giao, trong nội thành. Sau mấy ngày nghỉ ngơi, họ lên đường đến khu nghỉ mát Sơn Trang tại Nhiệt Hà dự lễ mừng thọ Càn Long 83 tuổi. Ngày 20-7, đoàn của Ma-gia-ơ-ni chia thành hai nhóm: một nhóm ở lại Bắc Kinh, một nhóm theo Ma-gia-ơ-ni đi Nhiệt Hà.
Sau khi đến khu nghỉ mát Sơn Trang ở Nhiệt Hà, được Đại học sĩ kiêm Thượng thư Viện lý phiên, Hòa Thân đến thăm hỏi.
Hòa Thân từ xa đã trông thấy Ma-gia-ơ-ni rảo bước đi đến, mái tóc rậm, xoăn, màu vàng; cặp mắt sâu, màu xanh ranh mãnh, thân người cao lớn, tinh thần sảng khoái.
Ma-gia-ơ-ni lần đầu tiên nhìn thấy Hòa Thân, cũng đã bị Hòa Thân cuốn hút. Thân hình vạm vỡ, bước đi nhanh nhẹn, phong độ ung dung, mặt trắng như phấn, da dẻ hồng hào, đôi mắt lóng lanh sâu thẳm, đặc biệt trên trán có nốt ruồi đỏ, thân người toát lên nét tinh nhanh.
Nhà ngoại giao lão luyện này vừa nhác thấy Hòa Thân đã nhận thấy rằng mình đang gặp một đối thủ. Trong hồi ký của mình, ông hết sức khen ngợi Hòa Thân. Hai người đều khom người làm lễ chào nhau. Hòa Thân nói:
- Đại sứ vì tình hữu nghị hai nước Trung - Anh, vượt trùng dương, không ngại gian lao vất vả, từ xa đến, Hoàng đế Đại Thanh chúng tôi hết sức khen ngợi ngài và vô cùng tôn kính Quốc vương quý quốc. Bản thân tôi cũng rất khâm phục ngài, vô cùng sùng kính Quốc vương quý quốc.
Ma-gia-ơ-ni đáp:
- Tuy cách xa vạn dặm, nhưng từ lâu đã nghe Trung Hoa đất rộng vật nhiều, lễ nghĩa phát triển, vua quan và dân chúng nước tôi rất ngưỡng mộ nước Đại Thanh, đã cử tôi vượt trùng dương nguy hiểm đến quý quốc, bày tỏ lòng tôn kính của vua và dân chúng nước tôi đối với Hoàng đế Đại Thanh, đối với dân chúng nước Đại Thanh, đối với nền văn hóa nước Đại Thanh.
- Ngài đường xa đến đây, không biết tập quán sinh hoạt của Trung Quốc có thích ứng được với ngài không? Nếu có chỗ nào thiếu chu đáo, xin hết lòng chỉ bảo. Đức thánh Khổng Tử của Trung Quốc có nói “Có bạn từ xa đến không gì vui hơn”. Chúng ta là bạn, chúng ta xem nhau như trong nhà, không nên khách sáo.
- Từ khi đến Trung Quốc, được vua quan Đại Thanh khoản đãi thịnh tình, tôi luôn nhớ mãi, nỗi gian lao vất vả trong một năm trên đường đi đã tan biến. Không khí tiếp xúc lần đầu giữa Chính phủ hai nước rất tốt và nhiệt tình, tôi thật cảm động và vui mừng.
Hai người vào điện, an tọa, Hòa Thân nói:
- Trung Quốc và nước Anh xa nhau vạn dặm, giữa nhà nước và nhân dân hai nước rất ít có dịp qua lại, vì vậy rất ít biết một số phong tục tập quán, nghĩ rằng nước Anh không có lễ quỳ lạy.
- Nước tôi không có lễ ấy. Ma-gia-ơ-ni đáp.
- Trung Quốc có câu, nhập gia tùy tục, nghĩa là đến nơi nào thì phải tuân theo phong tục nơi ấy. Đại sứ mang thiện ý của Quốc vương và dân chúng quý quốc đến, nước chúng tôi từ trên xuống dưới đều rất cảm động, song phong tục của một nước từ lâu đã thành định lệ, mà đã là định lệ thì thật khó thay đổi, nếu tùy tiện thay đổi e rằng không được người ta thừa nhận. Hoàng đế Đại Thanh chúng tôi khi tiếp kiến các sứ thần và Quốc vương nước ngoài, các sứ thần và Quốc vương nước ngoài đều phải làm lễ ba quỳ chín bái, điều đó đã thành định lệ. Như vậy, đại sứ phải làm lễ ba quỳ chín bái, quả là khó cho ngài, chẳng rõ những ngày qua ngài đã tập luyện như thế nào, đã thành thục nghi lễ đó chưa?
