← Quay lại trang sách

Chương 20 CÀN LONG NHƯỜNG NGÔI,-GIA KHÁNH KHÓ XỬ -

Tháng giêng, năm Càn Long thứ 60, xuất hiện nhật thực, nguyệt thực...

- Càn Long thừa nhận lời hứa lúc còn trẻ, bản thân “công đức viên mãn”, quyết định nhường ngôi, nhưng muốn làm vị Thái thượng hoàng có danh có thực...

- Trong bữa tiệc, Hòa Thân đặt 1550 các lẩu, thực là một bữa tiệc lẩu lớn nhất trong lịch sử thế giới...

- Nhiều người, kể cả sứ thần nước ngoài đều thấy rõ Hòa Thân khó tránh gặp khó, nhưng Hòa Thân vẫn như cũ, núp sau Thái thượng hoàng lệnh cho Hoàng thượng...

Năm Càn Long thứ 60, đúng lúc giao thừa đêm đầu năm, tại phủ Hòa Thân, đèn đuốc sáng trưng, pháo nổ vang trời, pháo hoa năm màu biến ảo trên bầu trời. Lúc này, cả kinh thành Bắc Kinh pháo nổ tưng bừng, mọi người tiễn đưa năm cũ đón mừng năm mới.

Hòa Thân đang ôm con nhỏ, cậu bé đã tỉnh dậy vì tiếng pháo nổ bên ngoài. Hòa Thân cầm chiếc mũ bịt kín hai tai cậu con. Cậu con lúc này đã tập nói bập bẹ. Phong Thân Ân Đức theo sau Hòa Thân, tay cầm nén hương. Ba cha con bái cúng thần phật tổ tiên rồi đi ăn sáng.

Hòa Thân cầm chiếc thìa vàng cán ngà trong tay cậu con múc đúng viên sủi cảo mà cậu bé đang cầm thìa gạt, quả nhiên, trong viên sủi cảo có viên bảo thạch. Hòa Thân cả mừng, thơm con và nói: “Con ta sinh ra đã đại cát đại lợi”. Phong Thân Ân Đức cũng rút ra một chuỗi ngọc trai quàng vào cổ cậu em.

Cơm xong, trời hé sáng, Khanh Lân mang đến chiếc hộp “vạn sự tốt lành”, trong hộp có mứt hồng, quả vải, nhãn, lạc, tiền giấy, hạnh đào, hồng táo, v.v... chuẩn bị đãi khách đến chúc mừng năm mới. Sau đó đặt các đồ cúng: táo, bánh dẻo, mứt hoa quả, thức ăn chay. Cắm những bó hoa vẽ hình bát tiên và thần tài, phúc, thọ, lộc. Hòa Thân và phu nhân Phùng Thị ngồi xuống, Phong Thân Ân Đức và Công chúa thứ mười bước đến bái lạy chúc mừng năm mới hai ông bà, tiếp sau là các thê thiếp và những người trong nhà. Hòa Thân tặng cho mỗi người một túi lụa con màu đỏ.

Sau khi lễ xong, Hòa Thân bảo người nhà chuẩn bị kiệu vào cung chúc mừng năm mới Hoàng thượng.

Trời đã sáng rõ. Mặt đất tuy không có tuyết, nhưng ẩm ướt, mây đen xám xịt phủ kín bầu trời, khiến người ta có cảm giác “mây đen đè nặng, thành trì muốn sụp đổ”. Mấy sai dịch của bộ Thống lĩnh quân bộ đang thu nhặt mấy xác chết trên đường phố. Sáng mùng một Tết, xác người chết đặc biệt nhiều, trước cửa trại cháo tế bần nằm la liệt người chết. Mấy sai dịch vừa khiêng đi mấy xác chết, thì lại có mấy người khác ngã xuống tắt thở. Dường như họ không biết có ngày Tết, mặc dù pháo nổ râm ran trên bầu trời, khắp đường phố.

Đó là một mùa đông giá rét. Hôm ba mươi Tết, bộ Lễ báo cáo với Càn Long rằng, một sứ thần nước ngoài chết cóng trong nhà Hội đồng tứ dịch. Càn Long bực tức. Thị lang và Thượng thư bộ Lễ bị Hòa Thân mắng cho một trận. Mùa đông năm nay, quạ bị chết cóng, cây cối héo chết, trẻ con người già yếu chết cóng, ngay cả người khỏe mạnh cũng chết cóng nữa là.

Hòa Thân quỳ trước mặt Càn Long chúc thọ và chúc mừng năm mới. Càn Long nói:

- Quan thiên giám tâu rằng hôm nay có nhật thực, ngày mười lăm lại có nguyệt thực, vì vậy Trẫm rất lo, lo đất nước lại có chuyện binh đao.

- Hoàng thượng, ngày sóc vọng (ngày mùng 1 và ngày 15 - ND) xuất hiện nhật thực và nguyệt thực, đúng là có chuyện binh đao, nhưng chuyện này chắc là ở nơi xa xôi của đất nước, mang đại quân đến, sẽ dập tắt đám cháy ấy thôi. Từ thời Hán đến thời Minh, việc đó xảy ra nhiều. Hoàng thượng không cần phải lo lắng. Lần gần đây nhất, năm Càn Long thứ 51, ngày sóc vọng cũng có nhật thực nguyện thực, Hoàng thượng còn nhớ bọn Lâm Sáng Văn nổi loạn ở Đài Loan, Phúc Khang An đem đại binh đánh dẹp, hải phận lại bình yên, giang sơn Đại Thanh ta so với trước càng vững chắc như núi Thái Sơn.

Hòa Thân nói một hồi, nỗi lo của Càn Long tan biến.

Một lát sau, nhật thực xuất hiện, Tử Cấm Thành và toàn Bắc Kinh tối sầm. Nỗi ám ảnh trong lòng Càn Long lúc này lại trỗi dậy. Nhật thực qua đi, trời lại quang đãng. Càn Long nói.

- Trẫm trị vì thiên hạ đã có gì sai lầm ư?

- Hoàng thượng lập nên công trạng trước nay chưa từng có, nhân đức với thiên hạ, coi dân như con, muôn dân đều kính ngưỡng, thiên hạ quy thuận, quả là Hoàng thượng chẳng có gì là sai lầm.

- Dẫu vậy, nhưng trong một tháng xuất hiện cả nhật thực và nguyệt thực, là điềm không lành. Trẫm lệnh miễn thuế cho thiên hạ, ngày mai khanh ban chỉ cho cả nước.

Ngày mùng hai Tết, Càn Long lệnh các tỉnh không thu thuế. Đây là lần thứ ba, cũng là lần cuối cùng Càn Long ra lệnh miễn thuế. Thật ra, Càn Long vẫn dấu một điều bí mật nằm kín trong nơi sâu thẳm của tâm linh ông: ông sắp sửa nhường ngôi, ông muốn tạo một cục diện ổn định cho vị Hoàng thượng mới.

Sáng sớm ngày mùng hai, Hòa Thân đến miếu Thần tài Ngũ Hiển tại Lục Lý Kiều bên ngoài Quảng An Môn, thắp hương, đặt thoi bạc, khấn vái thần tài trong miếu, phù hộ phát tài.

Bắc Kinh có tục lệ, ngày mùng hai là là ngày tế lễ thần tài pháo nổ suốt đêm ngày. Nhà buôn càng xem trọng ngày này, họ cúng vái Thiên thánh đại đế, nguyên soái Huyền Văn Triệu, thần tài Tăng phúc. Đặt lên bàn thờ những đồ cúng tinh khiết: thịt dê, gà trống, cá chép sống, bánh tết, màn thầu, đốt rượu trong cốc, hàm ý lấy rượu nướng cá. Lúc tiễn thần, đặt cành tùng bách, những thỏi vàng giấy lên đống rơm cây vừng, rồi đốt.

Có người đêm ngày đầu năm đến chầu chực ở Quảng An Môn, hy vọng khi cửa Quảng An Môn mở, là người đầu tiên được đốt nén hương trước thần tài Ngữ Hiển, nhưng dù họ có đến sớm mấy chăng nữa cũng không thể đến trước Hòa Thân được.

Ngày mùng tám, ngày các vì sao xuống trần. Gia đình Hòa Thân cũng như các gia đình giàu có đốt đèn thắp hương cúng tế, hết sức sang trọng, cửa mỗi tầng gác đều có đặt 108 cây đèn, móc thêm chiếc bánh chẽo, bấc đèn tẩm thuốc pháo kết thành hình đóa hoa, phun thêm nước hoa, đốt lên, hoa lửa bay tứ tung, giống như các vì sao xuống trần.

Ban ngày, các Lạt ma ở chùa Hoằng Nhân xua đuổi tà ma, mọi nhà trong kinh thành đua nhau đến xem. Các Lạt ma phân nhau đóng các vai Phật mẫu Kim Cương, chư tướng thiên thần, yêu quỷ mặt trắng, mặt đen, tay cầm gậy màu sắc sặc sỡ, đi lại thoải mái, tiếng chiêng, tiếng cồng, tiếng trống vang lên. Các Lạt ma ăn bận áo quần kỳ dị, miệng niệm kinh, nhảy múa xua đuổi tà ma, đón rước điều lành.

