← Quay lại trang sách

Chương 21 QUAN BỨC DÂN PHẢN-DÙNG BINH KHÔNG SỢ DỐI TRÁ

Quan lại thối nát dẫn đến cuộc khởi nghĩa của Bạch Liên giáo…

- Hòa Thân ý thức được rằng, Gia Khánh là kẻ thù lớn nhất của mình, tìm mọi cách dò xét Gia Khánh...

- Hòa Thân nghiến răng nói: Ngươi bạc tình bạc nghĩa, coi ta là quan hề, “đĩ đực”…

Cuộc khởi nghĩa của Bạch Liên giáo đẩy triều Thanh đến chỗ suy vong, không thể hồi phục lại như trước. Cuộc khởi nghĩa Bạch Liên giáo và cuộc nổi loạn của người Mẹo là sản phẩm trực tiếp do tình trạng quan lại thối nát trong những năm cuối đời của Càn Long.

Ở An Huy có một giáo chủ tên là Lưu Tùng, vốn là đệ tử của Phàn Minh Đức, người sáng lập ra Bạch Liên giáo và Hỗn Nguyên Giáo. Từ khi sư phụ Phàn Minh Đức bị xử cực hình, Lưu Tùng đến vùng Lộc Ấp thuộc Hà Nam truyền đạo, nói rằng ngày tận số đã đến, Phật Di Lặc sắp xuất hiện, ai là tín đồ, có hoa sen hộ thân, có thể vượt qua tai họa sắp đến, lúc đó ruộng đất bỏ không cực nhiều, tín đồ nào nộp bao nhiêu thuế thì lấy bấy nhiêu ruộng mà cày cấy, tín đồ có bổn phận cứu giúp nhau, hoạn nạn cùng chia sẻ. Vào đạo rồi, nếu không có tiền cũng có thể đi khắp thiên hạ.

Triều Thanh sau khi điều tra rõ giáo phái này, bèn cho thị vệ bí mật bắt gông Lưu Tùng giải về kinh. Hoàng thượng ra ân, đày Lưu Tùng đến Cam Túc. Đồ đệ của Lưu Tùng là Lưu Chi Hiệp, Tống Chi Thanh, nghe tin sư phụ bị bắt đi đày, đã bí mật đi theo đến Cam Túc, ba thầy trò gặp nhau.

Lưu Tùng nói:

- Hỗn nguyên giáo đã bị lộ từ lâu, triều đình đang theo dõi chặt chẽ, nếu tiếp tục truyền đạo, thì phải đổi tên. Ta đã nghĩ kỹ, nên lấy cái tên mới là “Tam dương giáo”. Sách kinh cũng nên thay đổi theo kiểu thơ ca cho dễ đọc dễ nhớ.

- Đệ tử cho rằng nên tìm một người họ Chu coi như con cháu nhà Minh, vừa đúng tâm lý chống Thanh và lòng căm tức quan lại của dân chúng hiện nay. Lưu Chi Hiệp nói.

- Nên tìm một người giả làm Di Lặc xuống trần, phù hộ tín đồ. Tống Chi Thanh nói.

Cuối cùng ba người quyết định tìm một người, đặt cho cái tên là Ngưu Bát, tên tuổi hợp lại đúng là chữ “Chu”, xem anh ta là con cháu Đại Minh, tiền đồ cực hiển vinh, của của thiên hạ, và để cho con trai của Lưu Tùng là Lưu Tứ Nhi giả làm Di Lặc giáng thế, phù hộ Ngưu Bát, giống như Khương Tử Nha phù trợ Võ Vương và phù hộ cho tín đồ thoát khỏi mọi tai hoạ. Lưu Tùng vẫn là giáo chủ của đạo này. Lưu Chi Hiệp và Tống Chi Thanh đi truyền đạo khắp nơi. Tống Chi Thanh kết nạp thêm Tề Lâm, Ngũ Công Mỹ... rồi cứ thế một truyền mười, mười truyền trăm, đồ đảng ngày càng đông. Năm Càn Long thứ 59, đã có trên 3 triệu người.

Tháng 10 năm Càn Long thứ 59, triều Thanh biết rõ sự thật, lệnh cho các nơi tìm bắt những người đứng đầu Bạch Liên giáo. Lưu Tùng bị bắt giải về kinh, các thủ lĩnh Bạch Liên giáo bị xử cực hình, chỉ riêng Ngưu Bát được thả vì “chân mạng thiên tử”. Lưu Chi Hiệp trên đường bị giải về kinh đã trốn thoát được nhờ các đồ đệ giúp đỡ. Hoàng đế Càn Long vội chỉ dụ cho quyền Tổng đốc Lưỡng Giang là Tô Lăng A: “ Tội phạm Lưu Chi Hiệp đã trốn thoát, có thể trở về quê nhà, Tổng đốc Tô Lăng A phải lệnh cho các nơi kiểm tra chặt chẽ truy bắt cho được”. Tô Lăng A đến trấn giữ vùng Thái Hoà ở An Huy, cho người đi kiểm tra, treo giải thưởng, lùng bắt, đồng thời báo các nơi như Hà Nam, Hồ Quảng, Thiểm Tây, Cam Túc, canh gác chặt chẽ những nơi hiểm yếu, truy bắt.

Thường Đan Quỳ, như phần trên đã nói, bị cách chức, nhưng vì thông qua vợ chồng Lưu Bảo Kỷ là Nạp Lan gửi biếu Hòa Thân tượng phật bằng vàng, nên được phục chức, làm tri huyện ở Vũ Xương, nay nhận được lệnh trên đưa xuống, mừng vô kể, trước nay chuyên moi móc vu cáo, giờ đây danh chánh ngôn thuận. Thường Đan Quỳ không sợ nhiều người phạm tội, chỉ sợ ít mà thôi. Hắn bắt hàng ngàn người dân vô tội, ghép cho họ vào tín đồ Bạch Liên giáo, tra tấn, bức họ đem tiền chuộc tội. Tại địa phương có một nhà giàu tên là Nhiếp Kiệt Nhân từ lâu đã được Thường Đan Quỳ để ý, muốn moi tiền, nhưng chưa có dịp, nay đúng là lúc ra tay. Thường Đan Quỳ cho nha dịch đến “thăm hỏi” nào ngờ nha dịch quay về báo, Nhiếp Kiệt Nhân chống cự. Thế là; Đan Quỳ điều lính tráng, hùng hổ kéo đến nhà cốt moi cho được tiền bạc, lấy hết tài sản vợ con của Nhiếp Kiệt Nhân, nhưng khi đến nơi chỉ thấy vườn không nhà trống, chó gà đều biến mất, bóng người cũng không. Đan Quỳ bước đến cổng nhà, thấy trên cổng viết bốn chữ: “Quan bức dân phản”. Nhiếp Kiệt Nhân vốn không phải là người của Bạch Liên giáo, nhưng lúc này đã mang hết tài sản của cải cùng người nhà theo Bạch Liên giáo.