- Tôi và Quốc vương cùng thần dân nước tôi vô cùng tôn kính quý quốc và Đại hoàng đế quý quốc, nhưng nước tôi không giống một số nước phụ thuộc khác. Tôi là Khâm sứ chứ không phải sử đi cống, nếu làm lễ như thần dân Trung Quốc đến bái kiến Đại hoàng đế, quả thực tôi không thể làm được, tôi là sứ giả của một Quốc vương chịu sứ mạng kiến lập quan hệ ngoại giao của Quốc vương, sao có thể thay đổi mệnh lệnh của Quốc vương mà làm lễ quỳ bái theo cung cách nước phụ thuộc.
Hòa Thân giật mình, nhưng ngoài mặt vẫn tươi cười:
- Mấy hôm nay đại sứ không tập luyện đại lễ quỳ bái
- Tôi đã gửi cho chính phủ quý quốc một bản bị vong lục không biết quý quốc nghĩ như thế nào?
Hòa Thân biết là Trưng Thụy không đệ trình bản bị vong lục của đại sứ Anh trao cho, mà dấu đi, trong lòng rất bực nhưng không hề để lộ ra nét mặt:
- Lễ mừng thọ và chúc phúc Hoàng đế Đại Thanh chúng tôi, thật ra không phải thể hiện địa vị và quan hệ giữa quốc gia, ngài đại sứ đã hết sức tôn kính cá nhân Đại hoàng đế thì cũng nên tuân theo lễ tiết truyền thống chúc thọ thể hiện sự kính trọng giữa hai nước.
- Nếu tôi lấy tư cách cá nhân đến quý quốc, tôi có thể làm đại lễ ba lạy chín bái Hoàng đế ngài, nhưng hôm nay tôi là đại sứ thay mặt cho một quốc gia, đại diện cho Quốc vương tôi, cho nên không thể chấp nhận lễ tiết đó.
Hòa Thân cười:
- Hai chúng ta cứ nói chuyện suông mãi. Vừa nới vừa rút ra từ trong áo một chiếc tẩu thuốc bằng ngọc óng ánh, nói tiếp: - Nghe nói ở quý quốc rất thích hút thuốc bằng tẩu, tôi xin tặng đại sứ vật này. Vật chẳng đáng giá là bao nhưng là thể hiện chút tình hữu nghị và lòng sùng kính của tôi và dân chúng nước tôi đối với đại sứ và dân chúng quý quốc, xin ngài vui lòng nhận cho.
Ma-gia-ơ-ni biết Hòa Thân cố ý tạo ra một không khí, và thật sự kinh ngạc về tài chạm trổ khéo léo trên chiếc tẩu ngọc, nên thuận đà nói luôn:
- Tôi và dân chúng nước tôi rất cám ơn quý quốc. Nghe nói ngài cũng rất thích hút thuốc, không biết ngài có thích loại thuốc hút phương Tây chúng tôi không?
- Ngài rất hiểu tôi, quả thực tôi rất thích hút thuốc, nhưng chưa hút loại thuốc phương Tây bao giờ.
- Mời ngài hút thử xem sao. Ma-gia-ơ-ni vừa cười vừa nói và rút ra một điếu thuốc xì-gà đưa cho Hòa Thân.
Hòa Thân cầm điếu thuốc. Phó sứ Xít-tang-tung cầm bao diêm, quẹt “xoạc” một tiếng, mồi thuốc cho Hòa Thân. Hòa Thân hút mấy hơi thuốc, khen liên tục:
- Ngon, thuốc ngon... thuốc ngon thật!
- Nếu ngài thích, xin chuyển đến ngài hai thùng. Sau này tôi lại cho người tiếp tục gửi biếu ngài. Ma-gia-ơ-ni nói.
- Được được, vậy xin cám ơn. Hút thêm mấy hơi. Hòa Thân nói tiếp:- Cho tôi một ít dụng cụ đốt lửa kia.
- Biếu ngài một thùng, dùng thoải mái.
- Hút xì-gà là tập quán quý quốc, tôi học được ngay và rất thích, nhưng ngài lại rất khó thích ứng với tập quán của Trung Quốc chúng tôi. Hòa Thân vừa nói vừa cười.
