← Quay lại trang sách

Chương 18 MÔN ĐỒ PHÓNG TÚNG.-KHÔNG CHÚT TÌNH NGƯỜI

Lưu Bảo Kỷ và Nạp Lan mang phật vàng do Thường Đan Quỳ tặng, đến phủ Hòa Thân...

- Ngô Tỉnh Khâm làm học chính, dựa vào số lượng tiền bạc và quà cáp mang đến nhiều ít mà quyết định thứ bậc của thí sinh, ở đâu cũng gặp Lý Điều Nguyên...

Tiễn Ma-gia-ơ-ni đi rồi, thời tiết đã vào cuối thu, gió tây bắc cuốn tung cát bụi mù trời, phủ kín kinh thành Bắc Kinh, đến nỗi vừng dương rực sáng cũng bị mờ đi bởi lớp cát bụi màu vàng xám. Hai bên đường phố, lá hòe khô héo, cuộn bay khắp đường phố mỗi khi cơn gió thổi đến. Những ngọn cỏ hướng dương bên chân tường cũng mất đi màu xanh tươi, những dây mướp trên hàng rào, những dây leo bên bờ tường đều khô héo, mấy chiếc lá khô trơ trụi kêu phành phạch khi cơn gió thổi qua.

Mùa đông giá rét sắp đến rồi.

Nhưng lòng dạ Hòa Thân lại reo vui như mừng xuân. Ông được bổ nhiệm làm Học tập thứ cát sĩ, kiêm quản Viện thái y và Phòng ngự thiện. Nạp Lan cùng với Lưu Bảo Kỷ đến phủ khiến ông càng thích thú hơn.

Lưu Bảo Kỷ đã làm quan tri phủ Trực Lệ, béo trắng hơn trước nhiều. Y đến thăm ông anh Hô Thập Đồ. Hô Thập Đồ thấy em đến thăm vô cùng phấn khởi, vội vàng hỏi thăm mọi chuyện gần xa. Nạp Lan nói:

- Đại quản gia không nhận ra tôi ư?

- Tiểu thư lại trêu lão nô này rồi.

- Làm cha rồi chứ?

- Hãy đến bà dì Khanh Lân mà tìm.

Nạp Lan vừa cười vừa bước đi.

- Chớ quên trao đổi chuyện của nàng nhé. Lưu Bảo Kỷ nhắc với.

- Có việc gì nhờ tướng phụ giúp đấy? Hô Thập Đồ hỏi.

- Chuyện thường thôi mà. Trước nay tướng phụ không đến tìm anh ư? Lưu Bảo Kỷ hỏi.

- Cậu ấy có việc gì vậy? Hô Thập Đồ hỏi.

- Hiện nay anh ấy bị cách chức rồi, cần tướng phụ giúp đỡ

Thường Đan Quỳ, còn gọi là “Thường Đầu Quỷ”, người Giao Hà, Trực Lệ, nhà giàu. Sau khi nịnh hót Hô Thập Đồ, dựa vào quan hệ với Hô Thập Đồ, kiếm được chức lại mục. Năm Càn Long thứ 42 được điều đến Hồ Bắc. Năm thứ 48, “bán” cho Hòa Thân 30 khoảnh đất, bán cho Hô Thập Đồ 10 khoảnh, sau khi giao khế ước cho Hô Thập Đồ thì được thăng lên chức huyện thừa Ân Thi. Do có công dẹp yên các tổ chức bí mật và dị giáo nên được Càn Long triệu kiến, được phong tri huyện, năm thứ 57 được thăng chức tri phủ Kỳ Châu. Sau khi được ban thưởng do dẹp yên các tổ chức bí mật và di giáo, Thường Đan Quỳ càng hăng hái lao theo con đường đó.

Trong thành Kỳ Châu có một nhà buôn tên là Thôi Đồng, mẹ đã hơn 60 tuổi, bị bệnh thần kinh, một mình ngồi khóc thút thít cả ngày. Thôi Đồng thấy mẹ như vậy, nên mời một bà lão đã cao tuổi hay nói chuyện đến nhà cùng mẹ bầu bạn. Quả nhiên bà mẹ đỡ đi nhiều. Các cụ già ngồi lại với nhau hay đùa cười chuyện gẫu, tránh sao khỏi nói chuyện quỷ thần, đôi lúc cùng nhau hát ca, giống như tín đồ Giê-xu đọc kinh. Một hôm kiệu của Thường Đan Quỳ đi ngang qua đó, các cụ già ở trong sân đang ca hát, í a chẳng biết hát cái gì. Thường Đan Quỳ hiếu kỳ, vén bức màn kiệu lên xem, nhìn thấy trong một cái sân rộng nằm sâu trong ngôi nhà một hoàng đế đang biểu dương khen thưởng những người mô phạm, bỗng thích thú. Nếu là ngôi nhà tường vách trống trải, ông ta đi luôn, nhưng ngôi nhà kia kín đáo, chắc có nhiều tiền bạc.

Thường Đan Quỳ bảo dừng kiệu, dẫn bọn nha dịch đến trước cổng. Người hầu thông báo, Thôi Đồng mừng rỡ, đại nhân tri châu đích thân đến đây, quả là mình được ưu ái vội vàng áo mũ chỉnh tề ra đón. Nào ngờ càng ăn mặc chỉnh tề sang trọng, viên tri phủ càng vòi nhiều hối lộ. Thế là lợn dê cung phụng cho tên đồ tể, hết con này đến con khác tìm đến chỗ chết.

Thường Đan Quỳ theo Thôi Đồng vào sân, dạo quanh một vòng, nhìn thấy một nhóm người ngồi dưới chái nhà, nghĩ rằng bắt được quả tang, thét lớn:

- Bắt Thôi Đồng cho ta.

Thôi Đồng đang kinh ngạc, thì chân tay đã bị trói:

- Đại nhân, sao lại thế này. Thôi Đồng hỏi.

Thường Đầu Quỷ chẳng thèm trả lời, hỏi nha dịch:

- Gọi đô đầu đến, mang thêm nhiều người, bao vây sân, chỉ cho vào không cho ra.

Các bà lão đang hát ca nghe ngoài sân ồn ào, vội chạy ra, nào ngờ, người nào chạy ra cũng đều bị trói lại. Một bà lão còn lại trong nhà không dám chạy ra. Lúc này Thường Đan Quỳ nói:

- Thôi Đồng, ngươi tụ tập tín đồ truyền đạo, bí mật tổ chức hội kín, bị ta bắt quả tang, còn nói gì nữa.

Lúc này Thôi Đồng mới vỡ lẽ, vội vàng thanh minh:

- Các bà lão đến đây ca hát, tìm vài công việc để làm, chẳng có dính líu gì đến tôn giáo, xin đại nhân minh xét.

- Bọn dân đen to gan thật, còn dám chối cãi, phải trị tội nặng. Thường Đan Quỳ nói.

Một lát sau, đô đầu dẫn, bọn nha dịch trói tất cả những người trong sân, chỉ để lại cô em của Thôi Đồng dắt cậu con của Thôi Đồng. Chắc là Thường Đầu Quỷ nhìn thấy cô em Thôi Đồng có thể dùng được, trông khá đẹp, nếu không cũng đã cho trói cô ta lại nếm mùi trừng phạt.

Lúc này, Thường Đầu Quỷ làm hai việc: một, bố cáo dân chúng, biết gì phải báo; hai, đánh tiếng nộp tiền chuộc tội. Thế là, có mấy người biết điều vội vàng đem bạc nộp, người nhà được thả về, cho rằng vì nhất thời mù quáng. Ai không chạy đủ tiền, người nhà bị giam vào ngục, cho rằng họ cố ý dung túng người khác làm bậy. Thủ phạm đương nhiên là Thôi Đồng, nói rằng ông ta lấy cớ hiếu kính mẹ già để truyền đạo. Không bao lâu, vợ Thôi Đồng được thả ra, nói rằng bà không biết việc làm của chồng, nhà lại có con mọn, đại nhân tri phủ thương tình ra ân. Thực ra, Thường Đầu Quỷ thả bà ra là vì, cô em gái Thôi Đồng ở nhà sợ quá hóa dại, không biết nộp tiền cho tri phủ, mặc dù có nhiều người mách nước cho cô ta.

Quả nhiên, sau khi về nhà, vợ Thôi Đồng cho người mang đến nhà tri phủ mấy trăm lặng bạc trắng, thế là mẹ Thôi Đồng được thả, nói rằng bà đã nhận tội, đã báo có mấy người truyền đạo, và bắt điểm chỉ. Bà lão được tha, treo cổ tự vẫn ngay hôm đó. Trước khi chết đã nói câu: “Chẳng còn mặt mùi nào nhìn thiên hạ”.

Do vậy, Thường Đầu Quỷ cho bắt những người dân ở khu phố, nói rằng: “Hiện có lời cung của mẹ Thôi Đồng”. Mặc dù lời cung không có dấu tay điểm chỉ của bà lão, nhưng Thường Đầu Quỷ muốn bắt ai ở khu phố đó thì cứ thế bắt.