Tô Lăng A trấn giữ An Huy, tình hình ở đấy càng căng thẳng. Dưới thôn xã có một số người chuyên lo việc cưới xin ma chay, gọi là “trùm hiếu hỉ”. Nếu ai có việc hỉ, họ sẽ giúp chuẩn bị đội nhạc, kiệu, thiếp mời, v.v... nếu ai có việc hiếu, họ sẽ chuẩn bị đội kèn trống, cờ, phướn, trướng, v.v... Có một cống sinh họ Triệu, cha chết, sắp đưa đi an táng, theo tục lệ, phải thông báo với bạn bè đã đến phúng viếng biết giờ đưa tang, mở sổ tang ra xem thấy có hơn 170 người. Cống sinh nọ viết giấy báo đưa cho “trùm hiếu hỉ” họ Vương đến từng người báo hộ. “trùm hiếu hỉ” họ Vương lại giao cho tay sai Lý Tự Bình làm việc đó. Lý Tự Bình đến từng người thông báo, tối đến nghỉ trong miếu Thành Hoàng, bị quan quân bắt tra hỏi, tìm thấy trong người y một bản danh sách có tên hơn 170 người. Viên đô tư nha môn tưởng bắt được con cá “sộp”, bèn rút roi tẩm nước quất lên người Lý Tự Bình. Lý Tự Bình khai rằng mình do “trùm hiếu hỉ” họ Vương sai đi thông báo. Lý Tự Bình điểm chỉ xong, bị chém đầu ngay, không cần biết lý do. Hơn 170 người kia và những người khác có mặt, gần 1.000 đều bị quan nha, lính tráng bắt. Tô Lăng A chẳng cần xem xét, chặt đầu 170 người kia trước, cho bêu trước cổng thành và khắp nơi. Những người khác bị tra khảo, sau đó mới rõ, biết là oan ức. Thế nhưng, cũng phải có tiền chuộc tội cơ, ai có tiền nộp thì được cho là vô tội, được thả ra; ai không có tiền thì cứ ngồi trong ngục chết dần chết mòn.

Quan lại ở các tỉnh An Huy, Hà Nam, Hồ Bắc đều như nhau cả, nhận được thánh chỉ là ra lệnh cho bọn sai dịch lòng dạ lang sói đến khắp nơi lục soát, gõ cửa từng nhà hạch sách vòi tiền, ai có tiền thì lấy tiền chuộc mạng, ai không có tiền thì bị xem là phản nghịch, ngồi tù chịu khổ. Ở những vùng quân lính đi ngang qua để dẹp giặc Mẹo như Tứ Xuyên, Hồ Nam, Quý Cháu, dân chúng bị quấy nhiễu ức hiếp, đàn bà, gia súc đều bị bắt sạch. Lúc ấy lại đang lúc triều đình có lệnh cấm buôn lậu muối, cấm đúc lậu tiền lẻ, các quan thấy ai buôn muối, có tiền lẻ đều bị tóm cổ, đều bị gán cho là đúc tiền giả, buôn lậu muối. Các quan tha hồ tuỳ tiện bắt bớ chiếm đoạt của cải của dân lành.

Ở nông thôn như vậy, tại kinh thành cũng chẳng kém.

Việc thu thuế ở Sùng Văn Môn đều do cả nhà Hòa Thân nắm giữ, ngặt nghèo đến khó tưởng tượng. Quan viên nào vào kinh công tác, qua Sùng Văn Môn đều phải nộp thuế, nếu không có tiền thì thế nào? Quan thu thuế sẽ thu giữ lại chăn màn áo quần mang theo, khi xong việc quay về đem tiền đến chuộc lại.

Thế đấy, bất cứ là dân hay nhà buôn, kể cả những người có học và nhiều nhà giàu có đều xem quan phủ là kẻ thù, bốn chữ “quan bức dân phản” là đầu đề câu chuyện, chỉ còn cách đi theo Bạch Liên Giáo nếu không thì chết.

Từ đó về sau, nếu ai đã là tín đồ thì kết thành bè đảng, cứu giúp nhau, quyết tâm hơn, một lòng theo đạo; nếu ai chưa phải là tín đồ, muốn tránh quan phủ bức hại, thì cũng tự nguyện theo đạo, chỉ sợ đến muộn.

Lưu Chi Hiệp như cá vẫy vùng trong biển cả tín đồ, không sao tóm được. Lưu Chi Hiệp đến các tỉnh hẹn ước với Trương Hán Hồ, Diêu Chi Phu, Tề Quắc Mô, Tề Lâm, v.v… đến ngày thìn, tháng thìn, năm thìn (ngày 10 tháng 3 năm Gia Khánh thứ nhất) các nơi Tứ Xuyên, Hồ Nam, Thiểm Tây, v.v... đồng loạt khởi nghĩa.

Nhưng vì thiếu thận trọng, tin khởi nghĩa bị lộ, thủ lĩnh Bạch Liên giáo ở thành huyện Tương Dương là Tề Lâm bị huyện lệnh bắt, chém đầu bêu lên mặt thành thị chúng.

Bạch Liên giáo ở các nơi lại khởi nghĩa không theo đúng thời gian hẹn ước, đua nhau nổi dậy vào tháng giêng năm Gia Khánh thứ nhất. Ngày 7 tháng giêng, tín đồ Bạch Liên giáo ở Chi Giang, Nghi Đô, v.v... do Trương Hán Mô, Nhiếp Kiệt Nhân lãnh đạo đã khởi nghĩa. Họ lấy vải trắng bịt đầu làm ký hiệu, chiếm cứ những đỉnh núi cao, đặt mìn trên đường đi vào núi, xung quanh gài bẫy đá, hầm chông, dùng mấy trăm cung tên tẩm thuốc độc và hơn 300 khẩu súng hoả mai tự chế, v.v... chống lại quan quân.

Ngày 2 tháng 2, vợ của Tề Lâm là Vương Thông Nhi, đồ đệ là Diêu Chi Phú tiến hành khởi nghĩa ở Hoàng Long Đáng thuộc Tương Dương. Tiếp theo là các vùng Kinh Môn, Lai Dương, Cổ Trại, Hán Dương, Nghi Xương thuộc Hồ Nam lần lượt nổi dậy.

Tháng 9, tại Tứ Xuyên có Thiên Đức và Vương Đăng Đình ở Đạt Châu, Lãnh Thiên Lục và Vương Tam Hòe ở Đông Hương; Tôn Tứ Bổng và Kinh Thiệu Châu ở Thái Bình đồng loạt nổi lên.

Tháng 11 tại Thiểm Tây có Bằng Đặc Sĩ ở Sơn Chi, Ông Lục Ngọc và Lân Khai Thái ở Mễ Khê, Vương Khả Tú, Thành Bách Trí, Nhữ Hà ở An Lãnh, Triều Chí Hoà, Liêu Minh Vạn, Lý Cửu Vạn ở Đông Hà liên tiếp nổi dậy.

Ở Hà Nam thì chậm hơn, mãi đến tháng 2 năm Gia Khánh thứ hai mới khởi nghĩa.

Bạch Liên giáo ở các tỉnh đều dựng cờ “Thiên vương Lưu Chi Hiệp”

Quân khởi nghĩa ở hai lộ do Vương Thông Nhi và Từ Thiên Đức lãnh đạo là khí thế mạnh nhất.

Ngày 2 tháng 3, tại Hoàng Long Đáng, ngoại thành Tương Dương, trên một mảnh đất bằng phẳng, người ta đắp lên một đài vuông bằng đất, trên đài đặt ba chiếc bàn. Bàn thứ nhất đặt bài vị của Tề Lâm, hai bàn kia, phía sau mỗi. chiếc có một người đứng. Người đứng bên phải là cô gái 20 tuổi, bận áo tang, đôi mày lá liễu kéo dài tận mép tóc mai, đôi mắt oai phong đầy thù hận; người đứng bên trái tuổi chừng 20, mắt to mày rậm, lưng hổ eo gấu. Đó là Vương Thông Nhi và Diêu Chi Phú. Trên đài, mấy mươi lá cờ màu vàng bay phấp phới; dưới đài, hơn một vạn người đều mặc áo tang, ai nấy tay trái cầm cốc rượu tay phải cầm nắm đất lấy từ ngã tư đường phố Tương Dương.

Vương Thông Nhi bước đến trước bàn thứ nhất quỳ lạy bài vị của Tề Lâm, rồi đứng dậy nói.

“Nối bước chí chồng báo thù cho chồng, diệt trừ quan phủ, chết không tiếc”. thề xong, trở về chỗ cũ, hai tay nâng chén rượu, nói to: “Có nạn cứu nhau, gặp nguy cùng chết!” Hơn một vạn người đứng dưới đều nâng cốc rượu hô to, tiếng hô vang khắp núi rừng. Thề xong, tất cả đều cắt bỏ bím tóc đuôi sam.