- Cho nên, tôi rất khâm phục ngài. Ma-gia-ơ-ni cười.
Hòa Thân cáo từ Ma-gia-ơ-ni, đến gặp Càn Long. Lúc này Càn Long mới biết được sự thật, gọi ngay Trưng Thụy đến. Hòa Thân trách mắng một trận:
- Việc quan trọng thế này, sao lại ỉm đi không báo.
Nếu không phải là môn sinh của mình, Hòa Thân chắc khó tha tội. Trưng Thụy sợ quá vội quỳ xuống:
- Nô tài chỉ định khuyên giải ông ta mấy hôm, hi vọng ông ta nghĩ lại, không ngờ ông ta lại tố cáo nô tài.
Lòng tự tôn của Càn Long bị xúc phạm. Càn Long tức giận.
- Sứ giả nước Anh không hiểu quy tắc của Triều đình ta, quả thực Trẫm chẳng vui chút nào. Khanh xử sự quá đáng, mới khiến người Anh kiêu ngạo tự đại, không phục tùng quy định của Triều đình.
Hòa Thân định để Trưng Thụy đến gặp Ma-gia-ơ-ni một lần nữa, song e chẳng đạt kết quả. Do đó tự mình đến gặp Ma-gia-ơ-ni.
Ma-gia-ơ-ni ra đón, Hòa Thân nới:
- Cám ơn xì-gà của ngài, rất ngon.
- Hòa đại nhân đến lần này, tôi biết rồi, không thế ngài sẽ không tự đến.
Cả hai người ngồi xuống. Hòa Thân nói:
- Ngài vẫn chưa định về ngay ư, là bạn bè quen biết nhau còn muốn chuyện trò với nhau nhiều. Tôi định đưa ông bạn đi thăm chơi những nơi khác đấy.
- Lúc tôi yết kiến Quốc vương tôi, đúng ra là mọi thần dân của nước Anh khi yết kiến Quốc vương, đều một chân quỳ, một tay nhẹ nhàng nắm lấy bàn tay Quốc vương hôn. Đại nhân nói xem, tôi nên yết kiến Hoàng đế Đại Thanh như cách yết kiến Quốc vương tôi được không, xin ngài cho biết ý kiến.
Hòa Thân nghĩ bụng, việc này đối phương khó có thể nhượng bộ, nên đáp:
- Chúng ta là bạn bè, nói thế nào cũng được, nhưng không biết ý kiến Hoàng thượng thế nào. Tôi cho rằng, nếu tôi đến quý quốc, tất phải tỏ lòng sùng kính chân thành đối với Quốc vương, quyết không tỏ ra ngạo mạn kiêu căng.
- Hai nước chúng ta nên đối xử với nhau chân thành. Tôi không hề coi thường ý kiến quý quốc, tôi mang lễ vật của Quốc vương tôi đến yết kiến Đại hoàng đế, điều đó cũng đủ thấy rõ lòng sùng kính của tôi đối với Đại hoàng đế.
- Thế thì tốt, về hình thức không nhất thiết phải ép buộc. Tôi thực sự cảm ơn thuốc xì-gà của ngài, quả thật tôi không rời nó ra được.
Hai người lại tiếp tục chuyện trò.
Hòa Thân tâu với Càn Lọng:
- Hoàng thượng, nô tài cho rằng, ông ta quỳ một chân làm lễ cũng thể hiện ông ta là thần tử. Đó là đại lễ mỗi khi thần tử nước họ yết kiến Quốc vương. Nếu buộc ông ta làm đại lễ ba quỳ chín lạy, thân xác ngờ nghệch của ông ta trông thật khó coi, chi bằng để ông ta làm lễ quỳ một chân.
- Thế cũng được, nhưng sau đại lễ, cho ông ta về ngay. Hòa Thân cử Trưng Thụy đi thông báo cho Ma-gia-ơ-ni: - Hoàng đế đã quyết định, lúc yết kiến, ngài đặc sứ và nhân viên tùy tùng có thể làm lễ theo kiểu yết kiến Quốc vương Anh, nhưng...
- Nhưng cái gì? Ma-gia-ơ-ni sốt ruột hỏi:
- Nhưng, theo phong tục Trung Quốc, cầm tay Đại hoàng đế hôn, không phải đạo lý, nụ hôn đó không bằng thay vì quỳ hai chân thì tốt hơn.
- Quỳ hai chân, không thể được.