Triều Thanh thực hiện chế độ bảo giáp bất kể châu huyện thành thị nông thôn, cử 10 hộ một trưởng bài, 10 bài cử một trưởng giáp, 10 giáp cử một trưởng bảo. Trước cửa mỗi hộ treo một ấn bài, ấn bài ghi tên chủ hộ, số hộ khẩu và đăng ký vào sổ sách của chính quyền. Hộ khẩu di chuyển phải chú rõ nơi đi đến. Đồng thời giao trách nhiệm cho các chủ đất, chủ sản xuất quản lý chặt chẽ tá điền, cố nông giúp việc cho mình, hoặc do bài giáp quản lý. Nếu xảy ra chống đối thì liên đới chịu trừng phạt.

Thôi Đồng là nhà buôn lớn, lại có mấy công trường, bạn muốn ông ta phạm tội, chẳng phải liên lụy đến nhiều người ư. Có một số người không chịu được đánh đập tra khảo, phải nói Thôi Đồng là thủ phạm, bí mật lập tổ chức kín, truyền đạo.

Hình pháp triều Thanh (Luật Đại Thanh) gồm mấy phần “Ngũ Hình”, “Thập ác”. Trong “Thập ác” thì lập bè đảng thuộc tội hàng đầu.

Thôi Đồng bí mật lập bè đảng, truyền đạo là trọng án. Thường Đan Quỳ chuyển các chứng cứ lên trên. Đại thần quân cơ Hòa Thân truyền lệnh khen thưởng, kêu gọi các tỉnh trong toàn quốc học tập tấm gương Thường Đan Quỳ.

Thôi Đồng thở thoi thóp, chân tay bị đóng đinh treo tường. Mẹ ông thấy con mình như vậy, và bị cáo buộc phải thừa nhận có truyền đạo và khai những đồng đảng, nếu không đứa cháu trai cũng bị đóng đinh treo tường. Bà lão hôn mê, cứ thế điểm chỉ.

Thôi Đồng và mấy trăm đồng đảng bị xua vào chiếc thuyền áp giải lên tỉnh. Cô em gái, vợ bị bán cho quan, cậu con trai đi làm gia nô.

Án loại này càng nhiều, tiền bạc vào túi càng nhiều, thăng quan tiến chức càng nhanh. Thế nhưng vì sao Thường Đan Quỳ bị cách chức?

Chuyện là thế này, ông ta là tấm gương trừ đạo, Hòa Thân cũng có phần sơ xuất, Thượng thư bộ Lại Lưu Dung trong khi khảo sát quan lại, lại khảo sát đúng vào Thường Đan Quỳ, phát hiện Thường Đan Quỳ vi phạm quy chế khảo sát nên cách chức ông ta.

Chế độ khảo sát quan lại của triều Thanh có quy định các quan lại từ bậc tam phẩm trở lên do Hoàng thượng đích thân khảo sát, từ tứ phẩm trở xuống do bộ Lại, Viện trưởng đô sát, đại học sĩ cùng khảo sát, rủi thay, Thường Đan Quỳ rơi vào tay Lưu Dung.

Thường Đan Quỳ bị cách chức, vội mang tiền bạc đi gặp Lưu Bảo Kỷ, nói: “Đã giúp thì giúp đến cùng”. Chức quan của ông ta là do nhà họ Lưu vận động mà có, sau đó nhờ Hòa Thân tiến cử lên Hoàng thượng, và cứ thế thăng tiến. Gia đình “nội Lưu” luôn luôn nhận được lễ vật của Thường Đan Quỳ, vợ và em gái của Thôi Đồng bị bán cho quan, thực tế bị Thường Đan Quỳ ép giá buộc bán cho Lưu Bảo Kỷ. Lưu Bảo Kỷ và Nạp Lan rất thích hai người này, nên khi Thường Đan Quỳ ngỏ ý nhờ họ đến nói Hòa Thân giúp đỡ, họ vui vẻ nhận lời ngay. Hai vợ chồng mang phật vàng của Thường Đan Quỳ gửi biếu Hòa Thân đến phủ Hòa Thân.

Nạp Lan bước lên lầu để sổ sách, nhìn thấy sổ sách tăng nhiều hơn trước đây, chất đống như núi, có nhiều nữ tì hơn, có nữ tì nhận ra Nạp Lan, còn phần đông không biết Nạp Lan. Khanh Lân thấy Nạp Lan đến, vô cùng mừng rõ, vội bắt tay Nạp Lan, nói:

- Sinh được một cô bé đẹp hơn trước nhiều, đẹp đến mê người. Nhờ uống thuốc dưỡng nhan sắc đấy! Nói xong liền ghé mồm kề tai Nạp Lan thì thầm:- Uống thuốc xuân của cậu Lưu nên trở thành yêu tinh như thế này!

- Chị vẫn láu lỉnh như xưa. Nạp Lan nới.

Hai người vào trong nhà trong, đóng kín cửa lại.

Khanh Lân nói:

- Nghe nói chồng em cực khỏe, vậy có khỏe hơn cha nuôi của em không? Còn nhớ đến cha nuôi không?

Nạp Lan ôm chặt Khanh Lân, vứt Khanh Lân lên giường, đè lên thân người Khanh Lân:

- Trông bà chị háo hức thế này, chắc chắn mấy ngày qua cha nuôi của em không đến, chắc chắn lão Hô Thập Đồ kia vô dụng. Các cô nữ tỳ kia không biết học bản lĩnh của Hô Thập Đồ ư? Vừa rồi em nhìn thấy một tiểu thái giám đi ngang qua cửa, phải chăng chị đã có một anh chàng mới?

- Không dấu gì em, Hô Thập Đồ quả thực chẳng ăn thua gì, chị đang nuôi một thái giám, nhưng không thạo kỹ thuật đó. Chị ao ước như em, thỉnh thoảng muốn gặp anh chàng hớp hồn của em thử xem anh chàng thế nào.

- Chị muốn gặp anh chàng ư, nhưng chớ nuốt chửng anh chàng. Chúng ta là hai chị em cơ mà, hôm nào đó em sẽ nhường anh chàng cho chị.

- Thật ư? Khanh Lân quá bất ngờ hỏi tiếp:- Thật nhé?

- Em không lừa chị đâu. Hiện nay cha nuôi em ở đâu?

- Chị tưởng em đến đấy trước khi đến chị, thật không giống trước đây. Ông cụ ở trong thư phòng ấy.

Nạp Lan đứng dậy cáo từ. Khanh Lân nói:

- Chớ quên lời hứa nhé!

- Trông bộ chị sốt ruột lắm, nếu thế, em sợ chị cướp mất anh chàng của em. Nạp Lan vừa nói vừa cười bước ra khỏi cửa.

Nạp Lan vào thư phòng Hòa Thân, nhìn thấy thư phòng có nhiều sách vở hơn, nhưng mọi thứ đều bày biện y như cũ, không có chút gì thay đổi. Nạp Lan và các tiểu đồng ở đây đã quá hiểu biết nhau, lúc này Hô Thập Đồ lại bảo chúng ra ngoài, mọi người đều rõ cả.

Nạp Lan bước vào cửa, Hòa Thân vẫn vùi đầu trên bàn, cô nhẹ nhàng bước đến, từ phía sau lưng dùng đôi bàn tay bịt kín cặp mắt Hòa Thân. Hòa Thân huơ tay nắm lấy cánh tay Nạp Lan và nói:

- Đúng là Nạp Lan, đúng là Nạp Lan rồi. Nói xong xoay người lại, ôm chầm cô ta vào lòng.

- Cha nuôi làm sao biết là con?

- Vẫn như 15 năm trước.

Nạp Lan nhớ lại chuyện mười mấy năm trước, người bỗng nóng rực. Hòa Thân đỡ Nạp Lan dậy, ngắm nghía cô ta một hồi từ trái sang phải từ trên xuống dưới, thấy Nạp Lan so với trước béo hơn, da thịt hồng hào trắng trẻo hơn, ánh mắt sắc sảo hơn, thân hình hấp dẫn hơn cô gái mười ba mười bốn tuổi cách đây mười mấy năm. Hòa Thân nhè nhẹ ôm cô ta đến chiếc giường bên cạnh, hai người cởi tuột áo quần cho nhau. Nạp Lan thấy Hòa Thân hơi béo nhưng rắn chắc hơn, khỏe mạnh hơn. Hòa Thận thấy Nạp Lan bụng to hơn, nhưng lại hấp dẫn hơn, đường cong tuyệt mỹ. Hai người ôm chặt lấy nhau, Nạp Lan càng hăng hơn trước, thân người mềm mại mịn màng hơn trước nhiều. Xong việc Hòa Thân nói:

- Mười mấy năm trước, lúc con mới mười ba mười bốn tuổi, làm sao biết được chuyện này?

- Đó là nhờ tập tranh cung xuân (tranh khiêu dâm - ND) của cha nuôi đấy.

- Nơi cha đẻ của con không có ư?

- Con cũng đã từng lén xem nhưng không được chân thực hấp dẫn như của cha nuôi.