Vào hôm đó, Hòa Thân nhận được bản tấu: Đầu lãnh người Mẹo là Thạch Liễu Đặng ở doanh Đại Hàn, phủ Đồng Nhân, Quý Châu làm phản. Người Mẹo các nơi như Thạch Tam Bảo ở sảnh Vĩnh Tuy, Ngô Phong Sanh ở sảnh Phượng Hoàng, Ngô Bát Nguyệt ở Càn Châu thuộc tỉnh Hồ Nam nổi lên hưởng ứng.

Hòa Thân, một mặt lệnh cho Phúc Khang An, Hòa Lâm đem quân đi dẹp, một mặt giữ kín bản tấu tại Cục quân cơ, để chờ sau ngày 15 tháng giêng mới tâu lên Hoàng thượng.

Đêm Tết Nguyên tiêu, lẽ ra là xem đèn ở Di Hòa Viên.

Nhưng năm nay, Hòa Thân tâu mời Hoàng thượng đến quảng trường Thiên An Môn “vui cùng dân chúng”. Càn Long vui vẻ nhận lời. Để quên chuyện “nguyệt thực”, Hòa Thân đi cùng Càn Long, đứng trên thành lầu Thiên An Môn xem đèn. Khắp nơi trung thành, từ nha sở, đền chùa miếu mạo cho đến nhà buôn, dân thường đều treo đủ loại đèn lụa, đèn pha lê, vẽ tranh trong tiểu thuyết như “Tam quốc”, “Thủy hử”,”Hồng lâu mộng”, “Tây Sương ký”, v.v... Trên thành lầu Thiên An Môn cũng treo đủ các loại đèn như vậy và còn có cả đèn hình người, hình cá, rồng, sư tử. Những ngọn núi, những tượng người, những cây cỏ kỳ lạ làm bằng những tảng băng, khi đốt đèn lên, trông trong suốt, tỏa ra ánh sáng rực rỡ, vô cùng đẹp mắt.

Phía dưới Thiên An Môn, nào đèn, nào hoa tranh nhau khoe sắc, ngựa xe dập dìu, tiếng đàn tiếng hát vui tai, người đông như biển cả. Bỗng, một áng mây đen nuốt chửng trăng rằm, cả thành tối sầm, cũng nhờ vậy, ánh sáng trên thành dưới thành càng rực rỡ. Đúng lúc này, ai đó dưới chân thành đốt lên một cây pháo, lửa hoa tung bay bốn phía, đột nhiên, một dải ánh sáng đỏ rực vụt bay lên không trung cao đến hai trượng, biến thành một bức tranh xanh đỏ tím vàng. Dải ánh sáng đỏ này vừa tắt, thì một luồng ánh sáng đỏ khác vụt lên, bầu trời biến thành một lẳng hoa đủ màu đủ sắc. Lẵng hoa này sắp mờ dần, thì một tiếng nổ kinh thiên động địa, lẵng hoa lại biến thành một lầu thành rực rỡ... tiếp theo là những chiếc pháo hoa được liên tiếp phóng lên. Hòa Thân giới thiệu với Càn Long: đây là sen đẫm nước, kia là trăng lặn như chiếc mâm vàng, một lát sau lại là Mẫu đơn khoác áo nhung; chậu hoa, Mã lôi tử, phi thiên thập hưởng, tiếp theo là dàn bồ đào, trướng trân châu, tháp Trường minh v.v... Cuối cùng một chiếc pháo hoa được phóng lên biến thành những cảnh kỳ diệu. Hòa Thân tâu:

- Hoàng thượng, đây đúng là lúc không có trăng còn hơn có trăng.

Nỗi u buồn trong tâm khảm của Càn Long vụt biến mất.

Buổi chiều sáng ngày 16 tháng giêng, Hòa Thân tâu:

- Dân Mẹo các nơi ở Quý Châu, Hồ Nam, Tứ Xuyên đã nổi dậy làm loạn.

Hòa Thân đệ trình bản tấu của Đề đốc Lưu Quân Phụ ở Hồ Quảng và tâu:

- Thạch Liễu Đặng, người Mẹo Đại đường, ở sảnh Tàng Đào, tỉnh Quý Châu tập họp dân chúng làm loạn, nay ta đem quân vây thành, nếu ngại không muốn đưa quân vào sâu lãnh thổ. Theo Trấn Liễn Du, Kích Điền, Khải Long bẩm báo: Thạch Tam Bảo là người Mẹo Hoàng Qua Tắc ở sảnh Vĩnh Tuy, tụ tập bè đảng cướp bóc, quấy nhiễu vùng núi Hoàng Thổ thuộc Vĩnh Tuy và vùng Lật Lâm thuộc sảnh Phượng Hoàng, đốt phá nhà cửa, giết hại dân lành, hiện tại đang ra sức bảo vệ thành trì. E rằng Thạch Tam Bảo cấu kết với người Mẹo Đại Đường. Cử Vĩnh Tỉnh, Thìn Nguyên, Thường Đức dẫn 1400 quân cấp tốc đến Phượng Hoàng, Lật Lâm, thần mang theo một số tướng với 600 quân đến đấy.

Càn Long nói với đại thần quân cơ:

- Người Mẹo ở Quý Châu, Hồ Nam, mấy chục năm qua, an cư lạc nghiệp, tuân thủ phép nước, ở riêng biệt với người Hán. Trước nay đã có lệ, người Hán không được phép vào đất người Mẹo. Bây giờ không nghiêm ngặt như trước, qua lại không cấm. Quan lại địa phương và thổ hào bản địa, cả người dân nơi khác thấy họ yếu kém coi thường, hành động bừa bãi, khiến người Mẹo không chịu nổi, dẫn đến sự việc ngày nay. Xem ra Thạch Liễu Đặng, Tam Thạch Bảo chẳng qua vì căm hận mà nổi loạn, chỉ cần tìm hiểu rõ nguyên do, bắt giữ và nghiêm trị kẻ đầu sỏ phạm tội, vỗ về dân chúng, người Mẹo tức khắc phục tùng, cần gì phải đem nhiều quân đi dẹp, khiến họ sợ hãi, càng gây thêm chuyện rắc rối. Chỉ vì một vài người Mẹo làm bậy, liên lụy đến bao nhiêu người Mẹo khác.

Hòa Thân nghe Hoàng thượng nói vậy, cả kinh, không ngờ Hoàng thượng am hiểu tình hình người Mẹo đến thế.

Sau khi thống nhất lãnh thổ, nhà Thanh đã lập ra tại vùng người Mẹo, cơ cấu hành chánh: phủ, sảnh, châu, huyện và các cứ điểm quân sự: trấn, hiệp, doanh, tấn; trực tiếp cai trị người Mẹo. Quan lại triều Thanh từ trên xuống dưới, phần lớn đều hóc lột, ức hiếp người Mẹo, người Hán thì coi khinh họ. Người Mẹo muốn thưa kiện phải nộp “tiền quy củ”. Địa chủ và nhà buôn chuyên cho vay nặng lãi, người Mãn và người Hán thì ra sức bóc lột vơ vét họ. Cho vay nặng lãi, lợi tức tháng là 5 phân, 5 tháng không trả thì chuyển lợi tức thành vốn, cứ như thế, sau một năm, lợi tức đó gấp mấy lần vốn gốc, không tiền trả thì thế chấp ruộng đất. Ngoài ra còn nhiều thủ đoạn khác như “phóng tân dục”, “đoạn đầu lương”. Lúc giáp hạt, người Mẹo vay một thạch thóc, đến mùa thu phải trả 3-5 thạch. Cứ như vậy, người Mẹo sau khi gặt hái xong, trong nhà chẳng còn hạt thóc nào. Vay mượn như vậy, nợ nần liên miên, lâu ngày không trả được, thế là ruộng đất dần dần mất hết.

Thực ra, từ khi Hòa Thân nắm quyền, người Hán cũng khổ lắm, người Mẹo thì như con cá. Người Mẹo sống trong vùng núi Hồ Nam - Quý Châu, quanh các thành Phượng Hoàng, Vĩnh Tuy, Tùng Đào, Bảo Tỉnh, Càn Châu. Quan lính coi thường họ, “người Mẹo phục dịch họ, coi họ là quan, coi quan là thần”. Biện pháp xử lý vấn đề người Mẹo của Càn Long là chính xác.

Hòa Thân chẳng hiểu vì sao Càn Long nắm được tình hình, không những biết lơ mơ mà còn biết rất rõ, nên nghi ngờ. Thế nhưng việc này không thể làm theo Càn Long, nếu làm theo, Hòa Lâm mất cơ hội lập chiến công. Nếu chỉnh đốn lại cách cai trị ở đấy, các địa phương khác cũng phải chỉnh đốn, như vậy đại loạn! Vì thế, Hòa Thân nghĩ ra một biện pháp, quyết không giải quyết vấn đề Người Mẹo bằng phương pháp chỉnh đốn quan lại như Càn Long đưa ra, trước mắt lờ việc đó trong mấy ngày chờ tin sau đó sẽ tâu, Phúc Khang An và Hòa Lâm đã hành động, quân lính đang đánh dẹp giặc Mẹo, việc đã rồi.