- Thế thì!Hai chân, một chân quỳ xuống, chân kia thế nào thì mặc, nhưng hôn tay thì miễn.
- Xin nghe lời vậy.
Càn Long mật chỉ: “Bãi bỏ mọi ban thưởng đặc biệt đối với đoàn sứ giả nước Anh, sau đại lễ, lập tức cho họ trở lại kinh rồi về nước, tại kinh sư không nhất thiết mời họ xem tuồng chèo, đại thần ở kinh khi tiếp sứ thần, không phải đứng dậy. Trẫm cho họ yết kiến, nếu họ quả thành tâm cung thuận, thì tiếp đãi chu đáo, nếu họ kiêu ngạo thì không được hưởng ân đức, giảm mọi lễ nghi tiếp đón, thể hiện thể chế Thiên triều, đó là đạo đối xử với các nước ngoài”. Lệnh cho Hòa Thân phải chấp hành.
Ngày 10 tháng 8, Hoàng đế Càn Long tiếp kiến sứ giả nước Anh tại Vạn Thọ Viên ở khu nghỉ mát Sơn Trang. Càn Long từ sau một ngọn núi nhỏ cây lá xanh tươi xuất hiện, ngồi trên một chiếc kiệu trần, do 16 người khiêng, theo sau là một đám đông thị vệ và người hầu, tay cầm cờ lọng, nhạc khí. Càn Long mặc chiếc áo dài bằng lụa, màu xám không thêu hoa, đầu đội mũ nhung thiên nga, tương tự như chiếc mũ Xít-cốt-len, trước mũ có đính viên ngọc lớn. Càn Long bước lên bậc tam cấp phía trước chiếc ngai dành riêng cho ông. Hòa Thân và hai vị thân vương hoàng tộc theo sát Càn Long, quỳ xuống trả lời. Đặc sứ Ma-gia-ơ-ni mặc lễ phục nhung thiên nga, đeo huân chương, bên ngoài khoác chiếc áo kỵ sĩ bốn thân. Theo hướng dẫn của Thượng thư bộ Lễ, hai tay nâng chiếc khay bằng vàng nạm kim cương trong đó đặt lá thư ủy nhiệm của Quốc vương Anh lên ngang đầu, bước đến bên chiếc ngai, một chân quỳ xuống, nói mấy lời chúc mừng, chuyển thư ủy nhiệm vào tay Hoàng đế. Hoàng đế đích thân nhận thư, nhưng không đọc xem, đại học sĩ Hòa Thân thuận tay nhận lấy cái hộp. Hoàng thượng tươi cười, ôn tồn nói với đặc sứ:
- Quốc vương quý quốc cử sứ thần mang ủy nhiệm thư và lễ vật quý báu đến thăm, Trẫm vô cùng phấn khởi. Trẫm cũng có tấm lòng như vậy bày tỏ cùng Quốc vương quý quốc, mong thần dân hai nước mãi mãi hữu hảo với nhau. Nói xong cầm một thanh ngọc như y dài độ nửa thước đưa cho Ma-gia-ơ-ni, và nói tiếp:- Như ý, gửi biếu Quốc vương nước Anh, chúc Quốc vương mọi sự như ý, chúc nước Anh hòa bình thịnh vượng. Sau đó lại tặng cho Ma-gia-ơ-ni và phó sứ Xít-tang-tung mỗi người một thanh ngọc như ý. Ma-gia-ơ-ni cũng dâng lên lễ vật của mình.
Ma-gia-ơ-ni đoán chừng Càn Long không phải ở tuổi 83 mà mới chỉ hơn 60 tuổi, cặp mắt long lanh rực sáng, phong độ trang nghiêm, tinh thần sung mãn, từ đầu đến cuối vui vẻ.
Ma-gia-ơ-ni dắt cậu con trai của phó sứ Xít-tang-tung. Cậu ta mới 13 tuổi; biết nói mấy câu tiếng Trung. Ma- gia-ơ-ni giới thiệu với Càn Long.
- Đây là cậu bé tập sự của đoàn sứ giả chúng tôi, con của phó sứ Xít -tang-tung.
Càn Long nở nụ cười hiền hậu, cho phép cậu bé đến trước ngai, cậu bé bước đến cất giọng:
- Chúc Đại hoàng đế van (vạn) tuế, van (vạn) tuế, van van (vạn vạn) tuế. Chúc Hoàng thượng van (vạn) thọ vô cương.