- Con xem tranh hay đọc sách?

- Con lén xem cuốn “Thạch đầu ký”.

- Sao con không nói với cha, để cha tìm mãi mà chẳng tìm được.

- Cha con phải mất khá nhiều tiền mới mua được, xem như là của quý. Chỉ có con mới được tự tiện vào phòng ngủ lén xem. Nếu cha nuôi cần, còn sẽ hỏi cha con mượn cuốn sách ấy về cho cha nuôi.

- Con cần hơn cha chứ... con cần thì mượn về nhưng chớ nói là cha cần.

- Rõ rồi. Nạp Lan đáp.

- Chồng con có thỏa mãn con không?

Nạp Lan cười. Hòa Thân nói tiếp:

- Trông con rất mãn nguyện, sau khi lấy chồng con quên cả cha nuôi, chẳng về lấy một lần nào cả?

- Con lúc nào cũng nhớ đến cha nuôi, nhưng vì chẳng bao lâu con có thai, rồi sinh con, không về thăm cha nuôi được, con nhớ cha nuôi lắm chứ! Thế là Nạp Lan siết mạnh Hòa Thân hôn lấy hôn để cả người Hòa Thân từ trên xuống dưới.

Trong số thê thiếp của Hòa Thân, chỉ có hai người đẹp nhất là Ma-li và Đậu Khấu, một người là gái đẹp phương Tây, một người mỹ nữ phương Đông. Ma-li đẹp tuyệt trần nhưng chỉ thỏa mãn Hòa Thân về cảm giác xác thịt mà thôi, Đậu Khấu là người Hòa Thân nặng tình cảm và yêu nhất ngoài người vợ là Phùng Thị. Đậu Khấu nhiều tài hơn Phùng Thị. Hòa Thân tiếp nhận ở Đậu Khấu nhiều tri thức, được nàng chăm sóc, được nàng giúp đỡ cùng nàng trao đổi tình cảm tư tưởng. Đậu Khấu là hình ảnh của một phu nhân. Trong số thê thiếp là người được yêu mến nhất, sau đó là Khanh Lân. Khanh Lân vừa đẹp tuyệt thế vừa có tài kinh doanh, điểm này giống Hòa Thân, đó cũng là một loại thiên tài. Nhưng Khanh Lân kém hơn Đậu Khấu về cầm kỳ thi họa. Khanh Lân đáp ứng được yêu cầu của Hòa Thân về mặt xác thịt và tiền tài, là tay hòm chìa khóa của gia đình Hòa Thân, do đó được Hòa Thân yêu mến sau Đậu Khấu. Sau đó là Hoa Hồng đen, bước vào phủ Hòa Thân chưa được bao lâu vốn là cung nữ xuất cung, Gia Khánh buộc Hòa Thân phạm tội lớn là đã lấy Hoa Hồng đen, ghép vào trong 20 tội lớn. Đối với Hoa Hồng đen, Hòa Thân chỉ muốn được thỏa mãn nhục dục, còn chuyện tình cảm là thứ yếu.

Đối với Nạp Lan, tình cảm có phức tạp hơn, vừa yêu thương, vừa đòi hỏi nhục dục, vừa thích lãng mạn. Về quan hệ chăn gối, Hòa Thân không chút ngần ngại xổ ra tất tật những câu tục tĩu. Những câu nói đó, những động tác đó thỉnh thoảng Hòa Thân sử dụng khi nằm với Khanh Lân, nhưng với Đậu Khấu thì không bao giờ nói ra. Nạp Lan hoạt bát hơn Khanh Lân, lại tràn trề sức sống hơn.

Trông Nạp Lan bây giờ chẳng khác gì trước đây, vẫn trêu đùa cợt nhả, Hòa Thân nói:

- Con năm nay đã 30 tuổi, tính tình vẫn như trước chẳng thay đổi tí nào, trái lại càng duyên dáng đậm đà hơn.

- Người ta nói có duyên dáng đậm đà nhất là ở lứa thiếu phụ, con bây giờ là thiếu phụ rồi, cha xem con duyên dáng đậm đà ở chỗ nào.

- Cái duyên dáng đậm đà đó chỉ có thể nhìn thấy, nhưng khó nói ra.

Tối đến ăn cơm, Hòa Thân để Bảo Kỷ và Hô Thập Đồ ngồi cùng bàn với mình. Hòa Thân nói:

- Bảo Kỷ, anh phải đối xử tốt với Nạp Lan, nó là con gái nuôi của ta, nếu anh đắc tội với nó, cha không tha cho anh đâu. Nạp Lan thường khoe, anh đối xử với nó rất tốt. Hôm nay gặp anh, tôi rất mừng là anh đã đến đây.

- Nhờ ân tướng phụ yêu thương, nô tài vô cùng cảm kích. Dẫu chết cũng khó báo đền ân tình của tướng phụ.

- Lúc Doãn Tráng Đồ đi kiểm tra Trực Lệ, anh làm rất tốt, Hoàng thượng rất vui mừng, nhưng vì anh là em của người nhà ta, nên không tiện đề bạt quá nhanh. Anh yên tâm, nếu làm tốt, ta quyết không để một nhân tài như anh mai một.

Lưu Bảo Kỷ nghe những lời đó, nghĩ thầm: “Mình sắp được thăng chức rồi”, bèn nói ngay:

- Địa tô của tướng phụ, nô tài đã thu xong, sau này có gì xin bảo nô tài, cần nô tài làm gì, nô tài dù chết không từ nan.

- Việc của Thường Đan Quỳ, Nạp Lan đã nói với ta rồi, sắp tới ta sẽ tâu với Hoàng thượng, phục hồi chức cho ông ta. Phật vàng của ông ấy, ta đã nhận. Còn tiền bạc của các ngươi, hãy mang về. Anh không phải quà cáp gì đến đây, chỉ cần có tấm lòng hiếu thảo là đủ để Nạp Lan thường xuyên về thăm cha đẻ là được rồi.

Lưu Bảo Kỷ đâu dám không đồng ý, để Nạp Lan ở lại phủ Hòa Thân, còn mình thì cáo từ ra về và cũng không mang số bạc biếu Hòa Thân về.

Ngày hôm sau, Nạp Lan nói với Hòa Thân:

- Con muốn đi thăm cha đẻ của con.

- Nên đi thăm cha đẻ con, cha con vừa về kinh đấy, ta đã gặp rồi. Việc này bất tất phải nói với ta.

Nạp Lan quàng tay vào cổ Hòa Thân nói:

- Con muốn chị Khanh Lân cùng đi với con cơ.

- Ta biết hai người rất tốt với nhau, nhưng bề ngoài không được gọi chị chị em em, con là một tiểu thư, địa vị không giống Khanh Lân, nếu gọi chị, người ta cười thối ruột.

- Bề ngoài con không gọi là được rồi, dù cha nuôi có đồng ý hay không, chị ấy và con cùng đi với nhau.

- Vậy thì cùng đi, nhưng mai phải trở về, một lúc thiếu cả hai người bên cạnh, cha nuôi chịu không nổi.

Nạp Lan và Khanh Lân lên kiệu, không đến phủ Tô Lăng A, mà đến thẳng khách sạn của Lưu Bảo Kỷ ở Bắc Kinh. Khách sạn có ba cái sân, đi qua cổng là một gian nhà trệt, tiếp theo là hai dãy lầu hai bên phải trái, qua hai dãy lầu là một bức tường vây quanh, giữa tường là một cổng lớn. Qua cổng này lại nhìn thấy năm gian nhà trệt khá đẹp, chái nhà bên trái và bên phải, một làm nhà bếp, một làm buồng tắm. Kiệu được khiêng vào sân tại đây.

Khanh Lân bước xuống kiệu nhìn thấy dáng vẻ ngôi nhà sông, hồ, núi giả giữa vườn, kinh ngạc nói:

- Người ta nói “ba năm tri phủ triều Thanh, mười vạn bạc ròng có sẵn trong tay” quả không sai. Rồi hỏi Nạp Lan: - Còn có cửa hàng nào ở Bắc Kinh nữa không?

- Còn có cửa hàng cầm đồ, cửa hàng lương thực, tiệm hàng da, cửa hàng cho thuê xe.

- Nếu chị là đàn ông, chị sẽ tạo lập cơ nghiệp lớn trong thiên hạ.

- Nếu chị là đàn ông, nhất định sẽ giàu hơn Hoàng thượng và cha nuôi.

Khanh Lân có phần hối tiếc. Hai người đang chuyện trò, Lưu Bảo Kỷ từ trong nhà bước ra, nhìn thấy Khanh Lân đã vội vàng quỳ xuống khấu đầu. Khanh Lân nói:

- Sao lại lễ nghi như thế này. Rồi bảo Lưu Bảo Kỷ đứng dậy.