Quả nhiên, mấy ngày sau, Tổng đốc Hồ Quảng là Phước Minh, vừa được Hòa Thân mới đề bạt tâu rằng:

- Theo phủ Trường Châu báo: thành Can Châu đã bị vây, kho đã bị cướp, Đồng tri Tông Như Trang, tuần kiểm Uông Dao đã hy sinh. Ở các lộ, ước có đến mấy ngàn người Mẹo.

Hòa Thân tâu:

- Thế giặc Mẹo rất mạnh, không thể chậm trễ, phải đem quân dẹp ngay.

- Người Mẹo phản nghịch, phải ra sức dẹp yên, Phúc Khang An phải cấp tốc đến đấy, tùy cơ hành động. Càn Long nói tiếp: - Hòa Lâm đến ngay Tây Dương, Tôn Sĩ Nghị đến Tứ Xuyên, khi cần đem quân phối hợp với Hòa Lâm. Tôn Sĩ Nghị kiêm cả việc quân nhu.

Như vậy, mục đích của Hòa Thân đã đạt

Ý đồ của Hòa Thân rất rõ, muốn Hòa Lâm được phong thưởng. Ông đâu cần biết người Mẹo sống chết ra sao. Lúc này Càn Long cũng có ý đồ phong thưởng cho Phúc Khang An. Hòa Thân nghĩ đến đấy bèn tâu:

- Mọi người đều nói: đời sống Người Mẹo nghèo nàn, dân các nơi khác đến cư xử bất công với họ, tranh giành với họ, dẫn đến nổi loạn. Quan lại, binh lính ở địa phương thì mượn cớ gây sự, dân lành luôn bị quấy nhiễu, huống hồ là Người Mẹo, chẳng phải là do những hành vi ngược đãi ư? Quan lại địa phương ức hiếp, trấn lột không chừa một thứ gì, dân nơi khác đến mua bán tranh giành, đó là nguyên nhân dẫn đến hiềm khích. Việc này đợi sau khi Phúc Khang An hoàn thành công việc, sẽ điều tra cặn kẽ, truy cứu nghiêm trị.

Càn Long hiểu rõ, cuộc nổi loạn của Người Mẹo là có nguyên nhân, đó là sự hà khắc của quan lại địa phương. Thế nhưng trước khi tra xét quan lại, phải dùng vũ lực dẹp loạn, chờ cho việc xong, thì cuộc tàn sát đã rồi, chuyện phong thưởng cũng đã xong. Đó là cố ý hay vô tình?

Mà Hòa Thân, ý đồ phong thưởng cho cậu em, đã được suy tính kỹ.

Quả nhiên, từ đó về sau, Phúc Khang An và Hòa Lâm liên tiếp báo tin mừng: Hòa Lâm chuyên tâm lo việc quân. Tổng đốc Tứ Xuyên vẫn do Tôn Sĩ Nghị đảm nhiệm.

Phúc Khang An được ban thưởng: ba chiếc lông công, phong từ tước công, lên tước bối, áo khoác lông điều, thắt lưng vàng.

Hoà Lâm được ban thưởng: hai chiếc lông công, bá tước anh dũng hạng nhất, áo khoác lông điều, thắt lưng vàng.

Việc phong tặng quá cấp bách như vậy, Hòa Lâm là em ruột Hòa Thân người ta còn dễ hiểu, nhưng Phúc Khang An được tôn sùng như vậy là vì sao?

Lẽ nào đem quân của 8 tỉnh đi bắt mấy trăm Người Mẹo, lại được phong thưởng như thế? Khi Tổng đốc Hồ Quảng là Phúc Minh, Đề đốc Hồ Quảng là Lưu Quân Phụ tấu báo chiến công, Càn Long thấy ngay chỗ sơ hở này, liền nói: “Lần này mang 1.500 quân, chỉ giết được mấy mươi quân giặc thế là quá ít, tính ra cả trăm quân mới giết được một tên địch, đủ thấy quá kém, vậy có thể gọi là anh dũng được ư? Trẫm phê duyệt đến thế, thật là hổ thẹn, không biết các khanh có thấy tự hổ thẹn không?

Càn Long trong khi bận rộn với cuộc nổi loạn của Người Mẹo, đồng thời lặng lẽ tính toán một việc khác - thu phục người Hán, nhường ngôi cho con.

Sáu mươi năm trước, khi lên ngôi trị vì thiên hạ, Càn Long đã thắp hương cầu khấn trời đất: “Xưa kia Hoàng tổ lên ngôi trị vì được 61 năm, Trẫm không dám bằng thế, cầu mong trời phù hộ, cho Trẫm lên ngôi trị vì được 60 năm, thọ được 85 tuổi, lúc đó Trẫm sẽ nhường ngôi cho con, quay về ở ẩn”.

Bây giờ đã được 61 năm, dường như ông trời đã giáng xuống điềm gở. Ngày đầu năm xuất hiện nhật thực, ngày rằm tháng giêng lại có nguyệt thực, tháng giêng lại xảy ra cuộc nổi loạn người Mẹo, do đó Càn Long phải: một, thực hiện lời thề với hoàng thiên hậu thổ tổ tông thần linh khi ông mới lên ngôi Hoàng đế, hai, nếu mình không thoái vị, sẽ xảy ra “biến cố lớn”, nên khẩn trương chuẩn bị nhường ngôi.

Càn Long nhớ rất rõ, khi mình lên ngôi là lúc Hoàng đế Ung Chính băng hà. Lúc đó, Đại học sĩ Ngạc Nhĩ Thái, Trương Đình Ngọc cho người lấy bản di chúc dấu sau bức hoành phi “Quang Minh Chính Đại”, đọc trước mọi người. Như vậy, trong thời gian Hoàng đế băng hà và Hoàng đế mới lên ngôi, có một khoảng trống quyền lực dễ xảy ra tình hình rối loạn. Do đó Càn Long muốn nhanh chóng công bố việc thoái vị để mọi người biết, nhưng vẫn giữ kín, chỉ có Hoàng Thái hậu và mấy thân vương thân cận được biết mà thôi.

Từ tháng 11 năm thứ 37, Càn Long đã chỉ dụ cho các hoàng tử rằng: “Hoàng tử 15 đã trưởng thành, tài ba và đức hạnh, đến thái miếu làm lễ tế tổ tiên. Hoàng tử khác với vương công, phải ăn mặc như thân vương. Hiện nay trong hoàng tử thì có Tứ A Ca và Lục A Ca đã được phong quận vương, tiền bạc và lính hộ vệ được chu cấp theo chức tước, nhưng ăn mặc như hoàng tử, đến lúc Trẫm 86 tuổi sẽ nghỉ việc triều chính”.

Mùa đông năm sau, Càn Long bí mật quyết định hoàng tử 15 là Vĩnh Diễm làm thái tử, đồng thời bảo Hòa Thân xây dựng cung Ninh Thọ trên mảnh đất đẹp phía đông bắc hoàng cung. Quần thể kiến trúc này gồm có: cửa Ninh Thọ, tường Cữu Long, điện Hoàng Cực, cung Ninh Thọ, điện Dưỡng Tâm, nhà Lạc Thọ, phòng Di Hòa và vườn hoa Càn Long, chuẩn bị khi làm Thái thượng hoàng sẽ đến ở đấy; và tự viết ra đôi câu đối:

“Vui nhìn con cháu thuận hòa. Thảnh thơi nhàn hạ cảnh điền viên.

Thọ cùng muôn dân hạnh phúc. Chẳng lo chẳng nghĩ cảnh thần tiên”.

(Nguyên văn: Lạc tại nhân hòa, khẳng ký cao nhàn quy tông điện.

Thọ đồng dân khánh, vi thân tuân những thác phan viên).

Tháng 12, năm Càn Long thứ 49, Càn Long đã 84 tuổi, triệu tập các hoàng tử, đại học sĩ, đại thần quân cơ, nói ra ý nghĩ dấu kín từ lâu trong lòng: “Lúc Trẫm mới lên ngôi, có thắp hương cầu khấn trời đất, không dám được trị vì thiên hạ 61 năm như Hoàng tổ Khang Hy. Trẫm chỉ cầu được 60 năm tại vị, lúc đó sẽ nhường ngôi. Đến ngày sinh thứ 50, có bàn việc này với Mẫu hậu, Mẫu hậu nói Hoàng thượng giỏi trị quốc yêu dân, thần dân thiên hạ đều không muốn Hoàng thượng nhường ngôi. Trẫm có thầm khấn cầu, nếu trời đất cho Mẫu hậu sống trên 100 tuổi lúc đó Trẫm 85 tuổi cũng mới nghỉ việc triều trung. Giờ đây Mẫu hậu đã về trời, nhớ lại những lời đó, quả thực đau thương, Trẫm trị vì thêm 11 năm, lúc đó mới thoái vị nghỉ ngơi, bàn giao công việc, chẳng phải là việc hay xưa nay hiếm có ư?”. Lúc bấy giờ chẳng ai quan tâm đến lời nói ấy, chỉ thấy việc nhường ngôi kéo dài 11 năm.