Mấy câu tiếng Trung phổ thông đó khiến Càn Long hết sức thích thú, và tiện tay rút ra một cái túi con từ trong thắt lưng tặng cho Xít-tang-tung con. Xít-tang- tung con sung sướng nói:
- Cam an (cám ơn) Hoàng thượng bệ hạ.
Nhờ có Xít-tang-tung con, không khí hội kiến càng thêm vui vẻ chan hoà.
Ngày 13 tháng 8, lễ mừng thọ cử hành. Hoàng thượng đến điện Kính Thành. Các vương công đại thần, vua Mông Cổ, bối lặc, bối tử, phò mã, sứ thần các nước Miến Điện, Anh, An Nam, Triều Tiên,v.v... đến chúc thọ. Ma- gia-ơ-ni đến trước Hoàng thượng quỳ một chân, chúc Hoàng thượng vạn thọ vô cương.
Lễ chúc thọ xong, Càn Long tổ chức đại tiệc. Tại buổi tiệc Càn Long mời Ma-gia-ơ-ni đến trước mặt, tự tay rót rượu mời và nói: “Trẫm đã ngoài 80, hy vọng Quốc vương của ngài cũng thọ như Trẫm”. Vẻ đắc ý lộ ra trên đôi lông mày. Lúc này, cả bữa tiệc đều im phăng phắc, cung kính lắng nghe Hoàng thượng nói. Ma-gia-ơ-ni cũng không thể không kính nể Càn Long, bập bẹ mấy câu tiếng Trung chúc Hoàng thượng vạn thọ vô cương. Tiệc xong, Hoà Thân cung kính tiễn chân sứ thần các nước. Ma-gia-ơ-ni nói:
- Hoà đại nhân, hai nước Trung - Anh nên bắt đầu đàm phán.
- Mấy hôm nay tôi vất vả mệt quá, phải về nghỉ ngơi, tôi đã cử người đến công quán, giúp ngài làm cơm tây, chúc ngài ở đấy được vui vẻ.
- Chúng tôi ở trên đất quý quốc rất vui vẻ, cám ơn quý quốc đã đón tiếp chúng tôi rất thịnh tình, nhưng mà…
- Ngài đại sứ. Hoà Thân chưa đợi Ma-gia-ơ-ni nói hết chữ “nhưng mà “ đã vội nói ngay - Ngài đại sứ không nên khách sáo, không nên chỉ có “nhưng mà”, chúng tôi đón tiếp ngài đại sứ với tấm thịnh tình là điều cần phải, cần phải. Nói xong ra hiệu cho Quản Thế Minh. Quản Thế Minh hiểu ý, nói:
- Mấy hôm nay mọi người vất vả mệt mỏi. Tôi xin đưa ngài đại sứ về công quán.
- Tôi không theo tiễn. Hoà Thân nói xong quay người bước đi. Ma-gia-ơ-ni nuốt phải quả đắng của Hoà Thân. Ông ta không cam chịu. Người Trung Quốc cho rằng ông đến đây để thúc thọ, tiến cống, sứ mạng đó đã hoàn thành, thế nhưng, với Ma-gia-ơ-ni sứ mạng thật sự của ông vẫn chưa bắt đầu. Đang trong lúc tính toán suy nghĩ nên như thế nào để phá tan tình trạng bế tắc này, thì nhận được dụ của Càn Long mời đoàn về Bắc Kinh trước thời hạn.
Ma-gia-ơ-ni về đến Bắc Kinh nhưng không chịu rời khỏi Bắc Kinh. Ngày 26 tháng 8, Càn Long từ Nhiệt Hà về Bắc Kinh, không vào thành, mà đi thẳng đến điện Chính Đại Quang Minh. Tại vườn Viên Minh, nơi đang trưng bày “Vật cống” của nước Anh. Càn Long xem kỹ từng vật, xem nhân viên người Anh biểu diễn từng loại máy móc.
Càn Long dừng lại xem rất lâu mô hình chiếc quân hạm “Hoàng gia” gắn 110 khẩu đại bác, và hỏi tỉ mỉ, tốc độ trọng tải của quân hạm, uy lực của đại bác, một số chi tiết máy móc. Hỏi xong lại nói: “Máy móc của quý quốc tinh xảo, trình độ đóng tàu cao, thật đáng khâm phục”. Rồi lại hỏi tiếp các nhân viên Anh về công nghệ đóng tàu và lực lượng quân sự của Anh đạt đến trình độ như thế nào.