Lưu Bảo Kỷ đứng khuất sau Nạp Lan, ngơ ngác. Khanh Lân nhìn Lưu Bảo Kỷ đã hết sức hài lòng, thấy tướng mạo anh tuấn, người cao lớn, khỏe mạnh, đoán chừng anh ta khá sung sức đây. Nạp Lan cười to, nói:

- Vừa nhìn thấy đã ăn ý nhau rồi. Vừa nói vừa béo tai hai người lôi vào phòng tắm ở phía đông, nói tiếp:- Tôi đi đây hai người cứ thoải mái.

Vừa quay người đi, Lưu Bảo Kỷ vội chạy theo nói:

- Nếu tướng phụ biết được, ta mất mạng như chơi!

- Chàng trước nay gan to bằng trời, việc gì cũng dám làm, nay lại sợ tướng phụ. Thiếp nói thật nhé, nếu chàng trổ hết tài, làm cho dì khoái, sang năm chàng sẽ được làm tuần phủ. Và dù không làm được tuần phủ, cơ nghiệp của chàng cũng sẽ phất lên.

Lưu Bảo Kỷ vẫn đứng yên bất động. Nạp Lan lôi chàng vào buồng tắm, Khanh Lân mình trần như nhộng. Thấy Lưu Bảo Kỷ vẫn ngơ ngơ ngác ngác, Nạp Lan bèn tuột cả áo quần chàng, Lưu Bảo Kỷ không nhúc nhích, Nạp Lan hét:

- Đàn ông như chàng, không thể làm tri phủ được nữa.

- Em cứ đi đi, chị có cách. Khanh Lân cười.

- Em ở lại dây có trở ngại cho hai người không?

- Em ở đây, chị chẳng có cách nào. Nói xong Khanh Lân đẩy Nạp Lan ra ngoài.

Nạp Lan đứng ngoài cửa nghe trộm. Quả nhiên một lát sau, từ trong buồng vọng ra tiếng động quen thuộc của Lưu Bảo Kỷ, Nạp Lan nói nhỏ:

- Thế là nhà ta phát rồi.

Mãi đến trưa hôm sau cả ba người mới đến phủ Tô Lăng A. Tô Lăng A nghe con gái và chàng rể đến, vô cùng mừng rỡ, lại có cả Khanh Lân nữa, càng phấn khởi mười phần. Tô Lăng A biết quá rõ Hô Thập Đồ và Khanh Lân là nội quản gia của Hòa Thân, được Hòa Thân sủng ái.

Ăn trưa xong, trong nhà chỉ còn có Tô Lăng A và Nạp Lan. Tô Lăng A nói:

- Cha có một việc định nhờ tướng phụ nhưng chưa nói với tướng phụ, nay nhân con đến đây, giúp cha nói lại với tướng phụ thì tốt nhất.

- Việc gì vậy?

- Cha muốn về kinh.

- Cha đã làm tổng đốc Lưỡng Giang, coi như cai quản một nửa thiên hạ. Hoàng thượng ở Bắc Kinh, cha ở Nam Kinh, sao lại muốn về Bắc Kinh.

- Cha tuổi cao, không thích làm chức tổng đốc nơi đó, hơn nữa quan càng to càng tốt, cha muốn làm quan lớn hơn cơ.

- Còn có bao nhiêu chức quan lớn, cha chẳng thể làm quan cao hơn cha nuôi.

- Vậy thì dưới cha nuôi của con. Con hãy nới với cha nuôi của con, cha đã chuẩn bị cho con 20 vạn lạng bạc, con là con gái nuôi, cũng nên kiếu kính cha nuôi.

- Cuốn “Thạch đầu ký” của cha, có thể cho con mượn xem được không?

- Con biết cha có sách ấy lúc nào?

- Cha không cần phải hỏi, chỉ cho con mượn sách ấy là được.

- Để cho ai xem?

- Sao lại hỏi nhiều thế?

Cuối cùng Tô Lăng A cũng hiểu ra, nghĩ ngay đến một người, tí nữa thì buột mồm nói ra, trêu cô con gái và nói:

- Cha và con cùng đi lấy.

Một lát sau, Tô Lăng A cầm cuốn “Thạch đầu ký” ra, nói:

- Lúc cha uống sữa, đánh rơi mấy giọt lên sách, bị chuột gặm mất nhiều, bây giờ chỉ cần sửa lại chút ít.

Trưa hôm đó, Nạp Lan và Khanh Lân trở về phủ Hòa Thân. Hòa Thân cũng từ trong triều trở về. Khanh Lân biết ý, vội mời Hòa Thân đi xem sổ sách, Nạp Lan cũng đi theo, vừa đến gian phòng để sổ sách của Khanh Lân. Khanh Lân bỏ ra ngoài.

- Sách đã mang về chưa? Hòa Thân hỏi.

- Có đây. Nạp Lan đáp và rút sách ra từ bụng áo.

Hòa Thân vội giật, như vớ được của quý, vội lật xem mấy trang.

- Hay, hay! Rồi xoay người lại ôm chầm Nạp Lan, nói tiếp:- Con quả là con gái cưng của cha. Hòa Thân và Nạp Lan tưởng chừng như ba năm xa nhau giờ mới lại gặp nhau, vội vàng cởi áo tuột quần. Xong việc,. Nạp Lan mới nói đến chuyện Tô Lăng A không còn muốn làm tổng đốc Lưỡng Giang. Hòa Thân xoa xoa bóp bóp đôi vú căng phồng của Nạp Lan và nói:

- Chuyện này quan trọng phải từ từ.

Nạp Lan ra khỏi phòng để sổ sách, Khanh Lân lại bước vào phòng nói:

- Hôm nay Nạp Lan mang đến 20 vạn lạng, hôm nọ đã mang đến 5.000 lạng, các nơi khác đưa đến, cộng cả thảy là 1 triệu 3 vạn lạng. Số bạc này cất trong nhà không tung ra ngoài, không biết tướng phụ định như thế nào.

- Ta cũng phát rầu đây. Số bạc đó chất đống trong nhà thật không hay. Báo với các tiệm bạc hạ giá một ít. Đợi khi thu lợi tức hãy bảo Mã Bát Thập Tam nghĩ cách.

- Như vậy vẫn còn lại một ít bạc, chi bằng đem số bạc ấy đổi thành vàng, xây một gian nhà để thiếp ở đấy.

- Nàng muốn sống chung với vàng ư.

Hòa Thân lệnh cho xây một gian nhà chắc chắn, cất dấu vàng và những vật quý trong đó.

Lưu Bảo Kỷ trở về nhiệm sở, càng mặc sức tác oai tác quái, chẳng ai dám trái ý. Hắn là em của nội quản gia Hòa Thân, và là con rể của tổng đốc Tô Lăng A và là chồng của cô con gái nuôi của Hòa Thân. Do vậy, quan trên của hắn muốn làm gì cũng phải nể mặt hắn, quan to quan nhỏ đều nịnh bợ hắn. Quan nhỏ hơn hắn mong tìm được bát cơm thừa cạnh cặn của hắn, quan to hơn hắn muốn thông qua hắn làm quen với Hô Thập Đồ, để qua đó gửi lễ vật đến tay Hòa Thân. Nhờ vậy, tiền bạc của Lưu Bảo Kỷ ngày càng nhiều, và cuối cùng lập ra một tiệm bạc ở kinh thành.

Cũng như Nạp Lan tính toán, từ sau lúc mây mưa suốt một ngày một đêm với Khanh Lân, công việc kinh doanh ngày một thịnh vượng, có thể nói tiền bạc cuồn cuộn đổ về. Thỉnh thoảng Khanh Lân qua Hô Thập Đồ tiết lộ nhiều tin tức cho Lưu Bảo Kỷ. Hô Thập Đồ cũng giúp quản lý các cửa hiệu của mấy cậu em ở Bắc Kinh.

Thế nhưng, Lưu Bảo Kỷ lòng vẫn không thấy vui. Sau khi về nhiệm sở, tối đó ở lại phòng của người thiếp là Thôi Thị. Hắn cởi áo quần của Thôi Thị ra, dù Thôi Thị tự cởi lấy, nhưng hắn không cho, hắn xé nát áo quần Thôi Thị, rờ mó nén bóp đôi vú và phần dưới thân thể của Thôi Thị, đến nỗi máu bật chảy ra. Thôi Thị hoảng sợ rên la thảm thiết trong đêm tối. Thôi Thị vốn là em của Thôi Đồng cùng người chị dâu và đứa cháu bị bán đến đây, thực ra là Thường Đan Quỳ tặng cho Lưu Bảo Kỷ. Nghe tiếng rên la của cô em, vợ của Thôi Đồng chạy đến cửa phòng Thôi Thị, đẩy cửa ra, nhìn thấy Bảo Kỷ dáng vẻ hung tợn, mặt đỏ bừng, ánh mắt gian ác, như tên điên đang dày vò Thôi Thị. Vợ Thôi Đồng bước đến kéo Lưu Bảo Kỷ ra. Thấy người chị dâu của Thôi Thị đến, Lưu Bảo Kỷ cất lên tiếng cười ghê rợn, tóm lấy cô ta và xé nát quần áo, sau đó vứt cô ta lên giường cùng với Thôi Thị, rồi tha hồ cưỡng hiếp. Hắn hét to: “Mày là Nạp Lan, phải đánh con đĩ cái, phải đánh con yêu tinh..”. Hắn tưởng Thôi Thị là Nạp Lan. Hắn lại chồm sang Thôi phu nhân hét to: “Mày là Khanh Lân, mày là vợ bé của Hòa Thân, ta sẽ chơi cho ngươi chết... hỡi Hòa Thân... ta phải dày vò mụ vợ bé của mày... ha ha.”.. Một lát sau hắn gục xuống giường khóc nức nở. Ông anh cả Hô Thập Đồ đã bị thiến, còn anh hai, anh ba và ta thì sao đây? Có bị người ta thiến không? Giờ ta là một trai lơ đĩ đực... vừa nghĩ vừa khóc, rồi thiếp đi lúc nào không biết.