Vương Thông Nhi tự xưng là thống soái, Diêu Chi Phú là phó soái và tiên phong. Ngoài ra có 5 tổng binh chỉ huy 5 doanh, trong đó Diêu Chi Phú kiêm nhiệm một doanh.

Lễ thề xong, nghĩa quân hò reo kéo đi tấn công Tương Dương. Vương Thông Nhi đầu quấn vải trắng, mặc áo quần trắng, cưỡi ngựa trắng yên bạc, tay cầm song đao, cưỡi ngựa đi đầu.

Hai tên lính Thanh nhìn thấy Vương Thông Nhi dáng người mảnh khảnh yếu đuối tay chẳng có gì, mặt trắng đẹp như hoa lê, bèn thét to xông tới: “Bắt lấy con đàn bà kia, muốn sống không đấy!” Toán lính phía sau ào tới. Vương Thông Nhi mỉm cười nhìn hai tên lính, chúng vẫn chưa biết chết đã đến nơi, vỗ ngựa xông đến bắt Vương Thông Nhi, Vương Thông Nhi thúc ngựa phi tới, cặp song đao vung lên như ánh chớp sáng trắng, đầu hai tên lính rơi lăn xuống đất. Bọn lính còn lại ù té chạy, nhưng chạy đâu cho thoát. Cặp song đao của Vương Thông Nhi vung lên vung xuống bay qua bay lại, ánh thép loé sáng, trong chốc lát mấy mươi xác chết ngã gục trong vũng máu.

Ở Tứ Xuyên cũng vậy, quan bức dân nổi dậy. Quan binh chia nhau đi càn quét, nha dịch quan lại đi cướp bóc quấy nhiễu khắp nơi, cướp của giết người, chẳng từ một tội ác nào.

Tri châu Đạt Châu là Đái Như Hoàng, ngu xuẩn như Tô Lăng A, độc ác như Thường Đan Quỳ, lại rất hiếu sắc. Hắn cho bọn tay chân lấy cớ đi bắt các tín đồ để vòi tiền những nhà giàu có, và thăm dò nhà ai có gái đẹp, có của quý, bất cứ ở đâu, thành thị hay nông thôn là hắn mò đến cướp cho kỳ được, vu cáo cha mẹ họ là bè đảng phản nghịch.

Tại Đạt Châu có một nhà giàu tên là Từ Thiên Đức, không những nhiều tiền bạc mà còn có một người thiếp tuyệt đẹp. Đái Như Hoàng đem nha dịch và lính tráng bao vây nhà Từ Thiên Đức, vì không đề phòng, Từ Thiên Đức bị bắt. Đái Như Hoàng đánh đập Từ Thiên Đức, ép lấy tài sản và cưỡng hiếp người thiếp của Thiên Đức. Từ Thiên Đức trước nay thích giao du với bạn bè khắp nơi, nên khi gặp nạn, bạn bè mang của cải chạy chọt khắp nơi, nhờ vậy Từ Thiên Đức được tha. Từ Thiên Đức vô cùng căm hận, tập trung tất cả người trong gia đình theo Bạch Liên giáo dựng cờ tạo phản. Cả hai người bạn là Vương Tam Hoè, Lãnh Thiên Lộc cũng tham gia.

Triều Thanh nghe tin cho quân đi dẹp. Quân lính đồn trú trong một doanh trại cũ. Quân tinh nhuệ ở bên trong doanh trại, bên ngoài doanh trại là những lều bằng gỗ. Bao bọc bởi hào sâu mấy tượng, ngoài nữa có lính gác.

Từ Thiên Đức đem quân đến khiêu chiến, một đội người ngựa từ trong doanh trại xông ra, hai bên đánh nhau. Từ Thiên Đức rút chạy, quân Thanh đuổi theo quyết bắt cho được. Từ Thiên Đức chạy vứt cả áo giáp. Quân Thanh đánh đuổi được quân khởi nghĩa, dương dương tự đắc, cười khinh cho đó là bọn giặc cỏ, không đáng đánh, do vậy tối đến yên tâm ngủ ngon. Nào ngờ Từ Thiên Đức giả vờ thua bỏ chạy, cố ý làm cho quan quân mất cảnh giác. Ngay đêm hôm đó Từ Thiên Đức đem 5.000 nghĩa quân, tay cầm dáo dài, mặt xoa đen đỏ đủ màu, bí mật nhập vào doanh trại, mai phục nằm im.

Sáng sớm hôm sau, mây mù còn bao phủ, một tiếng nổ vang lên. Nghĩa quân hò hét vùng dậy ném vào trại quân Thanh hàng vạn quả cầu lửa. Doanh trại bùng cháy, khói lửa mù mịt. Nghĩa quân nhanh chóng dùng móc câu kéo sập lều trại quân Thanh xuống hào, đạp lên vượt hào. Trong ánh lửa chỉ thấy quân Thanh bươu đầu sứt trán, đầu rơi xuống đất.

Mặc dầu phong trào Bạch Liên giáo lan toả ra cả nước, nhưng Hòa Thân vẫn cứ tấu báo với Thái Thượng hoàng tin thắng trận. Càn Long tuy già lụ khụ, nhưng nghe tin chiến thắng dồn dập cũng hoài nghi: Tin thắng trận cứ báo về, mà sao cứ điều quân từ Đông Bắc, từ Mông Cổ, từ Tây Bắc như thế? Vì sao ngày nào cũng tăng thêm lương thảo? Ông cho rằng quan quân bất lực, nhưng lại không muốn thừa nhận điều đó. Lẽ nào quan quân không dẹp được mấy tên giặc cỏ đó? Đại tiểu Kim Xuyên, người Hồi Tân Cương, Lâm Sáng Văn, An Nam, Miến Điện đều bị ông khuất phục, lẽ nào mấy tên tín đồ này cần đến bàn tay sắt của ông? Ông cứ tin vào thắng lợi của quan quân, ông cứ tin vào đế quốc của ông là phồn vinh phú cường, bọn giặc đạo kia chẳng qua là mấy con sâu mọt trên thân cây, thật không biết lượng sức.

Một hôm, sau lúc tan triều, Càn Long nghe được mấy tin thắng trận, bỗng đầu choáng mắt mờ, người như chập chờn trên không. Hoàng đế Gia Khánh thấy Càn Long lảo đảo vội dìu đến bên cửa sổ, ngồi trên sạp. Càn Long không còn nhìn thấy vườn Minh Viên, không nhận rõ đâu là đông tây nam bắc. Mắt ông đã mờ rồi. Thiểm Tây, Cam Túc, Hà Nam, Hồ Nam, Tứ Xuyên không còn trong đầu óc ông nữa, đền đài lầu các trong vườn Minh Viên cũng biến mất. Càn Long cảm thấy mỏi mệt, gần đây thường như vậy, suốt ngày cảm thấy chân tay uể oải đầu xoay cũng thấy khó. Đành ngồi lên sạp, một lát, gọi Hòa Thân đến.

Hòa Thân đến, thấy Thái Thượng hoàng mặt hướng về nam ngồi trên cái sạp. Đây là một cái sạp con đặc biệt, có thể ngồi dựa, nằm. Thái thượng hoàng dựa vào sạp mắt lim dim. Hoàng thượng mặt hướng về tây ngồi trên chiếc ghế con. Hòa Thân quỳ xuống trước Thái Thượng hoàng tâu:

- Nô tài Hòa Thân khấu kiến Thái Thượng hoàng, Hoàng thượng.

Thái Thượng hoàng dường như không nghe và cũng chẳng lên tiếng, mắt nhắm lại tựa hồ đang ngủ. Hòa Thân quỳ ở đó rất lâu, lắng nghe có tiếng động gì không, rồi ngẩng đầu lên nhìn thấy mồm Thái thượng hoàng bá to đôi môi lập bập như muốn nói. Hoàng đế Gia Khánh ghé sát tai nghe nhưng chẳng nghe rõ được lời nào. Hồi lâu Thái thượng hoàng bỗng mở to đôi mắt ra nói:

- Chúng, tên gì?