Ai là Thái tử, chỉ có trời biết, đất biết, Càn Long biết mà thôi. Các đại thần đều không biết. Chẳng ai dám bàn tán nhiều về nỗi buồn khổ của Khang Hy trong chuyện nhường ngôi. Mọi người đều biết Khang Hy sáng suốt, nhưng những năm cuối đời đã vô cùng chán nản về chuyện ấy, mãi đến lúc chết cũng chẳng ai biết rõ.

Hoàng đế Khang Hy có 35 người con trai trừ những người con chết yểu và làm con nuôi ra, còn lại 26 người. Xưa có câu: “Con cả là đích tông”, cứ theo tuổi thì phải lập con trưởng là Doãn Đề làm thái tử, thế nhưng Doãn Đề là con của một phi tần chứ không phải của Hoàng hậu. Hoàng hậu chỉ sinh có một người con trai là Doãn Nhưng, được Khang Hy vô cùng sủng ái, và lập làm thái tử khi mới một tuổi bảy tháng. Khang Hy tự mình dạy Doãn Nhưng học, đến lúc Doãn Nhưng 6 tuổi lại mời đại học sĩ Trương Vinh, Tứ Trương Lữ, Lý Quang Địa đến dạy. Năm Khang Hy thứ 25, Doãn Nhưng đã lớn, Khang Hy chỉ định người phò tá thái tử. Doãn Nhưng biết cưỡi ngựa bắn cung, tinh thông tiếng Mãn - Hán, biết làm thơ làm phú. Khi Khang Hy thân chinh đi dẹp giặc Cát Nhĩ Đan lần thứ hai, để Doãn Nhưng ở lại kinh giải quyết công việc triều chính, được các đại thần khen ngợi.

Các hoàng tử khác dần dần trưởng thành, trong số đó, hoàng tử thứ tư Doãn Chân, tính tình trầm lặng, hoàng tử thứ tám Doãn Tự, hoàng tử thứ chín Doãn Đường, lanh lợi khéo léo được Hoàng đế Khang Hy hết sức chiều chuộng. Họ tìm cách kết giao với các trọng thần trong triều, làm vừa lòng Hoàng thượng, kéo bè kéo cánh, và âm mưu với các phi tần. Hoàng đế Khang Hy suốt ngày cùng với các đại thần nghiên cứu văn thư, xử lý công việc quốc gia đại sự, tối nào cũng vui vẻ chăn gối với các phi tần, dần dà nghe có âm mưu hãm hại thái tử, đoạt ngôi. Thoạt đầu, Khang Hy có chú ý nhưng không tin lời của các bà, song tin đồn cứ liên tục truyền đến. Ngạn ngữ có câu: “ba người thành hổ giữa chợ”. Có nghĩa là, trong chợ không có hổ, nhưng một người nói có mọi người không tin; hai người nói có, thì nửa tin nửa ngờ; ba người nói có, ai nấy cũng tin trong chợ có hổ. Cái anh minh của Khang Hy như thế này, nghe các đại thần và phi tần xúi bẩy, đem lòng nghi ngờ Doãn Nhưng. Năm Khang Hy thứ 36, Khang Hy thân chinh đi dẹp loạn Cát Nhĩ Đan lần thứ ba, và cũng để Doãn Nhưng ở lại kinh. Một số đại thần gần gũi Khang Hy đặt điều sai trái, khi về kinh Khang Hy đã sát hại tất cả những người thân tín của Doãn Nhưng.

Hoàng tử thứ tám Doãn Tự, dáng vẻ anh tuấn nhất, nên nghĩ rằng, tướng mạo của mình nếu làm hoàng đế thì thích hợp, nên thay đổi áo quần đi tìm gặp Trương Minh Đức. Nào ngờ Trương Minh Đức đã được người ta báo tin, chờ khi Doãn Tự đến, liền quỳ xuống hô vạn tuế. Doãn Tự vội khoát tay, Minh Đức mời vào nhà, vừa nói Doãn Tự đáng được làm thiên tử, vừa quỳ xuống xưng thần. Doãn Tự bộc lộ chân tướng, cùng với Minh Đức bàn bạc âm mưu. Minh Đức nói mình có mười mấy người bạn thân võ nghệ giỏi, hàng ngày có việc họ đều đến giúp. Doãn Tự trở về cung, gặp anh cả Doãn Đề. Doãn Đề tự biết mẹ mình xuất thân từ lớp người thấp kém, mình không thể được lập lên làm thái tử, nên nghe theo Doãn Tự, và được Doãn Tự coi là tâm phúc. Doãn Đề gặp Doãn Tự hỏi:

- Trương Minh Đức chúc em vạn tuế, em nghĩ thế nào?

- Sao anh biết? Doãn Tự nghi ngờ hỏi lại.

- Ta có tai nghe được gió nói, có mắt nhìn thấy ngàn dặm.

- Anh đã biết, chớ nói với phụ hoàng.

- Đương nhiên rồi, chỉ đáng tiếc là Doãn Nhưng không chết, tối qua nghe nói, phụ hoàng vẫn trọng dụng Doãn Nhưng.

- Vậy làm thế nào nhỉ?

- Ta có một cách hay.

- Anh nói mau ra?

- Ở bãi chăn ngựa có một Lạt ma Mông Cổ, giỏi tà thuật, có thể khiến người chết, nếu bảo hắn hãm hại Doãn Nhưng, chẳng phải tốt ư?

Thế là Doãn Tự nhờ Doãn Đề bố trí thực hiện.

Sau khi đến bãi chăn ngựa, Doãn Đề vội vàng trở về gặp Hoàng đế Khang Hy tâu: “Có một vị thầy tướng tên là Trương Minh Đức nói rằng, Doãn Tự nhất định sẽ trở thành đại quý nhân, và nói thêm rằng, nếu muốn giết Doãn Nhưng, phụ hoàng chẳng cần phải tự ra tay”. Khang Hy cho gọi Minh Đức đến, hỏi và trói đem ra cổng thành xử lăng trì. Thế nhưng một số đại thần vẫn không biết, khi Khang Hy nhắc lại việc lập thái tử, đã đồng thanh đề cử Doãn Tự. Té ra Đại học sĩ Mã Tề và một số người thông đồng với nhau. Mã Tề và Doãn Tự bị bắt giam. Doãn Tự nghĩ rằng, việc này chỉ có anh Doãn Đề biết, Doãn Đề muốn ta chết ta cũng sẽ cho anh ta chết, nên yêu cầu phủ Tôn Nhân: “Muốn gặp Phụ hoàng”. Phủ Tôn Nhân đưa Doãn Tự vào cung.

Khang Hy đang tức giận, vì hoàng tử thứ mười bốn là Doãn Để, được hoàng tử thứ chín là Doãn Đường ủng hộ, van xin cho Doãn Tự. Khang Hy càng tức rút kiếm định chém Doãn Để. Hoàng tử thứ năm Doãn Kỳ thấy thế vội quỳ xuống ôm chân Khang Hy nài xin. Khang Hy vứt kiếm bực tức nói:

- Khi ta băng hà, các ngươi vứt Trẫm vào cung Càn Thanh, rồi hãy tàn sát lẫn nhau.

Khang Hy nói chưa dứt lời đã thấy Doãn Tự đến, càng bực tức, cho hai tát tai. Doãn Tự khóc nói:

- Nhi thần không dám làm bậy, thật ra là do anh Doãn Đề xúi giục

- Nói bậy, nếu hắn xúi giục, sao hắn lại đến tố cáo với ta?

- Nếu phụ hoàng không tin, hãy bắt tên Lạt ma Mông Cổ ở bãi chăn ngựa về hỏi.

Khang Hy lệnh cho thị vệ đi bắt tên Lạt ma về hỏi, sau đó đào dưới đất lên, quả nhiên thấy mấy chiếc đầu người bằng gỗ ở bãi chăn ngựa. Khang Hy trao gươm cho thị vệ chém chết Doãn Đề. Thị vệ đâu dám giết hoàng tử, nên vội quỳ xuống van xin cho Doãn Đề. Huệ Phi, mẹ của Doãn Đề nghe tin vội vàng đến quỳ trước Khang Hy cầu xin khai ân. Trước cảnh đó, Khang Hy mềm lòng, nói: “Ái phi đứng dậy”. Huệ Phi đứng sang một bên, mặt bự phấn thấm đầy lệ, trán nổi lên hai vết bầm tím. Người đẹp liều chết, ai mà không thương tình. Khang Hy thu gươm lại, lệnh thị vệ đứng dậy, dẫn Doãn Tự vào ngục, và nói với Huệ Phi: “Nể nàng ta tha cho Doãn Đề, hắn không phải là người tốt, phải cho người quản chặt nó!”. Huệ Phi không dám nói thêm, cảm ơn và trở về cung. Khang Hy tự tay viết dụ, xóa bỏ tước vương của Doãn Đề, quản thúc tại nhà.