Hai chị em Thôi Thị khóc hết nước mắt, nghiến răng chịu đựng, sống là vì đứa con của Thôi Đồng.

Từ đó về sau, khi hắn xét xử các vụ án có đàn bà con gái, thì hắn đều cho họ phạm tội gian dâm. Hắn chế ra một loại gông vừa dày vừa nặng, đẽo một chiếc gậy gỗ táo, hễ thấy nữ phạm nhân là gông lại, lấy gậy vụt nát phần dưới thân thể nữ phạm nhân đến khi chảy máu bưng mủ. Hắn luôn mồm nói câu: “Xem mày còn lôi kéo bọn đàn ông nữa không?”.

Có một lần hắn dẫn bọn nha dịch đến kiểm tra một nhà thổ, tóm hết khách làng chơi lại, đánh nát phần dưới thân thể các cô gái điếm, lấy máu đó bôi lên mặt khách làng chơi và nói: “Xem các ngươi từ nay về sau còn chơi đĩ nữa không?”.

Phủ Trực Lệ có một vị học chính vừa mới đến. Vị đại nhân này là Ngô Tỉnh Khâm lừng danh. Nhận chức học chính, gặp kỳ thi hương, ông không đến nhiệm sở, mà đến người thầy là Hòa Thân trước.

Hòa Thân rất hài lòng về hai môn sinh của mình là Ngô Tỉnh Khâm và Ngô Tỉnh Lan. Họ nghe thấy gì đều mật báo cho Hòa Thân, họ lại có học vấn đầy bụng. Học vấn của hai anh em họ, cả trong ngoài triều và đàn bà trẻ con đều biết, bởi vì làm việc gì cũng đều có thủ đoạn, đều có kiến giải cao sâu, sử dụng hai anh em họ, dư luận thị phi trong triều đều giảm bớt, nếu có ai chống đối lại cũng dễ bắt bẻ họ.

Ngô Tỉnh Khâm mang đến mấy con cá chiêng, bốn cân đông trùng hạ thảo, 40 cặp tắc kè trống mái, hai bình rượu Nữ nhi hồng Thiệu Hưng, là những thứ Hòa Thân rất thích, cũng là những thứ Hòa Thân thường dâng lên cụ Càn Long, biếu đúng lúc, tiền không cần phải nhiều lắm. Ngô Tỉnh Khâm nói:

- Nhờ sự yêu thương của thầy, đệ tử được nhận chức học chính, đệ tử đến đây cám ơn thầy.

- Tài như anh, xứng đáng làm cao hơn. Cách thi cử năm nay đã định, anh hãy đi nhậm chức ngay.

- Học trò đang trên đường đi nhậm chức nhưng đến thầy trước để xin vài lời chỉ bảo.

- Trong thi cử còn có nhược điểm, nhìn vào quyển thi chỉ thấy tài mà không thấy đức. Nhân tài phải đức tài toàn vẹn, đức quan trọng nhất. “Đức” là gì? Đức là hết lòng trung thành với Hoàng thượng. Tấm lòng sắt son đó không thể có ở trường thi, chỉ có khảo sát và khảo nghiệm qua hành động cụ thể. Trước hết anh nên chú trọng khảo sát cái “đức” của nhân tài, giống như ta khảo sát các quan lại trong thiên hạ..

Ngô Tỉnh Khâm vâng lệnh ra đi.

Trước tiên Ngô Tỉnh Khâm khảo sát “lòng trung” của thí sinh. Người đầu tiên đến gặp Ngô Tỉnh Khâm là một cậu khoá tài ba, anh ta đọc rất nhiều sách vở, thơ từ ca phú đều thông. Ngô Tỉnh Khâm tỏ ra đặc biệt thân thiết với cậu khoá này, đợi cậu khoá ngẩng đầu lên, Ngô Tỉnh Khâm vội vàng kéo cậu khoá dậy.

- Ta và anh là thầy trò, không phải người ngoài, ngồi, ngồi.

- Học trò đọc hết sách trong thiên hạ, lẽ nào không biết sự tôn nghiêm của đạo thầy trò, lẽ nào không biết lễ giáo tôn sư trọng đạo. Học trò đâu dám ngồi trước mặt thầy.

Ngô Tỉnh Khâm thấy anh ra tôn kính mình như vậy, trong lòng đã có phần khen ngợi nên nói:

- Bình thường anh thích nhất sách gì?

- Ngoài “Tứ thư” “Ngũ kinh” học trò thích nhất “Lời thoại Kim Bình Mai”, đó là cuốn sách hay, sau đó là...

- Anh là một học trò, sao lại đọc loại sách ấy?

- Thưa ngài, học trò xin ngài cho biết, học vấn không sử dụng được có phải là học vấn thật sự không, sách không thực dụng có phải là sách hay hay không?

- Đương nhiên.

- Vậy thì, lời của Liễu Vĩnh trong Ôn Đình Quân rất có ích, lời của Tân Khí Tật thật vô dụng, “Từ thoại Kim Bình Mai” cũng vậy, đọc qua là có thể sử dụng, không thế, học trò làm sao có thể in ấn được nhiều thơ từ? Đàn bà con gái ở Trực Lệ này làm sao biết tên tuổi của học trò?

- Anh hãy nói xem, anh đã in ấn những thơ từ gì?

- Mọi người đều nhìn thấy trên tường vách ở tiệm ăn quán trà khắp hang cùng ngõ hẻm đường phố. Đặc biệt là chim oanh, chim yến sùng hái học trò đến nỗi thấy học trò phải cúi rạp đầu chào đấy?

Ngô Tỉnh Khâm thấy cậu khoá ba hoa khoác lác, trong lòng có phần thất vọng, chán ngấy, bèn nói:

- Học vấn của anh, tài của anh chỉ có thế thôi ư?

- Đức thánh Khổng Tử khi thu nhận đồ đệ còn nhận thịt, gạo huống hồ học trò đến bái thầy lại đi tay không.

Nói xong rút ra từ trong tay áo một hộp vàng thỏi (thỏi vàng nặng 5 -10 lạng -ND) đặt lên chiếc bàn trước mặt Ngô Tỉnh Khâm và nói: - Đây là chút lễ mọn của đệ tử bái kiến thầy, nếu thầy chịu thu nhận đệ tử, đệ tử đâu dám quên hiếu kính thầy? Thầy nhận, đệ tử xin quyết chí báo đền ơn nước, tận tâm tận sức. Nói xong quỳ gục xuống đất không chịu ngẩng đầu đứng dậy, đến nỗi Ngô Tỉnh Khâm phải kéo dậy:

- Ta nhận anh làm đồ đệ. Và nghĩ bụng: “mình nhận hắn làm đồ đệ thứ nhất, thỏi vàng kia không phải nhỏ”.

Cậu khoá nghe ông ta nói vậy vội đứng dậy, cười:

- Thưa thầy, vừa rồi học trò nói chim oanh, chim yến, học trò thấy thầy chau mày. Thầy làm quan trong kinh ít khi ra ngoài, nên không biết cái hay của chim oanh chim yến. Cậu khoá vội bước đến trước Ngô Tỉnh Khâm, mặt mày tươi cười như hoa hướng dương chúm nở, nói tiếp: - Trong thiên hạ, người được người ta nhìn, được người ta nghe nhất là đào hát, từ nhỏ đào hát đã uốn éo múa may làm bộ làm điệu, không những trên sân khấu mà cả ở hậu trường lúc nào cũng giả vờ dáng vẻ phong lưu, còn sư phụ của đào hát từ nhỏ đã dạy cho họ lời ca tiếng hát, liếc mắt chau mày, cho nên bất cứ ở đâu cũng hớp hết hồn phách của người ta. Chim oanh chim yến là thứ trong con người của đào hát. Nói xong, cậu khoá đặt ngón tay cái lên mũi Ngô Tỉnh Khâm. Ngô Tỉnh Khâm như mất hồn, chỉ còn nghe cậu khoá nói: - Đợi xong khoa thi, học trò sẽ dẫn đại nhân đi thưởng thức, đào hát nọ nhất định sẽ yêu mến đại nhân đến quên ăn quên ngủ, nghĩ đến tài học của thần, tài thơ phú của thầy, không biết, học trò này thấp kém hơn thầy biết bao nhiêu lần, học trò như trâu bò, thầy như đoá hoa.