Hòa Thân đáp:

- Vương Thông Nhi, Từ Thiên Đức

Càn Long nghe xong, lại nhắm mắt, mồm vẫn lập bập, nửa giờ sau, Thái thượng hoàng từ từ mở mắt, để Hòa Thân đi, và chẳng nói một lời. Hoàng đế Gia Khánh hết sức lo sợ.

Hoàng đế Gia Khánh theo Hòa Thân đi ra, và bảo Hòa Thân đến một nơi vắng người:

- Vừa rồi khanh tâu với Thái thượng hoàng những gì? Khanh trả lời với Thái thượng hoàng về hai tên trùm phỉ đó là có ý gì?

Hòa Thân tâu:

- Thái Thượng hoàng niệm chú bí mật của người miền Tây. Niệm chú đó, ai là người Thái Thượng hoàng hận nhất ghét nhất, sẽ chết dù không ốm đau bệnh tật. Hoặc là tai hoạ sẽ giáng xuống đầu người ấy. Nô tài nghe Thái Thượng hoàng niệm câu chú ấy, biết Thái Thượng hoàng đang nguyền rủa bọn thủ lĩnh giặc đạo, nên đã nói ra tên của hai thủ lĩnh ấy?

Hoàng đế Gia Khánh nghe vậy càng kinh hãi: Hòa Thân làm thế nào biết được tà thuật đó! Hòa Thân làm sao hiểu rõ Thái Thượng hoàng như thế! Hầu như cùng một suy nghĩ với Thái Thượng hoàng.

Hòa Thân về đến Thục Xuân Viên, nhìn thấy toàn một mầu xám xịt, bi thương, thê lương, chết chóc, cái màu thật đáng ghét.

Mang nặng nỗi đau thương về cái chết của đứa con, của cậu em, Hoà Thân căm giận mọi thứ, hận tất cả, hận cái thế giới này, cái thế giới này sao quá bất công. Hòa Thân mới bốn tuổi đã mất mẹ, mười một tuổi đã mất cha, tuổi thơ đã phải trải qua những tháng ngày đói nghèo cơ cực, cầu xin vay mượn khắp đó đây, đều bị từ chối, đều bị khinh miệt. Lúc đó, tuy tay không cầm roi, vai không khoác bị rách, không đi khắp đường phố cầm chiếc bát sứt vỡ ăn xin, nhưng còn nhục nhã hơn ăn xin! Cậu em chưa được hưởng niềm vui sướng của tuổi thơ, vừa lớn lên đang độ lập nên công danh thì ông trời đã cướp mất sinh mạng. Ông trời, sao ông bất công thế! Ngay khi lớn lên, công danh đã đạt, Hòa Lâm được ở nhà mấy ngày đâu? luôn xông pha nơi núi cao rừng sâu hoang vắng từ Tây Tạng đến Tứ Xuyên, Hồ Quảng, Quý Châu, ngay đến lễ cưới của con gái cũng không về dự được. Ông trời sao ông nhẫn tâm thế, chẳng đoái thương tí nào cậu em tôi.

Đứa con yêu dấu của tôi... nó mới biết bập bẹ hai tiếng “cha cha”. Hòa Thân không kiềm nổi, lệ rơi lã chã, nghiến răng nhìn thế giới này. Các bạn đồng liêu ư, toàn là một lũ thối tha! Họ giả vờ chúc mừng ta, chúc ta già mà lại có con, họ xúi ta đến cầu xin Hoàng đế Càn Long tổ chức “lễ đón nhận con”. Họ mới đáng chết! Đáng chết, đáng chết mới là họ!

Hòa Thân nghĩ đến Càn Long, giờ đây cũng đáng hận. Càn Long yêu cầu tiền bạc, quân nhu, yêu cầu khoái lạc, yêu cầu… yêu cầu…, tất thảy đều yêu cầu ta. Ấy vậy mà ông ta lại yêu Chu Khuê, yêu Lưu Dung, nghe lời ton hót của Kỷ Vân, lại còn cho Vương Kiệt, Đổng Hạo làm đại học sĩ.Cả một lũ thối tha, trêu chọc ta, coi thường ta, muốn ăn tươi nuốt sống ta? Còn Vĩnh Diễm, đã là Hoàng đế Gia Khánh, phải hết sức đề phòng. Uông Như Long thì biệt tăm, chẳng thấy mặt mũi đâu cả. Khi chia tay, hắn nói với ta những lời nói chứa đầy ẩn ý, có thể hắn đã nhìn thấy điều gì đây, nghe thấy cái gì đây. Ta phải đề phòng.

Ta phải cấp tốc điều Tô Lăng A về kinh làm đại học sĩ hoặc hôm nay hoặc ngày mai, phải làm ngay. Hòa Lâm đã chết, ta phải bồi dưỡng mấy viên tướng. Vĩnh Bảo, ta đã cho nắm lực lượng quân tinh nhuệ. Huệ Linh, cần cho thêm nhiều kỵ binh, điều 3.000 kỵ binh của Đông Tam Tỉnh và của Mông Cổ cho y. Nghi Miên không muốn ở Cục Quân cơ, cũng được, ta không cần nhiều người bên cạnh. Có Phúc Trường An ở Cục quân cơ đủ đối phó với tất cả, cùng với ta nắm chức Cục quân cơ trong tay. Nhanh chóng cấp cho Nghi Miên một lực lượng quân lính ra mặt trận. Thiên hạ này là thiên hạ của Càn Long, có thể không có Càn Long nhưng không thể không có ta! Thiên hạ của Càn Long là thiên hạ của ta. Ta phải cho các tướng lĩnh biết rằng, ăn uống no say, cướp bóc thoả thích, phải ra sức diệt giặc, thay ta diệt giặc, nhất định phải tiêu diệt sạch bọn phỉ, tiêu diệt thật nhanh, tướng lĩnh không làm tốt, thì hãy liệu hồn.

Hòa Thân lại hận. Ta đã nhọc lòng lo toan cho Thái thượng hoàng và Hoàng thượng, giữ vững Đại Thanh, thế mà lại có kẻ dèm pha nói xấu ta, viết câu đối thế này, nói cạnh nói khoé ta thế kia, thậm chí dán cả bài hát đồng đao trên đường phố hàng ngày ta qua lại:

“Rõ ràng Đại Nguyên, gian nịnh chuyên quyền. Tai họa căn nguyên, khởi nghĩa Hồng Cân. Phép nước sai, hình phạt nặng, dân thường oán. Người ăn người, giấy mua giấy, chưa từng thấy. Giặc thành quan, quan thành giặc, gian ngay lẫn lộn, thật đáng thương thay”.

Đó chẳng phải là nguyền rủa ta ư?

Cơm tối xong, Hòa Thân lại đến phòng Hoa Hồng đen, đứng trước gương ngắm nghía bên trái, cổ đeo chuỗi ngọc, lúc mỉm cười, lúc trợn mắt, miệng lẩm bẩm. Hoa Hồng đen thấy thế ngạc nhiên hỏi:

- Đó là những thứ trong triều, tướng phụ không phải là Hoàng thượng sao dám dùng những thứ ấy! Nếu có ai phát hiện trong nhà chứa những thứ này, thế là phạm tội đại nghịch.

Hòa Thân quay đầu lại bước đến trước Hoa Hồng đen nói.

- Ta không được dùng, thì không dùng ư?

Hoa Hồng đen thấy lạ, nhưng không nói nữa. Hòa Thân lấy tay nâng cằm cô ta, rồi hỏi:

- Ta không như Thái Thượng hoàng ư? Nàng còn nhớ ông ta ư? Nàng say mê ông ta, vậy cớ sao ông ta đuổi nàng ra khỏi cung? Nói xong, Hòa Thân xé hết quần áo của Hoa Hồng đen: - Thử xem, ta và Thái Thượng hoàng ai khoẻ nào?