Khang Hy tức quá sinh bệnh, tối đó không ăn, hôm sau phát sốt. Chỉ có một mình thái tử thứ tư Doãn Chân sớm tối chăm nom. Nghe Doãn Chân nói, Khang Hy ân hận đã phế bỏ thái tử của Doãn Nhưng, để Doãn Nhưng phải oan, cho Doãn Chân là công chính. Do đó thả Doãn Nhưng ra. Sau đó mấy ngày, tuyên bố với các vương công đại thần rằng:

- Trẫm lúc nhàn rỗi thường đọc sử sách, trước nay thái tử bị phế, thì không thể sống, sau đó vua lại hối hận. Sau khi giam cầm Doãn Nhưng, ngày nào Trẫm cũng suy nghĩ, hôm nay mắc bệnh, chỉ có hoàng tử thứ tư là hiểu lòng Trẫm, nhiều lần khuyên Trẫm gặp lại hoàng thái tử Doãn Nhưng. Trẫm gặp một lần, thế là bệnh Trẫm thuyên giảm. Trẫm nghi ngờ tội lỗi của Doãn Nhưng, thật đáng nguyền rủa. Bây giờ nhìn thấy Doãn Nhưng chăm lo thuốc thang, cử chỉ đúng mức, giờ đây đã hối cải từ nay phải rửa sạch lòng dạ. Xưa kia, Thái Giáp được tha, trở thành chúa tốt, có lỗi thì sửa.

Hoàng tử thứ tư Doãn Chân quỳ tâu:

- Nhi thần xin tuân theo lời của phụ hoàng, nói rằng, nhi thần nhiều lần tâu giúp cho thái tử, thực ra không có chuyện đó, nhi thần không dám nhận lời khen của phụ hoàng.

- Con đã tâu xin cho Doãn Nhưng trước mặt ta, con tưởng rằng không ai biết nên chối từ. Con quả không muốn nhận, điều đó cũng dễ thông cảm, nếu con sợ Doãn Đề, Doãn Tự, cố ý hãm hại, làm điều xằng bậy con khiến ta thất vọng đấy.

Hoàng tử Doãn Chân cảm tạ:

- Mười năm trước - hầu hạ phụ hoàng, nhi thần hết lòng hết dạ, phụ hoàng đã thấy rõ, giờ đây nhi thần đã ba mươi tuổi, nói chung đã trưởng thành, bốn chữ vui buồn giận sợ đề có quan hệ đến nhi thần, cúi xin phụ hoàng đừng ghi trong chỉ dụ, nhi thần vô cùng cảm tạ ân đức phụ hoàng.

Khang Hy lại nói với vương công đại thần:

- Gần mười năm qua, hoàng tử thử tư đã tu tỉnh, không còn khi vui khi giận, chẳng qua hôm nay Trẫm ngẫu nhiên ra chỉ dụ, khích lệ hoàng tử, nên chẳng cần phải ghi lại.

Mùa hè năm sau, lại lập Doãn Nhưng làm hoàng thái tử, phong hoàng tử thứ ba Doãn Chỉ làm Thành thân vương, hoàng tử thứ tư làm Dận thân vương, hoàng tử thứ năm Doãn Kỳ làm Hằng thân vương, hoàng tử thứ bảy Vĩnh Cổ làm Thuần quận vương, hoàng tử thứ mười làm Đồn quân vương, hoàng tủ thứ chín Doãn Đường, hoàng tử thứ mười hai Doãn Đào, hoàng tử thứ mười bốn Doãn Để làm Cố sơn bối tử. Bốn năm sau, Doãn Nhưng lại bị phế truất thái tử lần nữa, từ đó không lập thái tử nữa. Có mấy người đề nghi lập thái tử đều bị chém hoặc cách chức.

Hoàng tử thứ tư Doãn Chân và người em cùng mẹ là hoàng tử mười bốn Doãn Để được Khang Hy bổ nhiệm làm đại tướng quân, thống lãnh đại quân đóng tại Bắc Kinh, bình địch Tân Cương, Tây Tạng, chiến công hiển hách, nhưng Doãn Chân lại có mưu đồ. Nhân khi Doãn Nhưng bị mất chức thái tử, Doãn Chân bí mật câu kết với những đại thần khắp nơi từ trong triều đến các địa phương, đặc biệt với quốc cửu Long Khoa Đa đang thống lĩnh quân đội ở kinh đô.

Năm Khang Hy thứ 61, Khang Hy (đã 69 tuổi) cùng Long Khoa Đa và các hoàng tử dạo chơi ngắm cảnh ở vườn Du Sướng Xuân, bỗng nhiên Khang Hy mắc bệnh nặng, uống thuốc không bớt, càng nặng thêm. Tối đó Khang Hy cho gọi Long Khoa Đa vào; truyền chỉ, mồm vừa bật ra chữ “mười” thì cứng lưỡi, rất lâu mới nói được chữ “bốn” ý là cho gói hoàng tử mười bốn về kinh. Ngay tối đó Khang Hy qua đời.

Hôm sau Long Khoa Đa tuyên bố di chúc của Khang Hy: “Truyền ngôi cho hoàng tử thứ tư”.

Về sau, Hoàng đế Ung Chính viết tên người kế vị đặt sau bức hoành phi “Chính Đại Quang Minh”, đến khi băng hà, các đại thần lấy ra tuyên bố.

Do vậy, Càn Long lên ngôi được mấy mươi năm, đã ở vào tuổi cổ lai hy mà vẫn chưa lập người kế vị, các đại thần chẳng dám đề cập đến việc đó. Tháng 9, năm Càn Long thứ 43, một học sinh ở huyện Cẩm tên là Kim Tùng Nghĩa, nhân lúc Hoàng đế đi tuần du miền đông, đã quỳ xuống bên đường tâu xin Hoàng thượng lập người kế vị đã phải bị xử cực hình. Sau đó nếu không phải là Hoàng thượng đề xuất thì ai dám bước theo vết xe đổ thời Khang Hy.

Tháng 9, năm Càn Long thứ 59, chiến sự bình định giặc Mẹo ở Quý Châu đang khẩn trương, không khí trong hoàng cung cũng vậy. Bởi vì, ngày 1 tháng 10, Hoàng thượng muốn ban hành “sách lịch” lần thứ hai. “Sách lịch” ban bố chắc chắn phải có niên hiệu của hoàng đế mới, có nghĩa là ngày 1 tháng 10 có thể biết được ai là vị hoàng đế mới.

Thế nhưng, Càn Long không đợi đến ngày 1 tháng 10.

Ngày 2 tháng 10, mây đen khắp trời, gió rét thổi ù ù, dự báo một mùa đông giá rét sắp đến gần.

Càn Long đang cùng Hòa Thân chơi cờ, nước cờ đi sai mãi, dường như có tâm sự gì, Hòa Thân tâu:

- Hoàng thượng có tâm sự gì phải không, xin nói cho nô tài biết, để nô tài có thể chia sẻ nỗi lo với Hoàng thượng.

Càn Long đứng dậy, nét mặt nghiêm trang, bước đi mấy bước, nói:

- Ngày mai, Trẫm tuyên bố nhường ngôi.

Hòa Thân giật mình, tim thắt lại, toàn thân run lên, đánh rơi con cờ trong tay xuống, “bịch”.

Càn Long là chỗ dựa của ông, là chiếc ô che cho ông, nếu vị Hoàng đế mới không tin dùng ông, không tôn sùng ông, ông vội vàng tâu:

- Hoàng thượng, trong lịch sử thường nghe nói đến những cuộc nhường ngôi đầy rối rắm. Chỉ có Nghiêu truyền cho Thuấn, Thuấn truyền cho Vũ là thuận lợi êm đẹp xưa nay hiếm có. Nhưng, vua Nghiêu truyền ngôi sau 73 năm làm hoàng đế, vua Thuấn 30 năm chinh chiến, 30 năm lên ngôi, rồi tiếp thêm hơn 30 năm nữa mới nhường ngơi. Lúc đó Nghiêu - Thuấn đã ngoài trăm tuổi Hoàng thượng tinh thần vẫn minh mẫn, so với Nghiêu - Thuấn còn sống lâu hơn, còn tại vị được vài mươi năm nữa, lúc đó nhường ngôi cho thái tử cũng chưa muộn. Huống hồ, thiên hạ khắp nơi đều coi Hoàng thượng như cha mẹ, Hoàng thượng tại vị thêm một ngày, dân chúng vui sướng thêm một ngày, nô tài được tắm gội ân đức của Hoàng thượng, muốn được mãi mãi hầu hạ Hoàng thượng. Chó ngựa còn nhớ chủ, lẽ nào nô tài không bằng chó ngựa ư?