Trong lúc câu chuyện của hai người dần dần ăn ý với nhau, tình cảm dần dần xích gần lại nhau, một cậu khoá khác bước vào, bình tĩnh chờ cậu kia ngẩng đầu lên, cả hai đều nhận ra nhau, cùng nói:

- Cậu đấy à!

Cậu khoá mới đến nói:

- Ái dà, cậu Ngô đã đến trước tôi rồi.

- Ngô Lương Tân! không ngờ bạn cũng đến bái kiến thầy, tôi thật chẳng hiểu gì cả, bạn đang buôn bán cơ mà?

Ngô Lương Tân phớt lờ, cứ bước đến chào Ngô Tỉnh Khâm. Ngô Tỉnh Khâm mời hai người ngồi, cả hai đều không ngồi. Lúc này Ngô Tỉnh Khâm mới sực nhớ chưa hỏi đến tên tuổi cả hai cậu khoá, bây giờ mới hỏi, biết được hai người là người giàu có nổi tiếng ở Trực Lệ, người này là Ngô Lương Tài, người kia là Ngô Lương Tân.

Ngô Lương Tân nhìn thỏi vàng trên bàn, nói:

- Đây là của bạn ra mắt thầy ư, quá bủn xỉn, thầy là nhà học vấn lớn nổi tiếng trong thiên hạ, tiếng tăm lừng lẫy cầu xin đại nhân làm thầy, sao lại sơ suất thế này. Nói xong Ngô Lương Tân quỳ xuống nói: - Thầy nổi tiếng trong thiên hạ, e rằng không chịu nhận học trò này làm đệ tử nhưng học trò này quả thực sùng bái phong cách và tài ba của thầy, xin có chút lễ đạm bạc ra mắt thầy, nếu thầy cho học trò này tư chất ngu đần, không thể làm học trò của thầy, học trò này cũng không trách. Nhưng tấm lòng này vẫn sùng bái... học trò này cũng không nói được gì nhiều hơn, đôi lúc nghĩ rằng, chỉ được nhìn thấy thầy, dù có chết cũng cam, giờ đây đã gặp thầy, đệ tử ngu đần không biết lấy gì bày tỏ nỗi lòng.

Nói xong nâng cao lễ vật lên ngang đầu. Chú tiểu đồng đứng bên cạnh đón nhận. Ngô Tỉnh Khâm liếc mắt nhìn thấy một vạn lạng bạc trắng, bèn nói:

- Ta nhận anh làm đệ tử.

Ngô Lương Tân vội vàng khấu đầu tạ ân, đứng dậy nói:

- Ba người chúng ta vốn là một nhà, giờ đây càng thân ái nhau hơn.

- Xem gia phả, thầy là bậc cha chú của chúng tôi. Ngô Lương Tài nói

- Là cha chúng ta mới đúng. Ngô Lương Tân nói.

Ngô Tỉnh Khâm mừng quá, há hốc mồm ra nói:

- Đợi đến khi cuộc thi hương kết thúc, chúng ta lại nói chuyện.

Cả hai Lương Tài, Lương Tân vội vàng quỳ xuống nói:

- Sau cuộc thi hương, xin mời thầy đến nhà thăm chơi cho biết. Chúng ta vốn là một nhà, lẽ nào các cụ không đến nhà con cháu, lẽ nào con cháu không biết hiếu kính các cụ.

- Hoàng thượng trị vì thiên hạ, thường nói đến chữ “hiếu” nhắc đến chữ “hiếu”, hai ngươi đã có tấm lòng hiếu như vậy, đúng là nhân tài của đất nước. Vừa nói, Ngô Tỉnh Khâm vừa nghĩ bụng, Ngô Lương Tân phải là số một, Ngô Lương Tài là số hai. Đúng là:

“Tà gian kết bạn nhìn tiền bạc.

Tiền bạc không nhiều tình bạn nhạt.

Lời hứa cần chi phải giữ gìn.

Chẳng qua cũng chỉ khách qua đường”.

Ngô Tỉnh Khâm ở phủ Trực Lệ tham lam quá xá, lợi dụng chức vụ học chính công khai làm rối kỷ cương phép nước, nhận của hối lộ, chẳng coi pháp luật ra gì. Ông ta có tài nhớ kỹ tiền bạc biếu xén bao nhiêu thì ra ân bấy nhiêu.

Ngày yết bảng, Ngô Lương Tân đậu thứ hai, Ngô Lương Tài đậu thứ ba. Bởi vì, người đậu thứ nhất do Hoà Thân giới thiệu.

Ngô Tỉnh Khâm tuyển chọn ba loại người sau đây:

Một, người có thư riêng, phần lớn là của quan trên của Ngô Tỉnh Khâm. Cũng có người là bạn bè đồng sự, thư Ngô Tỉnh Khâm nhận rồi vứt đi. Thư của quan trên thì nhét vào bụng áo và có phân biệt đối xử, quan trên nào có thực quyền, quan trên nào có chức không quyền, quan trên nào có quyền mà ông không lợi dụng được. Nhưng thư riêng của Hoà Thân, Ngô Tỉnh Khâm coi như “thánh chỉ”, còn hơn “thánh chỉ”. Đương nhiên người Hoà Thân giới thiệu phải là số một.

Hai, những ai biếu xén tiền bạc. Ai đưa tiền, lễ vật đến là “trung” là có “đức”, trong thi cử tuyển chọn, “đức” là quan trọng nhất. Không lấy tiền bạc để đánh giá đức hạnh của thí sinh thì dựa vào đâu? Dựa vào lời nói cửa miệng để đánh giá lòng trung của họ đối với Đại Thanh ư?

Ba, người có tài. Loại người này, “đức” vẫn là quan trọng nhất, phải thể hiện được cái “đức” ở mọi nơi để lấy đó làm tiêu chuẩn.

Đáng thương cho những anh khoá nghèo, mười năm đèn sách, dùi mài kinh sử, mong mỏi được ghi tên trên bảng vàng. Nào ngờ bảng vàng toàn ghi tên những người giàu có còn mình thì dù có học vấn cũng cứ trượt dài. Chẳng biết cậu khoá nào, tức quá, viết một câu đối dán trước cổng trường thi.

Thiêú mục yên năng thức văn định.

Khiếm kim an khả vọng công danh.

Phía dưới thêm mấy chữ.

Khẩu đại khi thiên.

Câu một, hai chữ “thiếu mục” (không có mắt - ND) hợp thành chữ “tỉnh”; câu hai, hai chữ “khiếm kim” (thiếu vàng - ND) hợp thành chữ “khâm”; bốn chữ của hai câu trên hợp thành hai chữ “Tỉnh Khâm”; câu ba, hai chữ “khẩu thiên” hợp thành chữ “ngô”. Câu đối thứ nhất hỏi Ngô Tỉnh Khâm có đọc được chữ hay không, chửi ông ta có mắt như mù; câu đối thứ hai mắng ông ta chỉ biết nhận tiền, có tiền thì cho đậu, khoá sinh nghèo thì cho trượt; câu thứ ba cho thêm là nói ông ta tham lam, mồm (“khẩu) to như trời nuốt không biết bao nhiêu tiền của, chữ “thiên” (trời) ở đây có hai ý: mắng Ngô Tỉnh Khâm coi thường vương pháp, khi quân dối chúa, phá rối kỷ cương thi cử, gan to hơn trời.

Chiều hôm đó, Ngô Tỉnh Khâm lại đến trường thi chủ trì diện thi, nhìn thấy trước cổng trường thi, người đông xúm xít. Đại nhân học chính đến gần xem, tức bầm gan tím mặt, vội cho người xé ngay. Đang lúc bực túc lại nghe có tiếng lanh lảnh: “Hay! Hay! Câu đối đó hay thật?”

Mọi người đều biết là chửi Ngô Tỉnh Khâm, nhưng chẳng dám bàn tán, khi Ngô Tỉnh Khâm đến, tất cả đều im lặng, chỉ nghe tiếng hò hét của đại nhân, tất cả đều nghĩ thầm: “Ai cả gan thế này nhỉ?” quay đầu lại nhìn xem là ai, mọi người đều nghĩ ra và đưa ngón tay cái lên, người đó không ai khác là Lý Điều Nguyên.

Lý Điều Nguyên, tự là Canh Đường, hiệu là Vũ Thôn, người Cẩm Châu, tiến sĩ đời Càn Long, thứ cát sĩ Viện hàn lâm, kiêm ngoại lang khao công viên, làm học công Quảng Đông, lúc này đang phụ trách đường thuỷ ở Trực Lệ.

Những người có mặt tại đấy kể cả Ngô Tỉnh Khâm đều biết Lý Điều Nguyên là một nhân tài của triều đình lại là một người cương trực.