Hòa Thân điên cuồng đè mạnh lên người Hoa Hồng đen, nhưng chẳng ăn nhằm gì, nên phải sử dụng chiêu cũ đã từng dùng trước đây, hai tay vỗ vào má Hoa Hồng đen, mồm gọi “Nạp Lan, Nạp Lan!” Hoa Hồng đen đáp: “Thiếp không phải là Nạp Lan, thiếp là cung nữ”. Hòa Thân mở to đôi mắt, há hốc mồm ra, cắn Hoa Hồng đen. Hoa Hồng đen lấy sức lật người lại, hất Hòa Thân nằm sõng soài trên giường, thở hổn hển ghé sát mặt Hòa Thân nói: “Tướng phụ giống Hoàng thượng nhỉ!”.

Hòa Thân vụt đứng dậy, máu nóng bừng bừng, ôm đè lên Hoa Hồng đen, nhưng chẳng còn khí thế, toàn thân run lên, xịu xuống nền nhà.

Hôm sau, Tô Lăng A làm đại học sĩ. Hòa Thân lại tâu với Thái thượng hoàng và Hoàng thượng xin cho Nghi Miên thôi chức chưởng kinh ở Cục quân cơ và phong làm tướng quân, ra mặt trận. Thế là các tướng lĩnh chỉ huy dẹp giặc đều trở thành vây cánh của Hòa Thân. Tấu báo chiến công cùng với tiền bạc của bọn họ ùn ùn vào tay Hòa Thân.

Trong Cục quân cơ, ngoài A Quế, Đổng Hạo ra, tất cả đều là vây cánh của Hòa Thân. Cục quân cơ, thực tế là lãnh địa của Hòa Thân. A Quế có danh không có thực quyền, không ai bẩm báo với ông ta những việc quan trọng. Các tướng lĩnh xuất thân từ Cục quân cơ, chỉ nhằm mục đích trấn áp cuộc khởi nghĩa Bạch Liên giáo để lập công thăng quan tiến chức, số khác thì vì muốn vơ vét tiền bạc.

Vĩnh Bảo vốn là chương kinh của Cục quân cơ, năm ngoái ( năm Gia Khánh thứ nhất) đem lễ vật biếu Hòa Thân xin được làm tướng, Hòa Thân đồng ý, Thái Thượng hoàng sau đó cho ông thống lĩnh công việc diệt giặc, vì vậy, thế lực của Vĩnh Bảo rất mạnh trong các lộ quân dẹp giặc. Vĩnh Bảo biết rằng, chỉ cần biếu tiền bạc cho Hòa Thân thì dù việc quân có sai trái đến đâu, cũng chẳng phải lo. Do vậy, bọn tay chân của Vĩnh Bảo chẳng thèm đánh giặc mà chỉ chuyên đi cướp giật của cải của dân. Chưa được một năm, Vĩnh Bảo béo ú.

Quân của Vĩnh Bảo chủ yếu là đánh dẹp Vương Thông Nhi và Diêu Chi Phú. Vương Thông Nhi hành quân không theo đường lớn, chỉ theo đường nhỏ, không đánh thành thị, chỉ đánh nông thôn, lúc ở phía đông, lúc ở phía tây, lúc ở phía nam, lúc ở phía bắc, khiến Vĩnh Bảo đầu óc choáng váng. Nếu không bị mưa to gió lớn, Vương Thông Nhi đã chiếm được Vũ Xương. Vương Thông Nhi rút khỏi Vũ Xương, triều đình lệnh cho Vĩnh Bảo chặn đánh. Nào ngờ, Vĩnh Bảo chỉ biết chạy theo đuôi, chẳng biết truy kích, càng không biết bao vây chặn đánh như thế nào? Thế là, nghĩa quân Tương Dương tràn qua bờ bắc, tiến sang Hà Nam, rồi đánh lên Sơn Tây, và quay về Hồ Bắc. Lúc này Vĩnh Bảo mới nhớ lại câu nói của Hòa Thân: “Cướp bóc của cải no nê rồi, cũng phải bắt cho ta mấy tên giặc!” Bây giờ thì đã muộn, triều đình tức giận, triệu ông ta về kinh trị tội. Hòa Thân cũng chẳng nói giúp ông ta được câu nào.

Vĩnh Bảo bị bắt về kinh, Hòa Thân tâu xin cho Huệ Linh thay, không biết Huệ Linh đã biếu cho Hòa Thân bao nhiêu tiền bạc. Huệ Linh phụng mạng thống lĩnh quân đội, đến Tương Dương định kế dẹp giặc, cấp tốc bàn với tuần phủ Hà Nam là Cảnh An đem quân đánh chặn.

Cảnh An là cháu họ của Hòa Thân, dựa thế Hòa Thân được thăng làm tuần phủ. Nhận được thư của Huệ Linh, Cảnh An dẫn 4.000 quân đến đóng ở Nam Dương, giả vờ hành quân đánh giặc, nhưng thực ra là suốt ngày rượu chè cờ bạc, chơi gái. Quân lính dưới trướng, rượu chè bê tha, vui chơi đĩ điếm, tìm không ra đĩ điếm thì sục sạo nhà dân tìm gái bất kể xinh xấu già trẻ. Từ trên xuống dưới, quan quân cứ vui chơi như vậy cho qua tháng ngày.

Tín đồ Tương Dương chia làm ba đội, tiến thẳng đến Hà Nam, như vào chỗ không người. Vương Thông Nhi và Diêu Chi Phú chỉ huy cánh quân giữa, Lý Toàn cánh quân phía tây, Vương Đình cánh quân phía bắc. Nghĩa quân áp dụng cách đánh Vĩnh Bảo trước đây, lúc tập trung, lúc phân tán, lúc phía nam, lúc phía bắc. Cảnh An chỉ trốn núp trong thành, đóng chặt cổng thành không ra. Ở Hồ Bắc, Huệ Linh cũng nằm im. Trong dân gian lúc ấy có bài hát mỉa mai:

“Giặc đến chẳng thấy mặt quan,

Giặc đi lại thấy quan quân về tìm.

Giặc đến quân lính biệt tăm,

Quan đến quân về chẳng thấy giặc đâu.

Quan với giặc cảnh này kéo mãi,

Đến bao giờ thì mới gặp nhau”.

Cảnh An tàn sát dân vô tội mạo xưng là lập công, chỉ vì ông ta là cháu của Hòa Thân, nghe theo sự xui khiến của Hòa Thân, mà thăng quan tiến chức, leo lên chức Tổng đốc Hồ Quảng!

Đô Thống Đức Lăng Thái, tướng quân Minh Lượng đem quân từng đánh giặc Mẹo trước đây đến vùng Đạt Châu, Tứ Xuyên, đánh bại Từ Thiên Đức, Vương Tam Hoè, La Tư Cử ở Hương Dũng, Tứ Xuyên đã giúp quân Thanh giết hại hàng vạn tín đồ Bạch Liên giáo. Từ Thiên Đức và Vương Tam Hoè chỉ còn một vài ngàn người, đang rơi vào cảnh nguy hiểm, bỗng được viện binh tín đồ đánh vào Thiểm Tây, vượt sông Hán Thuỷ, tiến vào Tứ Xuyên, thế là lực lượng được hồi phục thanh thế trở lại như cũ, tung hoành vùng Xuyên - Bắc.

Huệ Linh vì không chặn được Vương Thông Nhi và Diêu Chi Phú, để họ tiến vào Tứ Xuyên, hợp với quân của Từ Thiên Đức và Vương Tam Hoè nên bị cách chức lưu dùng, cho lập công chuộc tội, chịu sự chỉ huy của Nghi Miên.