Trước hết, làm Thái thượng hoàng “chẳng có bao nhiêu vinh dự”, tuy Hòa Thân không nói rõ ra, nhưng Càn Long chẳng lẽ không biết ẩn ý đó: Hán Cao tổ Lưu Bang tôn cha mình là “Thái thượng hoàng”, chẳng qua tôn để mà tôn vậy thôi. Thời Nam Bắc triều, Ngụy Hiến Văn Đế nhường ngôi cho Ngụy Hiếu Văn Đế, là do mẫu hậu can thiệp, Vũ Thành Đế thời Bắc Tề truyền ngôi cho Cao Vỹ, đến “sự biến Huyền Vũ Môn” đời Đường, Lý Uyên không thể không truyền ngôi cho Lý Thế Dân, sau khi giết chết Võ Hậu, Đường Duệ Tông buộc phải truyền ngôi cho Đường Huyền Tông, Đường Túc Tông sau khi lên ngôi tại Linh Vũ thì Huyền Tông không thể không làm “Thái Thượng hoàng”. Thời Tống, khi quân Kim xâm lược. Tống Huy Tông trao ấn cho Tống Ẩm Tông, thực ra là bất đắc dĩ. Triệu Vương thời Nam Tống truyền ngôi cho Tống Hiếu Tông, Triệu Duệ lại truyện ngôi cho Tống Triệu Tôn. Tuy hai người chủ động nhường ngôi, nhưng thanh danh của họ cũng chẳng đẹp đẽ gì. Thời Minh, sau sự biến Thổ Mộc, Minh Đức Tông lên ngôi, Minh Anh Tông phải thoái vị. Hòa Thân nói như vậy cốt để Càn Long “biết nhục” mà không nhường ngôi, nhưng thấy chưa ăn nhằm gì nên lại kể chuyện Nghiêu - Thuấn. Càn Long rất thích người ta so sánh xem mình như vua Nghiêu, vua Thuấn và hoàng đế Khang Hy, vua Nghiêu vua Thuấn sống hơn trăm tuổi, tại vị hơn 60 năm. Chuyện này dễ khiến Hoàng thượng suy nghĩ đắn đo.

Cuối cùng vỗ đùi nói, mọi người trong thiên hạ đều mong muốn Hoàng thượng tiếp tục chấp chính, như vậy thuận theo lòng dân, đất nước yên định, quốc gia hưng thịnh.

Nào ngờ, với các việc khác nếu Hòa Thân nói như vậy, Hoàng đế Càn Long đều đáp “hợp ý Trẫm”, riêng mỗi việc này thì không nghe theo, và nói:

- Khanh mới chỉ biết một mà không biết hai. Trẫm lên ngôi lúc 25 tuổi, đã thề với trời đất, nếu tại vị được 60 năm thì nhường ngôi cho con, không dám bằng Hoàng tổ tại vị được 61 năm. Nay trời đất phù hộ, kỳ hạn đã đến, ý nguyện đã thỏa mãn, đâu dám mong muốn gì hơn? Hoàng tử Vĩnh Liễn mất sớm, chỉ có hoàng tử thứ 15 là Vĩnh Diễm được hơn cả, Trẫm đã làm đúng phép nhà, viết tên dấu kỹ sau bức hoành phi “Chánh Đại Quang Minh”, ngày mai Trẫm sẽ tuyên bố Vĩnh Diễm là thái tử, nối ngôi Trẫm, nếu sợ buổi đầu chưa quen, có Trẫm bên cạnh nhắc nhở, khanh không cần phải lo.

Hòa Thân thấy Càn Long cương quyết như thế, bỗng thốt lên:

- Nô tài thấy tinh thần Hoàng thượng thật là vững vàng, đúng là lão đương ích tráng, có thể tại vị thêm vài mươi năm nữa, sau đó nhường ngôi không muộn, Hoàng thượng tại vị ngày nào, con dân hạnh phúc ngày ấy, nô tài nguyện hầu hạ Hoàng thượng mãi mãi.

Càn Long biết Hòa Thân không an tâm, nên nói:

- Khanh sợ rằng, Vĩnh Diễm lên ngôi, lúc đầu dễ xảy ra sai lầm. Khanh khỏi phải lo, có Trẫm bên cạnh, tùy cơ uốn nắn.

Nghe vậy, Hòa Thân hơi yên tâm, đúng, Hoàng thượng làm “Thái Thượng hoàng”, “Thái thượng hoàng” thật sự, khiến vị Hoàng đế mới có danh mà không quyền, ta vẫn còn quyền như xưa nay! Thời gian này ta ra sức xây dựng củng cố cơ sở, nắm chắc, khống chế các quan văn võ từ trên xuống dưới, đan tấm lưới cho chắc hơn, đáng tin cậy hơn, không thể để xảy ra bất cứ chuyện gì, đồng thời ra sức nịnh bợ lôi kéo Hoàng đế mới, trở thành đại thần trung thành của hai Hoàng đế. Giấc mộng đẹp nhưng không thực tế. Hòa Thân đi vận động.

Hòa Thân vội vàng ra khỏi cung, định tìm gặp Hòa Thạc Lễ Thân vương Vĩnh Ân bàn bạc, cùng nhau tâu với Càn Long, xin tạm thời chưa nên nhường ngôi. Vừa đến cổng phủ Hòa Thạc Lễ Thân vương thì bảo phu kiệu quay kiệu về ngay. Ông rùng mình, ngẫm nghĩ: “Không nên đi nước cờ này, dễ mất lòng Hoàng thượng cũ, và đối địch với Hoàng thượng mới. Vì Hoàng thượng tin mình nên nói chuyện này với mình, nếu đem chuyện này nói lại với Thân vương, hóa ra khiến Càn Long tức giận, và nếu việc lan truyền ra, Hoàng đế mới sẽ giận ta tận xương tủy”.

Về phủ, Hòa Thân ăn không thấy ngon, đứng ngồi không yên, nằm nghỉ cũng chẳng chợp mắt được, sốt ruột như kiến trong chảo nóng. Dần dần trấn tĩnh lại, ngẫm nghĩ, Càn Long thường cho mình trị quốc tài giỏi, chiến công lẫy lừng, nay đúng hạn truyền ngôi, chẳng khác gì thêu hoa trên gấm, công đức vẹn toàn, nếu một mình tâu đi tấu lại nhiều lần, sẽ khiến Càn Long tức giận, đắc tội với vua mới. Bây giờ chỉ có dựa hẳn vào vua mới.

Hòa Thân vội vàng vào cung tìm gặp Vĩnh Diễm bày tỏ nỗi lòng.

Từ sau khi các hoàng tử của Khang Hy lập bè kéo cánh, nhiều người lần lượt bước vào ngục thất. Triều Thanh quy định. Hoàng tử không được qua lại bạn bè với các đại thần, Hoàng tử không được tự tiện ra khỏi cung. Càn Long có một cậu cháu là Miên Ân, con trai của trưởng tử Vĩnh Hoàng, từ nhỏ rất thông minh lanh lợi mặt mày tuấn tú, thân hình cao lớn, cưỡi ngựa như bay, bắn cung thiện xạ, được Càn Long đặc biệt yêu mến, lúc bốn mươi tuổi đã làm thống lãnh quân bộ. Có một lần, ngoài Chánh Dương Môn xảy ra đám cháy, Miên Ân đôn đốc quân lính cứu hỏa. Ngôi nhà bị cháy là một nhà thổ, đám đông gái điếm xúm xít trước cổng, mặt mày đầy son phấn, Miên Ân thấy lạ, ngạc nhiên hỏi: “Đó là nhà ai vậy? Sao nhiều con gái thế?”. Qua đó có thể thấy, các hoàng tử hoàng tôn rất ít tiếp xúc với bên ngoài.

Hòa Thân coi trời bằng vung, gửi tặng Vĩnh Diễm một thanh ngọc như ý.

Vĩnh Diễm nghe báo Hòa Thân xin gặp, vội đứng dậy ra đón tiếp. Hòa Thân thấy Vĩnh Diễm vội vàng quỳ xuống, khấu đầu, nói:

- Nô tài Hòa Thân chúc vương gia thiên tuế, thiên thiên tuế.

- Sao lại Tể phụ làm đại lễ như vậy với bản vương, hãy mau đứng dậy, mau đứng dậy.

Hòa Thân đứng dậy, không dám ngước đầu lên, Vĩnh Diễm mời:

- Mời Tể phụ ngồi.

- Nô tài đâu dám.

- Tể phụ không ngồi, thật là khó cho bản vương.

Hòa Thân vẫn không ngồi. Vĩnh Diễm nói tiếp:

- Tể phụ đến đây, có việc gì vậy?

- Đã lâu không gặp vương gia, rất nhớ vương gia, Hoàng thượng thường nói vương gia là người chăm chỉ, tài trí hơn người, do vậy nô tài từ lâu đã khâm phục vương gia, coi như tri kỷ. Mấy hôm nay không gặp vương gia, lòng cứ nhớ nhung, nên hôm nay đến thăm. Nô tài thấy vương gia tinh thần sảng khoái, thân thể khỏe mạnh, rất đỗi vui mừng. Nô tài xin kính biếu vương gia một thanh ngọc như ý, chúc vương gia mọi sự như ý.

Vĩnh Diễm thấy Hòa Thân đến không bình thường, lại biếu cả ngọc như ý, nghĩ bụng: “Chẳng lẽ, chẳng lẽ...”. Rồi giật mình, “chẳng lẽ phụ hoàng lập ta làm thái tử..., chắc là thế, đúng rồi”. Nghĩ vậy, nhìn thấy Hòa Thân như nuốt phải con nhặng, chỉ muốn nôn ra, nhưng vẫn tươi cười.

- Bản vương đâu dám nhận đại lễ của Tể phụ? Bản vương nên tỏ lòng cung kính đối với Tể phụ mới đúng, nhưng vì phép nhà, phép nước không cho tỏ bày lòng thành của bản vương với Tể phụ.