Hôm sau, Càn Long triệu tập đại thần quân cơ, mật dụ: “Nước Anh là nước mạnh nhất trong các nước phương Tây. Quốc vương Anh sau khi nhận được sắc dụ, sẽ lấy cớ sinh sự, không thể không đề phòng”. Càn Long còn lo rằng, những người Anh đi trên quân hạm lúc trở về sẽ lén chiếm các đảo, nên lệnh cho đại thần quân cơ lập tức truyền dụ cho đốc phủ các tỉnh ven biển: “Đốc phủ phải đôn đốc các doanh quân đội hàng ngũ chỉnh tề, vũ khí oai vệ, mỗi khi sứ thần Anh quá cảnh, để họ nhìn thấy mà e ngại. Các hải đảo như Châu Sơn ở Ninh Ba, các đảo gần Áo Môn ở Quảng Tây, phải phòng bị, chớ để người Anh chiếm đóng. Họ tuy thông thạo đường biển, nhưng không quen thuộc đường bộ, tàu biển ở đại dương, nhưng không vào nội địa được. Nếu cửa sông bờ biển phòng thủ nghiêm mật, người Anh không thể thực hiện được âm mưu của họ. Đốc phủ miền duyên hải phải kiểm tra chặt chẽ, không được để kẻ gian cấu kết với người nước ngoài.”
Sau khi xem các “vật cống” của nước Anh, Càn Long vừa về Hoàng cung thì được báo cáo rằng, người Anh không hợp thuỷ thổ, đã chết ba người, và chưa muốn về nước. Càn Long đâm nghi, nói ngay với Hoà Thân: “Người Anh đến đây rồi có người chết, thật không hợp ở đây. Khanh hãy đi một chuyến, bảo họ lo liệu xong, đi ngay”.
Sáng sớm hôm sau, Hoà Thân đến gặp Ma-gia-ơ-ni vừa giáp mặt đã nói ngay:
- Ngài đại sứ, trước tiên cho tôi bảy tỏ lời đau buồn về cái chết của mấy tuỳ viên quý quốc. Hoàng thượng rất thông cảm với các ngài, biết rằng người phương Tây các ngài không quen với khí hậu giá rét của Bắc Kinh. Các ngài không biết, sau tiết sương giáng trời càng giá rét. Nếu để đến lúc tuyết phủ băng đóng, Hoàng thượng và tôi hết sức lo lắng cho sức khoẻ của ngài và những người tuỳ tùng, thực ra chúng tôi nên giữ các ngài thêm một thời gian nữa mới phải, nhưng tình hình như thế này đành để ngài đại sứ về nước sớm hơn.
- Tôi vô cùng cảm kích về sự quan tâm của Hoàng đế và của ngài. Khí hậu Bắc Kinh tuy giá rét, nhưng bản thân tôi chịu được giá rét, dù thời gian ở lại đây kéo dài cũng không hề ảnh hưởng đến sức khoẻ. Nước tôi muốn xây dựng tình hữu nghị bền chặt với quý quốc, hơn nữa Quốc vương tôi muốn tôi làm đại sứ thường trú tại Bắc Kinh, và đàm phán với Triều đình quý quốc một số vấn đề có liên quan. Và, nếu Hoàng đế quý quốc muốn cử sứ thần đến nước chúng tôi, chắc chắn nước tôi rất dễ hoan nghênh và chi phí tàu thuyền đi lại có thể do nước tôi lo liệu. Hoà đại nhân từng nói muốn đến nước tôi, nếu Hoà đại nhân đi là niềm vinh dự cho nước tôi.
Nghe xong Hoà Thân đáp:
- Nhã ý của ngài, tôi nhất định sẽ tâu lên Hoàng thượng, ngài có đề nghị cụ thể gì xin cứ nói ra.
Ma-gia-ơ-ni căn cứ vào huấn lệnh của chính phủ mình đưa ra sáu yêu cầu, đề nghị triều đình nhà Thanh xem xét:
1. Xin Trung Quốc cho phép thương nhân Anh buôn bán tại ba nơi là Châu Sơn, Ninh Ba và Thiên Tân.
2. Cho phép thương nhân Anh lập một cửa hàng tại Bắc Kinh để mua bán hàng hoá.
3. Xin chỉ định cho một đảo nhỏ, không có căn cứ quốc phòng gần Châu Sơn để thương nhân Anh sử dụng, thuyền buôn Anh ghé đậu, bốc dỡ hàng hoá, thương nhân Anh cư trú.