Sau khi làm thống soái, Nghi Miên định ra kế hoạch hợp vây diệt địch, ý đồ buộc quân khởi nghĩa rút vào vùng Xuyên - Bắc, tiêu diệt sạch. Vương Thông Nhi và Diêu Chi Phú cũng hiểu được ý đồ đó, nên sau khi vào Tứ Xuyên, thấy ở đấy núi non trùng điệp, đường đi khó khăn, người thưa của ít, không đủ cung cấp quân nhu, bèn vội vàng tìm cách thoát khỏi vòng vây, đánh xuống Thiểm Tây. Nhưng không ngờ, giữa địa phận Tứ Xuyên - Thiểm Tây, quân Thanh đóng dày đặc cắt đứt đường đi. Vương Thông Nhi, Diêu Chi Phú và Vương Đình Chiếu bàn với nhau, tiến về Hồ Bắc. Vương Thông Nhi, Diêu Chi Phú đi đầu, Vương Đình Chiếu đi sau, hành quân theo hướng đông mỗi đội dẫn một vạn người, xuất phát từ Quỳ Châu tiến đến Ba Đông, đánh phá Hưng Sơn. Vương Thông Nhi, Diêu Chi Phú hành quân theo hướng đông bắc, xuất phát từ Bảo Chương, đến Nam Khang, tiến tới Tương Dương. Vương Đình Chiếu theo hướng đông nam, xuất phát từ Viễn An, Đương Dương, Kinh Châu, Trực Khuy. Nghi Miên lệnh cho Minh Lượng, Đức Lăng Thái đốc thúc quân lính truy kích, chỉ để Huệ Linh, Hằng Thụy ở lại bảo vệ Xuyên Trung.

Minh Lượng, Đức Lăng Thái đuổi theo nghĩa quân đến Hồ Bắc, dọc đường đánh nhau, hàng ngàn nghĩa quân hy sinh, Minh Lượng sợ Vương Thông Nhi quay về sào huyệt cũ, nên chia quân ra hai đường thuỷ - bộ, gấp rút truy kích. Đức Lăng Thái theo đường thuỷ tiến thẳng đến Kinh Châu; Minh Lượng theo đường bộ hành quân thẳng đến Nghi Xương. Đúng lúc này, triều đình điều thêm 3.000 quân từ Cát Lâm, Hắc Long Giang, Tố Luân và 8.000 ngựa từ Sát Cáp Nhĩ đến. Lực lượng của Minh Lượng, Đức Lăng Thái được tăng cường.

Vương Thông Nhi, Diêu Chi Phú rơi vào tình thế khó khăn, tổn thất nặng nề, lại quay về hướng tây tìm lối thoát. Vương Đình Chiếu cũng bị đánh mạnh, rút vào rừng núi. Nghi Miên cấp tốc tâu về triều đình, báo công xin thưởng. Thực ra, Nghi Miên không dám ra trận, nhưng vì là chủ soái, nên chỉ chuyên ra lệnh cho các tướng sĩ bên dưới đánh đấm, còn bản thân thì không quên mục đích duy nhất của mình là vơ vét của cải cho thật nhiều, nên phải xếp bút nghiên theo con đường binh nghiệp.

Tổng đốc Hồ Quảng là Tất Nguyên, xuất thân là trạng nguyên, là môn sinh của Hòa Thân, lúc ở Sơn Tây vì tố cáo Chu Khuê nên được Hòa Thân thưởng, thăng làm tuần phủ, sau đó được thăng làm Tổng đốc Hồ Quảng. Con người này xuất thân là một trạng nguyên, nhưng không đơn giản, nhát như thỏ, thấy giặc là run, tri thức đầy người, nhưng tri thức đó chỉ nhằm phục vụ vơ vét của cải trong lúc chiến tranh, phục vụ cho việc nói dối thêm bùi tai. Khi đánh giặc chỉ sử dụng một biện pháp: địch lui ta đuổi, địch tiến ta lui, địch vây ta thủ, địch ít ta vây. Vị trạng nguyên có tài dối trá này cũng có lúc hớ.

Ông ta đem quân vây đánh thành huyện Đương Dương mấy tháng mà không hạ được, bị Hòa Thân khiển trách, báo vui mà không báo buồn, đánh thành mấy tháng không hạ được mà trở thành “chiến công”. Trong bản tâu ông nói: “quân địch đào hào trên tường thành, quan quân ngày ngày bắn phá tường thành, giết chết hơn 400 tên địch”. Nào ngờ, Thái thượng hoàng 90 tuổi cũng đâm nghi ngờ hỏi: “Địch trên tường thành, quan quân bắn pháo kích, địch trúng đạn phải ngã ra phía sau, Tất Nguyên nói giết được 400 tên địch, địch ngã vào phía trong thành, Tất Nguyên ở phía ngoài thành, vậy làm sao biết được con số cụ thể? Hơn nữa, Đương Dương là một thành nhỏ, thành dày không quá 1-2 trượng, nếu đào hào trên tường thành, như vậy chẳng cần phải pháo kích, tường thành tự nhiên sập đổ ngay. Tất Nguyên là một quan văn, không thạo việc quân, lại muốn tâng công, khoe khoang khoác lác, đã tự mâu thuẫn.

Hòa Thân cảm thấy mất mặt, bởi vì sau khi nhận được bản tấu của Tất Nguyên, Hòa Thân không phát hiện được kẽ hở đó, mà cứ việc trình lên Thái Thượng hoàng.

Hòa Thân nghĩ rằng Càn Long đã 90 tuổi, không nên để ông ta lo nghĩ sinh bệnh. Nếu để Thái Thượng hoàng biết rõ sự thật, sẽ bị kích động mạnh, chịu không nổi. Càn Long là chiếc ô bảo vệ cho mình, nếu ông xảy ra chuyện gì, có phải là ta mất đứt chỗ dựa ư?

Hơn nữa, không nên để Hoàng Thượng biết rõ tình hình thật sự trong quân đội, thọc tay vào công việc của quân đội, muốn củng cố địa vị của mình, phải nắm chặt quân đội.

Lợi ích của Hòa Thân với lợi ích của Thái Thượng hoàng và Hoàng thượng nhất trí ở một điểm là trấn áp Bạch Liên giáo. Hòa Thân rất căm tức Bạch Liên giáo, do đó khi Thái thượng hoàng lệnh trừng trị các tướng ở mặt trận, Hòa Thân chẳng có lời nào nói giúp cho họ mà còn phụ họa theo, thay họ bằng người của mình, như vậy càng dễ sai khiến, càng nhận được nhiều tiền bạc. Những ai được Hòa Thân nâng đỡ, phải trung thành với ông, phải cống nộp cho ông nhiều tiền bạc, và phải báo ngay cho ông mọi tình hình, động thái trong quân đội. Như vậy, ông hoàn toàn kiểm soát mọi hoạt động ở mặt trận và căn cứ vào diễn biến của chiến trường mà tâu lên Thái thượng hoàng và Hoàng Thượng. Mỗi lần Càn Long hỏi tình hình chiến sự, Hòa Thân đều báo thắng mà không báo thua, có lúc dấu cả báo cáo từ ngoài mật trận về, tự mình xử lý, không thèm tấu báo với Thái Thượng hoàng và Hoàng thượng.

Như vậy qua sự kiện trấn áp Bạch Liên giáo, các quan và tướng lĩnh ở các tỉnh đều bị Hòa Thân khống chế, đều trở thành bè đảng của Hòa Thân.

Tất Nguyên, Nghi Miên, Cảnh An đều trở thành tổng đốc hoặc tuần phủ. Đặc biệt, Cảnh An bất tài là thế, mà lại được làm Tổng đốc Hồ Quảng, khiến mọi người phải kinh ngạc. Các tướng như Khánh Thành, Phúc Ninh, Tần Thừa Ân, v.v... trừ Ngạch Lặc Đăng ra, đều do Hòa Thân bồi dưỡng nâng đỡ. Tuần phủ, tổng đốc của các tỉnh phần lớn thuộc bè đảng của Hòa Thân, ví như Tuần phủ Sơn Đông, Y Giang A, nhờ Hòa Thân mà leo lên chức ấy, luôn luôn thư từ qua lại với Hòa Thân. Không lâu trước đó Hòa Thân có làm một bài thơ xướng họa cùng Y Giang A, đại ý tự xem mình là một cây đại thụ, che phủ lên cả nước, cành lá xanh tươi, dù cho Càn Long trăm tuổi cũng chẳng ai dám động đến ông.