Lý Điều Nguyên từ nhỏ đã thông minh. Mùa hè năm ấy Điều Nguyên cùng mấy bạn nhỏ trèo lên cây dâu hái quả ăn, làm gãy nhiều cành cây. Thầy giáo thấy cành gãy lá rụng đầy vườn, tức giận, phạt Điều Nguyên đối một câu đối như sau:

“Tằm làm kén, kén cho tơ, dệt thành lĩnh là lụa đoạn ấm người đời”.

Câu đối trên có ý chê trách Điều Nguyên chà đạp cây cối không biết giá trị cây dâu. Điều Nguyên hiểu ý đối ngay.

“Thỏ mọc lông, lông làm bút, viết nên văn chương cẩm tú truyền thiên hạ”.

Ý câu này là nên quý trọng đồ vật. Nghe xong, thầy giáo hết giận, và nghĩ rằng, cậu này số mạng rất cao, cần phải được quản lý giáo dục, nên ra câu đối:

“Tứ khẩu đồng đồ, nội khẩu đô thuộc ngoại khẩu quản” (bốn chữ “khẩu” hợp thành chữ “đồ”, ba chữ “khẩu bên trong do chữ “khẩu”- bên ngoài quản - ND).

Ngụ ý là học trò phải nghe lời dạy và sự quản lý của thầy.

Lý Điều Nguyên đối ngay.

“Ngũ nhân cộng tán, tiểu nhân toàn hạo đại nhân già”. (năm người cùng một chiếc ô, người nhỏ đều nhờ người lớn che. Chữ tán là cái ô gồm năm chữ nhân hợp lại -ND).

Câu đối thật chỉnh khiến thấy giáo phải nể.

Từ đó, tên của Lý Điều Nguyên vang xa. Trên đường đi đến Quảng Đông làm học chính, ông đi qua Hồ Nam. Tuần phủ Hồ Nam từ lâu nghe tiếng Lý Điều Nguyên, do đó mời các văn nhân mặc khách Hồ Nam đến, mở tiệc chiêu đãi Lý Điều Nguyên bên hờ hồ Động Đình, để nhân đấy được tận mắt nhìn thầy tài văn chương. Mọi người quây quần trong chiếc đình bên hồ, vừa uống rượu vừa ngắm nhìn cảnh đẹp, thoải mái dễ chịu. Một người đứng dậy nói:

- Từ lâu được nghe đại nhân học chính tài học hơn người, thơ văn xuất chúng, hôm nay được gặp, thật vô cùng hân hạnh, tôi có một câu đối có liên quan đến hồ Động Đình, nhưng nghĩ mãi chẳng ra câu đối thứ hai, xin ngài chỉ giáo. Câu đối thế này:

“Hồ Động Đình, tám trăm dặm, sóng cuồn cuộn, nước mênh mông, ngài từ đâu đến”.

Lý Điều Nguyên uống cốc rượu, ngẫm nghĩ rồi đáp:

“Dãy Vu Sơn, mười hai ngọn, cây xanh tươi, khói mịt mù, ta trên trời xuống”.

Mọi người nghe thấy câu đối rất chỉnh, lại một người khác chắp tay ra câu đối:

“Tứ duy la, tịch tịch đa, La Hán thỉnh Quan âm, khách thiểu chủ nhân đa”. (Đây là cách chơi chữ theo kiểu Trung Quốc. Chữ “la” thứ nhất là tấm lưới, chữ La thứ hai là La Hán tên một vị phật, tịch tịch đa”, hai chữ “tịch” ghép lại thành chữ “đa” là nhiều. Tạm dịch: lưới giăng bốn bề, hai chữ tịch thành chữ đa, La Hán thỉnh câu Quan âm, khách thì ít mà chủ thì nhiều - ND)

Lý Điều Nguyên nghĩ rằng, câu đối theo lối chiết tự là có ý châm chọc mỉa mai, nhưng vẫn đối ngay:

“Cung trường trương, chỉ chỉ song; Trương Sanh hí Hồng Nương, nam đơn nữ thành song”. (Chữ “trương” thứ nhất là giương; chữ trương thứ hai là họ Trương; chỉ chỉ song” là hai cái lẻ cộng thành đôi - Tạm dịch: Cung dài giương lên, hai cái lẻ thành một đôi, Trương Sanh đùa với Hồng Nương, nam thêm nữ thành đôi - ND)

Lại một người khác nói:

“Lý đả lý, lý đáo phủ, lý trầm lý phù”. (Chữ “Lý” đầu là họ lý, chữ “Lý” thứ hai là con cá chép, Tạm dịch: ông lý bắt cá, mang cá về nhà, ông Lý đi đâu, cá thì nằm đó - ND).

Lý Điều Nguyên đối ngay:

“Phong suý phong, phong phốc địa, phong tức phong phỉ”. (Chữ “phong” đầu là gió, chữ “phong” thứ hai là con ong. Tạm dịch: Gió thổi con ong, ong nhào xuống đất, bao giờ gió ngừng, ong lại bay lên - ND).

Mọi người quay đầu nhìn Lý Điều Nguyên, thầm khen ngợi, Ngô Tỉnh Khâm căm tức nhưng chẳng dám làm gì, nghĩ bụng: “Có ngày ta sẽ tính sổ với nhà ngươi”.

Lúc này câu đối đã được bóc đi, Ngô Tỉnh Khâm lệnh giải tán đám người xúm xít tại đó, rồi bước đi.

Tối hôm ấy, nỗi sầu trong dạ của Ngô Tỉnh Khâm được ngọn gió tươi mát quét sạch. Ngô Lương Tân mời ông đến nhà, gia đình thật sung túc, bước qua ba cái sân, phía sau là một vườn hoa, thấp thoáng mấy cái đình đài mấy dãy nhà gác. Ngô Tỉnh Khâm nghĩ: vô thương bất phú, vô thương bất phú. Hắn giàu thế này, còn muốn có quyền nữa cơ.

Các trai tráng trong nhà Ngô Lương Tân đều bước ra quỳ đón, Ngô Lương Tài cũng có mặt ở đấy. Ngô Lương Tân nói: “Thầy đến, vinh dự cho cả nhà học trò, đem niềm vui bất tận cho gia đình, chẳng khác nào thiên thần đến nhà học trò”. Ngô Tỉnh Khâm thấy tiếp đón như vậy, rất chi thoả mãn.

Tối đó, khi rượu ngà ngà say, Ngô Lương Tân đuổi các nữ tỳ của mình đi. Ngô Tỉnh Khâm có phần không vừa ý, có gái đẹp bên cạnh hầu hạ mới là đón tiếp chu đáo ân cần, sao lại đuổi tất cả nữ tỳ đi, nhưng không tiện nói ra. Đang nghĩ vậy, bỗng nhìn thấy từ trong cửa bước ra mấy cô gái, đẹp hơn nhiều các cô vừa rồi, Ngô Tỉnh Khâm mừng rơn. Mấy cô gái lại gần Ngô Tỉnh Khâm, tiếp tục chuốc rượu mời ông, và ngồi xuống bên cạnh tay ôm đàn, hoặc trống. Ngô Tỉnh Khâm mơ mơ màng màng, lại thấy hai cô nữa từ cửa bước ra trông tuyệt thế giai nhân, hoa nhường nguyệt thẹn, cá lặn chim sa, dáng vẻ thật là dễ thương. Nhà Ngô Tỉnh Khâm cũng có mấy nữ tỳ, nhưng nếu đem so sánh, thì chỉ là quạ so với phượng hoàng.

Hai cô gái vừa đứng lại, tiếng đàn tiếng trống vang lên. Nhìn hàm răng như ngọc lộ ra sau đôi môi son, tư thế dịu dàng, ánh mắt long lanh nghe tiếng hát như oanh hót véo von. Ngô Tỉnh Khâm sực nhớ câu thơ của Nguyên Triều Cát:

“Tay nâng dải lụa trùm đầu,

Ngày xuân ca hát mối sầu chẳng vơi.

Lầu hoa vọng lại lời ca,

Tiếng oanh buổi sáng mê say lòng người”.

Hát xong mấy khúc, uống thật say sưa. Ngô Lương Tân nói:

- Thầy thấy con oanh con yến đó đáng yêu không?

- Thật đáng yêu, trước nay ta chưa thấy cô gái nào đẹp thế này. Ngô Tỉnh Khâm đáp.

Ngô Lương Tài, Ngô Lương Tân bỗng cười vang:

- Thầy thật tài, tài hơn Tào Thực, học vấn uyên bác, uyên bác hơn Đức thánh, mà sao nhầm lẫn như vậy, đây là hai chàng trai cơ mà.

Ngô Tỉnh Khâm, mặt đỏ gay, kinh ngạc, nhìn hai kép hát cặp vú lồ lộ, eo lưng quyến rũ, mắt tựa sóng mùa thu, sao lại là con trai. Định mở mồm hỏi, nhưng lại nghĩ: không nên để người ta cười mình kém tài thiếu hiểu biết, nên nói:

- Thầy nghi là con trai, nhưng không dám khẳng định, nên mới nói vậy, nói là con trai, đúng như thầy nghi ngờ, nhưng vì, thầy thấy nhiều đào kép kém xa hai người này.