4. Xin cho phép nước Anh cho những quyền lợi như trên ở vùng phụ cận Quảng Châu và một số quyền lợi nhỏ khác.
5. Hàng hoá của nước Anh chuyển từ Áo Môn đến Quảng Châu được ưu đãi đặc biệt, miễn thuế hoặc giảm thuế.
6. Đề nghị hải quan Trung Quốc công bố quy định thuế để thương nhân Anh dựa vào đó nộp thuế.
Hoà Thân xem xong nói:
- Phải chăng ngài cho rằng chúng tôi không quan tâm chu đáo nên muốn lập một quốc gia trong một quốc gia?
- Nếu nước tôi có ý kiến bất đồng, thì có thể thương lượng. Ma-gia-ơ-ni nói.
- Sử dụng đất của Trung Quốc, lại không cho Trung Quốc xây dựng căn cứ quốc phòng, việc đó mà cũng nói đến thương lượng ư? Ngài đến Trung Quốc, lẽ nào chỉ vì việc đó? Những việc này có cần tôi tâu lại với Hoàng thượng không? Là bạn bè với nhau, ngài chớ làm khó cho tôi, là bạn bè, lại càng không nên đưa ra những yêu cầu như vậy.
- Triều đình quý quốc có thể sửa đổi.
- Vấn đề này không thể nào thương lượng được. Bây giờ xin mời ngài và các vị khác cùng tôi dùng bữa cơm đạm bạc, nếu không hai chúng ta lại ẩu đả nhau đấy.
Nói xong, Hoà Thân cười hà hà, đứng dậy.
Trên bàn ăn có nhiều món ăn Tây và cả những dụng cụ ăn kiểu Tây tinh xảo, Hoà Thân nói:
- Hoàng đế Đại Thanh chúng tôi rất quan tâm đến ngài, mở tiệc đặc biệt mời mọi người để khen thưởng thiện ý hữu hảo của quý vị đối với nước chúng tôi: Xin mời quý vị.
Mọi người ngồi xuống, kinh ngạc nhìn thấy thực phẩm chính cống nước Anh, tưởng chừng như đã về nước Anh, ngồi tại bàn ăn nhà mình. Ma-gia-ơ-ni vô cùng cảm động, phát biểu:
- Tôi vô cùng cảm ơn quý quốc đã thiết tiệc chiêu đãi chúng tôi, thật không có lời nào có thể bày tỏ nỗi cảm kích này.
- Tôi có thể thay ngài bày tỏ, hai nước cư xử bình đẳng, quyết không có lòng dạ xấu xa. Nói đến đấy, Hoà Thân đưa mắt nhìn chằm chặp Ma-gia-ơ-ni, mỉm cười đứng dậy nói tiếp: - Xin mời, vì sự phồn vinh giàu mạnh của hai nước, cạn chén.
Ma-gia-ơ-ni cũng đứng dậy chạm cốc với Hoà Thân. Hai người cùng ngồi xuống Ma-gia-ơ-ni nói:
- Trung - Anh hai nước cùng tôn trọng nhau, trao đổi sứ thần, lập sứ quán ở thủ đô mỗi nước...
Không đợi Ma-gia-ơ-ni nói hết lời, Hoà Thân đã vẫy tay gọi Quản Thế Minh đến bảo: “Đem những thứ Hoàng thượng ban thưởng cho đại sứ ra đây”. Quản Thế Minh hiểu ý, khiêng ra một chiếc hòm. Hoà Thân nói:
- Đây là những bức tranh đẹp của nước tôi, có tranh của tiên sinh Trịnh Bản Kiều, có cả tác phẩm của Nguyên Tế thời Thánh tổ. Hôm nay tôi tặng tác phẩm này của Trịnh Bản Kiều và Nguyễn Tế là thực sự mong muốn văn hoá Trung - Tây hợp lưu cùng tiến, ngài và tôi nhân đây thúc đẩy thêm.
- Chính vì vậy, hai nước chúng ta nên mau lập sứ quán để tăng cường giao lưu. Ma-gia-ơ-ni nói.
- Phép vẽ phương Tây khác với phép vẽ Trung Quốc. Trung Quốc tả ý, phương Tây tả thực. Tranh Trung Quốc không gò bó ở vật thực mà đi tìm cái tự nhiên, tranh phương Tây coi trọng vật thực, nặng về phân tích, nhưng hàm ý khác với tranh Trung Quốc. Càng có ý nghĩa hơn là người Trung Quốc vẽ hoa để tả mùa xuân, còn phương Tây thì vẽ người đàn bà khoả thân, dường như phương Tây của ngài cho đó là hay.