Hòa Thân nghe vậy cảm thấy nhẹ nhõm, và nói:

- Nô tài quả thật không có chỗ nào để cho vương gia cung kính, nô tài chỉ muốn làm viên đá lót chân để vương gia lên xuống ngựa.

Vĩnh Diễm nghĩ thầm: tên cáo già xảo quyệt, muốn ân huệ với ta để dựa vào ta, lại muốn ta sau khi lên ngôi phải dựa vào hắn. Đó chẳng phải là hối lộ mua chuộc ta ư? Nghĩ vậy, bèn nói:

- Bản vương muôn sự đều trông vào Tể phụ. Nếu bản vương có chỗ nào không phải, xin đại nhân dạy bảo, bản vương xin vâng lời.

Đúng, Vĩnh Diễm đã thấy rõ: dù mình được phong làm thái tử, dù mình sang năm lên ngôi Hoàng đế, nhưng còn có Thái thượng hoàng, Vĩnh Diễm phải cúi đầu vâng dạ, Doãn Nhưng xưa kia bị phế rồi được lập lại đủ chứng minh điều này. Thái tử có thể bị phế truất bất cứ lúc nào. Hòa Thân lại là người tâm phúc của phụ hoàng, nói gì nghe nấy, nếu ông ta đề nghị phế truất thái tử, việc đó không khó. Đã là Hoàng đế, với tính cách của phụ hoàng, ông không chịu vứt bỏ quyền lực, mọi việc phải qua tay ông, lại có nhiều người dựa vào quyền lực của ông ta mà tạo ra quyền lực cho mình. Bước đầu phải đi cho đúng, phải làm yên lòng Hòa Thân. Do vậy, Vĩnh Diễm nhất mực cung kính Hòa Thân, làm cho Hòa Thân mất cảnh giác. Quả nhiên những lời nói của Vĩnh Diễm có hiệu quả, sau một lúc chuyện trò, Hòa Thân nói cười toe toét, còn Vĩnh Diễm càng như một cậu học trò nhất mực cung kính vâng dạ theo lời thầy dạy.

Hòa Thân cáo từ ra về, nghĩ bụng rằng: “Chẳng qua là một thằng nhóc đang nằm trong tay”.

Vĩnh Diễm thầm nghĩ: “Phải cho hắn chết”.

Thực ra, hoàng tử thứ mười lăm Vĩnh Diễm căm tức Hòa Thân từ lâu.

Ngày 2 tháng 7 năm Càn Long thứ nhất, Hoàng đế mới lên ngôi triệu tập các đại thần, tại lầu Tây Noãn, cung Càn Thanh, và trịnh trọng tuyên bố lập người kế vị. Càn Long nói: Việc lập người kế vị, từ xưa đến nay, Hoàng đế lên ngôi, việc đầu tiên là định người kế vị. Nhưng việc đó tiến hành công khai, dễ sinh ra lắm chuyện nọ kia, hoặc Thái tử ỷ lại kiêu căng, gây điều thất đức hoặc bọn tiểu nhân tâng bốc nịnh nọt, dụ dỗ làm bậy. Hãy xem việc Hoàng tổ Khang Hy lập người kế vị ngày ấy, khổ tâm biết chừng nào. Hoàng phụ Ung Chính định ra cách giữ kín tên người được kế vị, Trẫm đã suy nghĩ nhiều, nên dùng cách của Hoàng phụ, tự tay viết và cất kín. Chúc thư truyền ngôi đó được thái giám tổng quản trong cung dấu vào phía sau tấm hoành phi “Chính Đại Quang Minh”, trước mặt các vương công đại thần.

Lúc đó, Càn Long 26 tuổi, còn rất trẻ, đã lập người kế vị. Người được lập thái tử là hoàng tử thứ hai Vĩnh Liễn, con của Hoàng hậu Phú Sát Thị, lúc ấy mới 7 tuổi. Cũng lúc này con trưởng là Vĩnh Hoàng, cũng do Phú Sát Thị sinh ra đã 14 tuổi; hoàng tử thứ ba Vĩnh Chương, con cả thứ phi Tô Thi, mới 2 tuổi. Tên Vĩnh Liễn là do Ung Chính đặt, Vĩnh Liễn từ bé đã thông minh, phong thái hơn người, nhưng tháng 10 năm Càn Long thứ 3, bị bệnh qua đời. Càn Long đành rút chúc thư truyền ngôi dấu sau hoành phi “Chính Đại Quang Minh”. Sau đó, Càn Long định lập hoàng tử thứ bảy Vĩnh Tông con của Hoàng hậu Phú Sát Thị làm thái tử, nhưng chẳng may Vĩnh Tông chết yểu lúc hai tuổi.

Càn Long đau buồn muốn chết, năm thứ 13, Hoàng hậu Phú Sát Thị qua đời. Nguyện vọng lập con đích tông bị tiêu tan. Từ đó, suốt trong 20 năm không nói đến chuyện lập người kế vị. Không những thế, sau khi Hoàng hậu qua đời, Càn Long còn trách mắng đại a ca Vĩnh Hoàng lúc ấy 21 tuổi, vui mừng trước cái chết của Mẫu hậu, có dã tâm: “Đại a ca, tam a ca như thế là bất hiếu, Trẫm lấy tình cha con không thể để cho các người, tàn sát nhau. Sau khi Trẫm trăm tuổi, hai người không thể thừa kế ngôi vua! Đại ca ca, tam a ca, sau này bất mãn, gây ra cảnh anh em chém giết lẫn nhau, chi bằng hôm nay Trẫm giết chết các ngươi!”.

Càn Long cảnh cáo các đại thần Mãn - Hán: “Nếu có người xin lập thái tử, Trẫm sẽ trị tội ngay, quyết không tha!”.

Năm Càn Long thứ 38, lại lập người kế vị. Càn Long có cả thảy 17 người con trai, đã qua đời 10 người. Trong số 7 người con còn lại, hoàng thử thứ tư Vĩnh Thành làm cháu nuôi của Lũ thân vương Doãn Đào, hoàng tử thứ sáu Vĩnh Dung làm cháu nuôi của quận vương Doãn Hỷ, hoàng thử thứ mười hai Vĩnh Kỳ do phế hậu U-la- na-la sinh, vì là con của một phế hậu nên không có hy vọng kế vị.

Chỉ còn bốn người có hy vọng nối ngôi hoàng đế.

Hoàng tử thứ tám Vĩnh Toàn, học hành bình thường, ngang ngạnh cố chấp, không vừa lòng Càn Long.

Hoàng tử thứ mười một Vĩnh Tinh, keo kiệt. Vợ là con gái của Phó Hằng. Ông ta cất giữ toàn bộ của cải hồi môn của vợ, đến nỗi vợ phải ăn cháo cho qua ngày. Nhà có đến 80 vạn lạng bạc, nhưng không hề tiêu đến một xu, để con cháu ra ngoài trộm cắp, một hôm con ngựa của ông ta chết, ông ta ra lệnh nấu thịt ngựa thay cơm, cả nhà chẳng ai dám ăn đành nhịn đói.

Hoàng tử thứ mười bảy Vĩnh Can, thường xuyên đến chốn lầu xanh, sống kiểu dân thường. Càn Long rất ghét.

Hoàng tử thứ mười lăm, sinh đúng vào ngày 6 tháng 10 năm Càn Long thứ 25 tại vườn Viên Minh. Mẹ là Nguy Giai Thị, được phong làm quý phi lúc 24 tuổi.

Năm Càn Long thứ 38, Hoàng đế Càn Long viết di chúc lập người kế vị, cất sau bức hoành phi “Chính Đại Quang Minh”.

Vĩnh Diễm chẳng hề biết mình được phong làm thái tử.

Hoàng thất giáo dục hoàng tử hoàng tôn rất nghiêm, người ngoài khó tưởng tượng dược. Hoàng tử hoàng tôn khi đủ 6 tuổi đều phải đến thượng thư phòng học tập. Hoàng đế tự mình chọn các bậc hàn lâm đức tài toàn vẹn làm thầy dạy, dạy kinh sử, thi phú, và cử đại học sĩ, thượng thư phụ trách theo dõi giám sát đôn đốc. Và chọn một số đại thần và thị vệ người Mãn người Mông dạy chữ Mãn, dạy cưỡi ngựa bắn cung. Thượng thư phòng có hai nơi, một nơi ở trước điện Cần Chánh trong vườn Viên Minh, một nơi ở cạnh cung Càn Thanh, gần nơi làm việc hàng ngày của Hoàng đế, để lúc nào cũng có thể theo dõi giám sát.