- Sao thầy không làm một bài thơ, để học trò này học tập đôi điều. Ngô Lương Tài nói.

- Vậy lấy hai người làm đề. Ngô Tỉnh Khâm đọc:

Lời ca uyển chuyển vượt cầu đông,

Oanh yến hát ca xuân thắm nồng.

Cành liễu đung đưa nghênh buổi sáng,

Nép dưới đài hoa tránh gió nồm.

Lời hát êm tai vọng tận nhà,

Trước bàn múa hát tỏ lòng này.

Non xanh nước biếc vô cùng tận,

Rốt cuộc người yêu đến với nàng.

Ngô Lương Tân, Ngô Lương Tài đồng thanh tán dương:

- Thầy làm được, chứ học trò này xin chịu.

Các anh quá khiêm tốn, hãy đọc thầy nghe.

- Học trò xin mạn phép đọc một bài. Ngô Lương Tài đọc.

Một đoá ngân hoa tựa tuyết rơi,

Trời xanh trăng sáng mây lững lờ.

Cành liễu đu đưa cơn gió thổi

Giọt sương tí tách cánh hoa mơ.

- Đúng là có tài. Ngô Tỉnh Khâm nói.

- Học trò phải làm bài hay hơn, để thầy xem, học trò là người đậu thứ hai, phải hơn người đậu thứ ba. Nói xong, Ngô Lương Tân đọc:

Hai vị giai nhân khéo ngụy trang,

Động phòng đêm ấy đổi tân lang.

Cánh tay ngà ngọc ngàn người gối,

Đôi môi son đỏ vạn khách hôn.

Tha thướt lả lơi làm ra vẻ,

Hoá trang của giả tưởng thật nhầm.

Đón đưa đưa đón biết bao người,

Suối ngọc tràn đầy nước hoa thơm.

- Có thầy ở đây không được vô lễ. Ngô Lương Tài nói.

- Thơ anh không bằng thơ tôi, anh không nên ghen tị, bài thơ này hay hơn bài thơ chua lòm lòm của anh. Ở đây tôi miêu tả tính cách và tâm hồn. Ngô Lương Tân nói xong quay lại nói với Ngô Tỉnh Khâm:- Thưa thầy, đúng thế không thầy?

- Đức thánh nói: có sao nói vậy, không nên giả dối. Ngô Tỉnh Khâm đáp.

- Thầy đã nói như thế, vậy hãy làm thêm bài nữa Ngô Lương Tân đề nghị.

- Thầy là môn đồ của Đức thánh Khổng Tử, không như chúng ta đọc nhiều từ đẹp thơ hay. Chúng ta làm sống bài thơ để thầy hài lòng. Ngô Lương Tài nói.

Hai người xin thầy ra đề, viết lên hai tờ giấy, ai bốc được tờ nào thì làm thơ theo đề ghi trong giấy, thể văn không hạn chế.

Ngô Lương Tài bốc trước, mở tờ giấy ra xem, nhìn thấy chữ “ngẫu” (ngó sen -ND),bèn nói:

- Thầy cho cái đề quả là khó, nhưng cũng khá hay, khó và hay hơn cái đề của kỳ thi hương. Nói xong đọc:

Ngó già tựa chiếc thuyền con,

Ngó non tựa chiếc gối bông trên giường.

Lá kia che nắng che mưa.

Thân cây sóng gió ngày đêm vững vàng,

Xương trong như ngọc tự sinh.

Hồn kia trắng tựa tuyết nằm trên gương.

Dẫu thân có gãy làm đôi

Tơ lòng ngỏ ý suốt đời còn vương.

Ngô Lương Tân rút tờ giấy từ trong tay thầy, mở xem, thấy chữ “nguyệt” (mặt trăng - ND) bèn đọc:

Má hồng trang điểm tận trời cao,

Nước hoa son phấn răng ngọc ngà.

Lầu quỳnh sập gụ mãi đắm say.

Người đẹp phơi bày dưới ánh trăng.

- Bài thơ này có tình có cảnh. Rất hay. Ngô Tỉnh Khâm khen.

- Thầy lại thiên vị Ngô Lương Tân, bài thơ đó lạc đề rồi. Ngô Lương Tài nói.

- Thầy nói là phải đúng, anh lại xuyên tạc, chẳng phải bài thơ có chữ “trăng” ư. Nếu anh không phục, tôi ra một câu đối có chữ “trăng”, nếu anh đối được, hai ta đổi thứ bậc cho nhau.

- Vậy anh đọc xem.

Ngô Lương Tân đọc:

Trăng non như chiếc thuyền con,

Đón đưa tiên nữ qua dòng sông ngân.

Ngô Lương Tài bèn đối:

Bánh tròn như chiếc gương vàng,

Soi hình người đẹp nơi vùng biển xanh.

- Đúng là hay, tôi xin đổi thứ bậc cho anh. Ngô Lương Tân nói.

- Đừng đùa nữa, để hai đào hát kia hát tiếp. Ngô Tỉnh Khâm nói.

- Đó mới là chủ đề thật sự. Ngô Lương Tài nói.

Tối đó Ngô Tỉnh Khâm qua đêm tại đấy, nằm giữa oanh yến. Khổng Tử nói: “Học phải hành”. Đúng vậy. Ngô Tỉnh Khâm đang vui chơi thoải mái ở Trực Lệ, bỗng nhận được lệnh của Hoà Thân gọi ông cùng Lưu Bảo Kỷ về kinh ngay.

Hoà Thân nhận được một bản tấu trình nói rằng, Tri phủ châu Trực Lệ là Lưu Bảo Kỷ tự tiện chế ra dụng cụ tra tấn, bạo ngược với phụ nữ, ăn của hối lộ, hiếp ức dân chúng; học chính Trực Lệ là Ngô Tỉnh Khâm cấu kết với tri phủ, trong cuộc thi hương, chấm thi theo lượng tiền lót tay, người đậu thứ nhất là do người khác làm bài thay, người đậu thứ hai là tên gian thương, người đậu thứ ba là một tên lưu manh, lại kèm thêm chứng cớ xác thực.

Thời phong kiến, thi đậu là việc quan trọng nhất, thực tế đúng như vậy. Thi đậu, “là công thành danh toại tên tuổi lẫy lừng”. Chỉ cần nhìn vào Phạm Tiến và Khổng Ất cũng đủ thấy người có học đặt toàn bộ hy vọng cuộc đời như thế nào vào thi cử. Do vậy, trong xã hội phong kiến, hành vi gian lận trong thi cử luôn luôn xuất hiện, càng cấm càng vi phạm. Hai vụ án trong kỳ thi hương ở Thuận Thiên và Giang Nam vào năm Thuận Trị thứ 14 đã chứng minh. Thời Bắc Vi, lúc ấy có một người chẳng biết một chữ nhất nhị cũng thi đậu. Sau khi bị bại lộ, bảy người bị chém ngang lưng, tài sản bị tịch thu, cả nhà gồm cha chú anh em vợ con hơn trăm người đều bị bán và lưu đày. Hai mươi lăm người hối lộ được khỏi tội chém, còn những người khinh nhờn phép nước đều bị nghiêm trị.

Năm Càn Long thứ 16, trong khoa thi hội đã xảy ra gian lận, quan chấm thi và những người đưa hối lộ đều bị trừng trị. Hoàng đế phong kiến biết rõ, thi cử có chuyện gian lận thì quan lại thối nát tột đỉnh. Vì vậy, quan lại chọn từ trong các sĩ tử dự thi, nếu do gian lận mà thi đậu thì khi làm quan gian lận gấp đôi.

Từ khi Hoà Thân nắm quyền, quyền thi cử của triều Thanh đều do ông ta nắm, dù ông không trực tiếp chấm thi, nhưng môn đồ thân tín của ông đều nắm giữ các chức vụ quan trọng. Cho nên hiện tượng gian lận trong thi cử trở thành phổ biến khắp nơi.

Thủ đoạn gian lận của thí sinh có nhiều cách: mang sách vở vào phòng thi, thuê người làm bài, quay cóp, v v.. Nếu bị phát hiện, sẽ bị đuổi khỏi trường thi, xoá bỏ tư cách thí sinh, xoá bỏ công lao đã có, bị gông lại đi diễu trước quần chúng. Các quan coi thi nếu thấy hiện tượng gian lận mà không tố cáo đều bị liên lụy. Có nhiều cách thông đồng với quan chấm thi như quan chấm thi tiết lộ đề thi trước hoặc giao ước viết chữ gì đó ở hàng thứ mấy, đoạn nào trong quyển thi. Do vậy thi cử thời Minh và Thanh đều áp dụng phương pháp thi cử do bộ Lễ thời Tống đặt ra. Quyển thi đều có mã số và được chép lại. Quan chấm thi chỉ đọc bản chép lại, không biết tên tuổi và nét chữ của thí sinh. Trừ phi có ám hiệu đặc biệt mới có thể bảo đảm trúng tuyển. Cách gian lận này thường gọi là “thông đồng”.

Thi cử gồm bốn cấp: thi viện, thi hương, thi hội, thi đình.