Hoà Thân nói một thôi một hồi khiến Ma-gia-ơ-ni choáng váng, không thể mở mồm nói chuyện quan hệ giữa hai nước, không khỏi có phần ngao ngán, vừa thấy mình mang trọng trách của Quốc vương, vừa thấy Hoàng đế và quan lại Trung Quốc cực kỳ khó hiểu đang bực mình, thì Hoà Thân lại kéo tay ông ta nói:
- Nhân lúc rượu hứng, tôi xin vẽ cho ngài bức chân dung được không?
- Sao lại không được nhỉ.
Câu nói đó chẳng qua là để chống đỡ cho qua chuyện, nhưng nhìn thấy Hoà Thân đưa tay phải lên, vén tay áo cầm cây bút lông, trải tờ giấy tuyên chỉ ra, vẽ mấy nét, trông rất thoải mái, trong chốc lát, đã hiện lên bức chân dung Ma-gia-ơ-ni rất có hồn, cá tính tâm tư đều hiện rõ, cao sâu khó lường. Ma-gia-ơ-ni thán phục: “Ngài nói Trung Quốc lấy ý làm trọng, quả thật giờ đây tôi mới hiểu”. Ma-gia-ơ-ni rất đỗi vui mừng, cầm lấy bức tranh, không chịu rời tay, cảm thấy từ xa vạn dặm đến Trung Quốc, thật không bõ chuyến đi, chỉ mỗi việc hiểu được điều ký diệu của nền hội hoạ Trung Quốc, chuyến đi này cũng đáng giá rồi, thế là nỗi bực dọc trong người tan biến mất.
Tiệc xong, Hoà Thân về cung, tâu lại với Càn Long toàn bộ yêu cầu của Ma-gia-ơ-ni. Càn Long, với khẩu khí không thèm thương lượng bác bỏ tất cả dù hợp lý hay không hợp lý: “Thiên triều ta sản phẩm dồi dào, không thiếu thứ gì, chẳng cần hàng hoà nước ngoài. Trẫm hiểu chỗ khó của các nước phương Tây là cần chè, đồ sứ, tơ lụa và những thứ cần thiết khác, nên Trẫm cho phép họ được lập các tiệm buôn ở Áo Môn để thoả mãn nhu cầu người nước ngoài. Còn việc buôn bán ngoài quy định thì không phù hợp với luật pháp Thiên Triều, không cho phép. Pháp chế Thiên Triều nghiêm ngặt, mỗi một tấc đất đều có trên bản đồ, không dễ gì chia cắt. Việc người Anh yêu cầu nhượng đất, quyết không thể được. Việc miễn thuế, giảm thuế các nước phương Tây đều như nhau, không có gì đặc biệt với nước Anh, Áo Môn đã có định lệ. Không được làm khác với chỉ dụ”.
Cuối sắc dụ, Càn Long với khẩu khí của Đại hoàng đế Thiên triều trị vì thiên hạ nói với Quốc vương Anh: “Quốc vương nên hiểu ý Trẫm, phải chân thành, hứa mãi cung thuận, để bảo toàn đất nước, cùng hưởng phước thái bình”.
Hôm sau, Hoà Thân mời Ma-gia-ơ-ni đến. Gặp mặt, Hoà Thân không nói đến lời thứ hai, trao cho Ma-gia-ơ- ni quốc thư, và lễ vật, ngỏ ý Ma-gia-ơ-ni hãy về nước ngay.
Đương nhiên, Càn Long bác bỏ việc Anh yêu cầu cắt đất xây dựng thị trấn, miễn giảm thuế và những đặc quyền khác. Đúng là sáng suốt. Chỉ điểm này thôi, con cháu của ông sau này cũng phải hổ thẹn.
Năm Gia Khánh thứ 21 (1816), nước Anh lại cử A-mây-sư-đô sang Trung Quốc, lại cãi nhau về thủ tục lễ nghi, Gia Khánh không tiếp. Những việc xảy ra sau năm 1840, như mọi người đều biết. Nước Anh đã sử dụng đại bác mở toang cửa ngõ Trung Quốc.
Hoà Thân, trong hoạt động tiếp đoàn sứ giả nước Anh lần này đã trung thành chấp hành sách lược ngoại giao của Càn Long, nhiệt tình nhưng nguyên tắc, linh hoạt cơ động, Ma-gia-ơ-ni được đón tiếp nhiệt tình, khoản đãi ân cần, bị giám sát chặt chẽ, bị đuổi đi rất lịch sự.