Một hôm, ở trong thượng thư phòng, Vĩnh Diễm cảm thấy đầu óc choáng váng, ngẩng đầu không thấy các thầy ở đâu, bèn đứng dậy, mắt hoa, định thần lại, thấy dễ chịu nên bước ra khỏi phòng. Ngước mặt lên nhìn thấy những cây hòe trong vườn cành lá xanh mượt, bất giác kinh ngạc: Bây giờ mùa xuân hay là mùa hạ. Ta cứ tưởng vẫn còn là mùa đông cơ! Nên trách thời gian trôi quá nhanh, mình thì vùi đầu trong đống sách chẳng biết đất trời thay đổi. Vĩnh Diễm thong thả bước đi, nhìn thấy một cung nữ và một tiểu thái giám đang đá cầu, bỗng nhớ đến hai câu tả cảnh của Lưu Đồng: “Dương liễu chết, đá cầu chơi”. Thấy người cung nữ đá rất hay, quả cầu lúc thì bay trên đầu, lúc thì vòng qua vai, lúc thì hai chân bay lên bay xuống; quả cầu bay lượn trên đôi chân, một lát sau, tiểu thái giám đưa chân ra, quả cầu bay qua lượn lại giữa hai người, như cánh bướm bay lượn. Vĩnh Diễm thích quá, ba chân bốn cẳng chạy đến, giơ chân đá quả cầu nhưng không trúng quá cầu, lại đá trúng chân người cung nữ. Người cung nữ “ối” một tiếng, định mắng, nhưng nhìn thấy hoàng tử thứ mười lăm, vội vàng quỳ xuống:

- Tiện tỳ có lỗi xin hoàng tử thứ tội.

- Lỗi là do ta, đâu phải do ngươi? Đứng dậy, mấy người chúng ta hãy đá cầu chơi. Vĩnh Diễm cười, nói.

Người cung nữ có chết cũng không dám, Vĩnh Diễm bảo tiểu thái giám dạy, tiểu thái giám quỳ xuống, Vĩnh Diễm tự đá quả cầu mấy cái nhưng chẳng được, bèn nói:

- Hai ngươi dạy cho ta, nếu không, ta sẽ coi hai người như quả cầu.

Thấy cung nữ và thái giám vẫn quỳ, Vĩnh Diễm giả vờ nhấc chân lên đá hai người. Bỗng từ phía sau một tiếng quát to dội lại:

- Vĩnh Diễm không được vô lễ?

Tiếng quát đó không phải của phụ hoàng thì là của ai? Vĩnh Diễm vội quỳ xuống. Càn Long nói:

- Con không muốn vươn lên ư? Ham đá cầu, đến nỗi đòi đá cả cung nữ và thái giám.

- Nhi thần có lỗi, xin phụ hoàng trị tội.

Càn Long bảo thái giám và cung nữ đứng dậy, từ phòng sách rút ra một thước gỗ, bực tức quất Vĩnh Diễm mười thước, rồi nói:

- Trẫm cho rằng ngươi không muốn tiến bộ, lệnh cho ngươi ăn mặc quần áo thường dân, ra khỏi cung, cấp cho ngươi hai thị vệ, đi tìm viên đá mộc ngư, nếu không tìm ra thì đừng về cung gặp Trẫm.

Vĩnh Diễm tuy không muốn đi nhưng nào dám cãi lại quỳ xuống tâu:

- Nhi thần tuân lệnh.

Vĩnh Diễm ra đi. Càn Long gọi hai thị vệ võ nghệ cao cường đến, bảo:

- Hai ngươi theo hoàng tử thứ mười lăm đi tìm viên đá mộc ngư, nếu hoàng tử bị tổn thương, hai ngươi hãy coi chừng mất đầu đấy.

Đá mộc hoa, tiếng Mãn là “an hoa a”, người Mãn - Mông cho rằng loại đá này biết hát, nếu bạn gõ nó, nó phát ra âm thanh cực kỳ hay. Tiếng hát của nó cho bạn trí tuệ, dũng khí và sức mạnh.

Mọi người trong hoàng cung cho rằng Vĩnh Diễm bị nhốt giam. Vĩnh Diễm cho rằng phụ hoàng trừng phạt mình. Thực ra, đó là một tính toán của Càn Long: ta đã bí mật lập Vĩnh Diễm làm người kế vị, học hành trong sách vở đương nhiên là quan trọng, nhưng am hiểu tình hình dân chúng là điều cơ bản trong việc trị nước đối với một hoàng đế, nhân việc này cho Vĩnh Diễm đi tìm hiểu tình hình dân chúng, nếm mùi gian khổ rèn luyện thêm.

Hoàng tử Vĩnh Diễm dẫn hai thị vệ bước ra khỏi Tử Cấm Thành, nhưng chưa ra khỏi kinh thành, đã bị ăn đòn.

Ba người ra khỏi Tây Trực Môn, thấy một đám người vây chặt một chiếc xe ở phía trước. Người phu xe hôn mê nằm dưới đất, mọi người đang xúm lại cứu chữa, bất ngờ một người từ trong chạy ra, mặt mày dữ tợn khoác trên người chiếc áo dài, bước đến, xua mọi người ra, vực người phu xe dậy, đặt lên xe, và nói:

- Đưa anh ta về nhà, chớ để chết ở đây, thật là xúi quẩy!

Vĩnh Diễm bước đến nói:

- Sao lại coi thường mạng người thế này!

Gã kia giơ tay định cho Vĩnh Diễm một chưởng. Hai thị vệ níu lấy gã kia, Vĩnh Diễm đã né khỏi. Hai thị vệ đâu chịu để yên. Vĩnh Diễm bảo hai thị vệ dừng tay và nói:

- Hãy tha cho hắn, sau này tính sổ chẳng muộn.

Nào ngờ gã kia cười như điên, nói:

- Tên nhóc kia, ngươi chẳng biết lượng sức.

Hai thị vệ định ra tay, Vĩnh Diễm ngăn lại và nói:

- Thôi đừng tranh cãi với hắn. Nói xong, Vĩnh Diễm bỏ đi.

Gã kia lại cười như điên. Thị vệ nói:

- Sao có thể tha thứ cho bọn người như vậy?

- Phụ hoàng bảo ta đi tìm đá mộc ngư, đó là việc chính, chưa ra khỏi thành đã xảy ra việc rồi.

Hai thị vệ nghe nói có lý cũng bỏ đi. Đi được một đoạn đường, lại có mấy người chạy theo nói:

- Ba vị hãy đi nhanh lên, kẻo không bị vạ lây đấy.

- Vì sao vậy? Vĩnh Diễm hỏi.

Một người nói:

- Chiếc xe ấy là của Hòa tướng phụ, đó là người nhà của tể phụ, anh không sợ tội ư?

Vĩnh Diễm càng có ấn tượng xấu với Hòa Thân.

Ra khỏi kinh thành, đi về hướng nam, đến địa phận Bảo Định, thấy một đám người đang chạy về phía trước, Vĩnh Diễm chạy theo, hỏi:

- Tại sao các người phải chạy thế này?

- Nếu anh muốn có cơm ăn, phải chạy nhanh lên, nha dịch của quan phủ sắp đến rồi đấy!

- Các người đi làm ăn, cớ sao phải sợ như vậy?

Người kia không đáp, vội vàng bỏ chạy. Một lát sau mấy nha dịch đi đến, chặn đường nhóm ba người của Vĩnh Diễm hạch sách.

- Đưa tiền ra.

- Sao lại đòi tiền chúng tôi? Vĩnh Diễm hỏi.

- Đừng có giả vờ. Một nha dịch vừa nói vừa giơ tay ra định đánh.

Hai thị vệ vội chặn lại. Tên nha dịch tức nói:

- Các ngươi làm phản ư? Đi kiếm ăn không nộp tiền ư?

Nghe thế Vĩnh Diễm bảo hai thị vệ thả hai tên nha dịch ra, và hỏi:

- Ta đi làm ăn, tại sao phải nộp tiền?

- Ngài tri phủ có lệnh, ai không ở nhà mà đi ra ngoài kiếm ăn thì phải thu tiền.

- Tri phủ của các ngươi là ai?

- Các ngươi là người từ nơi khác đến, chắc không biết ngài tri phủ của chúng ta là Lưu Bảo Kỷ, em của Hô Thập Đồ.

- Hô Thập Đồ là ai?

- Là nội giám và là nội quản gia của Hòa tướng phụ, các ngươi không chịu nộp tiền ư?

- Ta không phải là người đi làm ăn, cớ sao phải nộp tiền?

- Người ở đây hoặc ở đâu đến đều phải nộp tiền, vào ra châu này đều phải nộp tiền.

Hai thị vệ tức giận, Vĩnh Diễm ngăn họ, móc ra từ trong túi mấy đồng tiền, đưa cho hai tên nha dịch, bấy giờ chúng mới bỏ đi.

Vĩnh Diễm đi mãi vẫn chưa tìm thấy đá mộc ngư, chỉ thấy toàn cảnh lầm than khốn khổ, dân không thể sống được, quan lại như hổ sói, chỉ biết ức hiếp dân chúng, làm gì có quan yêu dân? Tìm xem nguồn gốc, tất cả đều do Hòa Thân. Vĩnh Diễm quyết chí, diệt trừ Hòa Thân.

Ba người đến Đại Đồng, vào núi, nghĩ rằng trên núi có đá mộc ngư, gõ hết viên đá này đến viên đá nọ, chẳng thấy viên đá nào cất tiếng hát.

Một hôm trèo lên dốc núi, thấy nhiều người đang nhặt khoáng thạch, hỏi ra mới biết là họ nhặt cho xưởng bạ