Khi Gia Khánh lên ngôi, A Quế đã sang 80 tuổi, thôi giữ chức Thượng thư bộ Binh. Ông hy vọng Gia Khánh lên ngôi sẽ có sự thay đổi, nhưng thấy Hòa Thân còn chuyên quyền hơn trước đây, Thái thượng hoàng một mực nghe lời Hòa Thân, nên cảm thấy vô cùng đau xót.

Một hôm, Hoàng đế Gia Khánh bảo Quản Thế Minh rằng: “Khanh thay mặt trẫm đến thăm A Quế, chúc A Quế mạnh khoẻ”.

Quản Thế Minh đến phủ A Quế, A Quế bị bệnh đang nằm trên giường. Quản Thế Minh bước đến bên giường thì thấy râu tóc A Quế rối tung, mặt mày tiều tuy. A Quế nom thấy Quản Thế Minh ngồi lên thì được Quản Thế Minh vực dậy. A Quế nhìn thấy người lính già tận tụy tóc điểm bạc, thân hình gầy gò, bỗng cảm thấy xót xa. Hai người rất hợp nhau, nhưng bây giờ như ngọn đèn trước gió. Hai người lính già nắm chặt tay nhau, hồi lâu không nói, và rất lâu, A Quế mới cất tiếng:

- Bác cũng đã 60 tuổi rồi nhỉ?

-Vâng.

- Ta cũng đã tám mươi, thế là thọ rồi, có thể chết! Ân đức khó sánh, có thể chết được rồi! con cháu đều làm việc ở bộ, đã thoả mãn rồi, có thể chết được rồi! nhưng giờ đây ta chưa muốn chết! Chỉ của diệt được bọn chó má, dẫu chết cũng chẳng hối hận.

Quản Thế Minh lệ rơi lã chã, nghe những lời thống thiết đó, lòng đau như dao cắt quỳ xuống nói:

- Đại nhân vững tin, nhất định sống đến ngày Hoàng thượng cầm quyền! Bọn gian tặc như cây to rễ sâu, hãy vì Hoàng thượng, vì xã tắc mà lo toan, đại nhân vững tin, phải sống cho đến ngày ấy.

Thế nhưng A Quế không sống đến ngày ấy. Tháng 8 năm Gia Khánh thứ hai, A Quế từ giã cõi đời. Lúc ấy, Càn Long và Gia Khánh từ khu nghỉ mát Sơn Trang về Bắc Kinh, nghe tin A Quế mất, Càn Long bảo Gia Khánh đến bái tế trước linh cữu A Quế.

Hoàng đế Gia Khánh vô cùng thương tiếc, các quan văn võ trong triều chẳng có ai như A Quế, đức cao vọng trọng, dám chống lại Hòa Thân. Gia Khánh mất đi một cánh tay trợ thủ kiên cường đắc lực, mất đi một con người đủ tài ổn định tình hình đất nước, củng cố quân đội.

A Quế những năm cuối đời gặp phải không may, luôn bị Càn Long điều đi công tác nơi xa, hết thị sát sông nước, lại coi làm công trình, ít khi có mặt trong triều, chỉ đến lúc sức cùng lực tận mới được về triều, nhưng triều đình qua nhiều năm bị Hòa Thân thao túng, nên A Quế không có thực quyền.

Hòa Thân tuy là một đại thần quyền hành bậc nhất, nhưng khi A Quế còn sống, vẫn phải dưới A Quế một bậc. A Quế mất, Hòa Thân là người đứng đầu các đại thần quận cơ, có thể nói là mãn nguyện. Những người Hòa Thân cho là tảng đá vướng chân vướng tay như Phúc Khang An, A Quế đã kế tiếp ra đi, khiến Hoà Thân vô cùng đắc ý. Các bậc công thần của Càn Long ra đi trước Càn Long, khiến Hòa Thân nghênh ngang đắc chí, chẳng còn đại thần nào quấy rầy cản đường, chẳng còn ai cần phải để ý!

Hôm đó, Hòa Thân cưỡi ngựa đi trong Tử Cấm Thành, cảm thấy bầu trời quang đãng, thời tiết mát mẻ. Hôm qua, cũng tại nơi này, cảm thấy những toà cung điện kia đè nặng trong lòng, hôm nay nhìn thấy cung Càn Thanh, điện Thái Hòa, Thiên An Môn, Tiền Môn sao mà nhỏ bé đến thế, tựa hồ thổi một cái là bay tung, đá một cái là sụp đổ. Lại nghĩ đến mấy ngày nay khi vui đùa với Hoa Hồng đen, mình như con rồng con hổ, say sưa mê mệt, Hòa Thân ngâm nga điệu hát Côn Sơn, vừa xướng vừa bạch:

Xướng:

“Bóng con và bóng em chộp chờn trong giấc mộng.

Thoáng qua một bóng hồng, mong sao trời chóng sáng”.

Bạch:

“Bích đào say đắm gió đêm xuân,

Hồn này vương vấn tiếng tiêu sầu.

Cưỡi diều tìm kiếm bóng người đẹp

Ôi! cô gái, suốt ngày ta mơ tưởng.

Chỉ muốn cùng nàng theo gió bay,

Tương tư nhìn trộm nhớ thầm hoài,

Hận vì bao người ngăn cách trở

Khiến ta chẳng gặp Hoa Hồng đen...”.

Đến trước cung Càn Thanh, Hòa Thân xuống ngựa, bước vào cung, nhìn thấy Thái Thượng hoàng ngồi xoay mặt về hướng nam, Hoàng Thượng đứng hầu phía tây, và có cả mấy đại thần quân cơ, Hòa Thân khoái chí, cho mình đã là chủ tịch quân cơ, Thái Thượng hoàng triệu tập mọi người chắc là để xác định chức trách. Hòa Thân quỳ lạy Thái Thượng hoàng và Hoàng thượng, rồi đứng dậy bên Càn Long. Quả nhiên, công bố thánh chỉ, Hòa Thân là chủ tịch quân cơ.

Hòa Thân nhẹ nhõm như bay vút tận tầng mây, vào tận cung trăng, hôn tiên nữ Hằng Nga, và nếu đây không phải là cung Càn Thanh, Hòa Thân đã cất giọng hát to. Đang mơ màng, bỗng nghe Càn Long gọi to:

- Hòa Thân!

Hòa Thân định thần lại, đúng là Thái Thượng hoàng gọi mình, nên xoay người lại, quỳ xuống tâu:

- Có nô tài.

- A Quế là đại thần có công lao to lớn, nay A Quế qua đời khanh tiếp nhận vị trí của A Quế, các việc đều do khanh quyết định và ra lệnh, để khanh làm soái tướng, khanh tự lo liệu, khanh xem có làm được không?

Hòa Thân như bị dội một chậu nước lạnh, nghe Càn Long nói tiếp:

- Đứng đầu quân cơ không thể có quyền tự xưng là tướng quốc, từ nay về sau khanh không được viết tên khanh trên chỉ dụ của Cục quân cơ, chỉ viết đại thần quân cơ, các đại thần quân cơ khác càng không được làm vậy.

May mà Càn Long 88 tuổi, mắt mờ nên không nhìn thấy rõ được nét mặt của Hòa Thân lúc bấy giờ, chẳng cần phải đến lúc Gia Khánh ban cho ông ta cái chết, Càn Long sắp giết ông ta rồi đó.

Hòa Thân nghiến răng, mặt tái mét, đôi mắt trợn tròn như mắt cá chết, hận không thể cắn xé được Thái Thượng hoàng:

Hoằng Lịch ôi Hoằng Lịch, bao nhiêu năm qua Hòa Thân này đã hết lòng hết sức vì ông. Hai mươi năm qua, ông cần tiền ta cấp tiền, ông cần gái ta cấp gái, ông cần hưởng lạc ta thoả mãn, muốn nổi danh ta bày kế. Còn ông, ông nói ta vô công chẳng được tích sự gì, nói ta không xứng đáng làm soái tướng. Chẳng qua ông cho ta là tham lam giả dối, xem ta là tên quan hề! Ta chỉ là tên quan hề ư? Ông thật là bạc tình bạc nghĩa, ông chỉ là một người quân tử rởm, ông xem A Quế là công thần, xem ta là thằng hề, là “đĩ đực”...

Hòa Thân thầm rủa Càn Long, chẳng biết về nhà lúc nào, đi bằng gì. Ông ta như một cái xác không hồn, đờ đẫn. Người nhà cũng chẳng ai hỏi han ông, để mặc ông đi đi lại lại, để mặc ông ngủ thoả sức. Lúc cơm trưa, ông xua đuổi người nhà đi, lúc cơm tối, ông cũng không cho ai ở lại hầu.

Hòa Thân từ trong chăn gấm vùng đậy, bước ra bên ngoài, vành trăng khuyết đang lơ lửng trên ngọn cây.

Cóc cần ta có phải là tên quan hề hay không, nhưng Càn Long đã gán cho ta cái tên quan hề. Hòa Thân tỉnh táo nhận thức được địa vị của mình, địa vị trong triều đình, địa vị trong cơn mắt của Càn Long. Hòa Thân ý thức được mối nguy hiểm. Ông nhớ lại khi Uông Như Long hỏi ông, cuốn “Hồng Lâu Mộng” có ẩn ý gì. Uông Như Long đã đi, mắt đã mù, điều đó nhắc nhở ta, Uông Như Long rơi xuống hồ, mắt mù loà, vì sao lại rơi xuống hồ? Hòa Thân hướng về phương nam vái ba cái: Lão đệ, không biết giờ này lão đệ ở nơi nào, nhưng chắc lão đệ đang lo cho ta. Mắt lão đệ tuy mù nhưng tấm lòng sắt son của lão đệ vẫn hướng nhìn về ta, lão đệ cũng biết ta không thể bỏ mặc. Phủ đệ của ta, Thục Xuân Viên của ta, khanh không phải là giấc mộng, quyết không thể biến thành giấc mộng, ta phải làm cho tất cả những thứ đó thành hiện thực mãi mãi, mãi mãi, mãi mãi.

Chỉ mong vào sự sủng ái của Hoàng đế, không chắc đâu. Sự sủng ái của bậc quân vương đâu có vĩnh viễn. Nói hai vua đều sủng ái, khó lắm, chỉ một vua thôi sự sủng ái với đại thần cũng đã sớm nắng chiều mưa. Hoàng đế Càn Long chẳng phải đã trị tội Lưu Thống Huân là gì? Đã hai lần nhốt Lưu Dung vào ngục là gì? Các sủng thần xưa nay, mỗi lần thay chủ chẳng phải đều rơi vào thảm cảnh ư? Ta quyết không dựa vào sự sủng ái của các bậc quân vương. Đó chẳng qua là đền đài xây trên bãi cát.

Ta phải nhân lúc Càn Long còn sủng ái, tiếp tục xây dựng lực lượng, từ khắp nơi cho đến trong triều, từ quân đội đến chính quyền, đều thuộc phạm vi thế lực của ta, nắm chắc trong tay. Như vậy mới không thất bại. Hiện nay, con người nguy hiểm nhất là Gia Khánh. Nhưng ngoài Gia Khánh ra, còn hoàng tử nào tốt với ta đây? Phế bỏ thái tử là chuyện không dễ, phế bỏ vị Hoàng đế được lập khó chẳng khác gì chuyện lên trời? Nhưng nếu quả Gia Khánh vẫn nghi ngờ ta, ta quyết không thể có cái nhân như người phụ nữ, cái tâm như Bá Vương Hạng Vũ, ta phải tìm cách phế bỏ Gia Khánh! Nếu Hoàng đế mới được lập lại đối địch với ta, thì ta chẳng có tấc đất chôn thây?

Vậy ta nên làm thế nào đây? Ta chỉ có thể dựa vào quyền lực của hoàng gia, thế lực của hoàng gia để củng cố địa vị của ta. Trước mắt, ta dựa vào quyền lực của Thái Thượng hoàng để nắm quyền ta sẽ khống chế Hoàng thượng.

Từ nay về sau phải thận trọng hơn, phải theo dõi chặt chẽ Gia Khánh, phải cảnh giác hơn với Gia Khánh.

Làm thế nào theo dõi Gia Khánh? Nếu bên ngoài, Gia Khánh vờ nghe ta, vờ phục tùng Thái Thượng hoàng, còn bên trong, che dấu âm mưu giết ta thì sao? Lẽ nào Gia Khánh thật lòng phục tùng Càn Long và nghe ta? Gia Khánh thật kín đáo làm sao mà phát hiện được? Cho thị vệ? Cho thái giám?... Bỗng một tia sáng loé lên trong đầu óc Hòa Thân: phải đọc thơ của Gia Khánh, lời thế nào thì lòng dạ thế ấy, văn thế nào thì người thế ấy, lời ca thế nào thì chí người thế ấy. Tập hợp cả thơ từ của Gia Khánh, nhất định trong câu chữ sẽ lộ rõ lòng dạ thật. Gia Khánh dẫu như Lưu Bị tìm mọi cách che dấu ý đồ, cũng không thể qua được cặp mắt Tào Tháo của ta. Gia Khánh có giả vờ đến mấy, có âm mưu hiểm độc bao nhiêu, nhưng ta đã là Tào Tháo, mượn tay Thái Thượng hoàng trừ khử Gia Khánh, thay một Hoàng đế mới. Mượn tay Thái Thượng hoàng, trừ khử vị Hoàng đế không ăn cánh với mình, Hòa Thân chắc chắn làm được, nếu ông theo dõi thấy Hoàng đế Gia Khánh có âm mưu đen tối. Hòa Thân sẽ mượn bàn tay Thái Thượng hoàng trừ khử.

Hòa Thân tìm hiểu thêm Càn Long, biết Càn Long là nô lệ của quyền lực, say mê, tham lam, luyến tiếc quyền lực. Suốt đời của Càn Long, quyền lực là trên hết, Hòa Thân đã phát hiện ra điều đó, nên từ lâu đã cố làm vừa lòng Càn Long, đề xuất ra nhiều chủ trương tăng cường quyền lực chuyên chế của Càn Long. Càn Long suốt ngày bận rộn, sáng sớm đã thức dậy từ giờ mão, mùa hè là lúc trời bừng sáng, mùa đông lúc trời còn tối om. Cục quân cơ có mười mấy người trực ban, tối đến chỉ để lại một người trực, đề phòng trong triều đình có việc đột xuất, và mỗi buổi sáng sớm còn cử một người vào cung trước lúc tiếng trống canh năm vang lên để giúp người trực đêm. Càn Long hàng ngày từ Tẩm cung đi ra, mỗi lần bước qua cửa, là một tiếng pháo vang lên. Người trực ban ở Cục quân cơ nghe tiếng pháo nổ, vội thức dậy, và biết là Càn Long đã đến cung Càn Thanh. Người của Cục quân cơ, cứ 5-6 ngày luân phiên trực một lần, rất là vất vả. Nhưng Càn Long ngày nào cũng vậy. Những năm cuối đời, Càn Long càng ít ngủ, mỗi ngày chỉ ngủ độ hai ba giờ, bất cứ việc to nhỏ đều hỏi qua, tự mình phê duyệt các bản tấu, mặc dù trí nhớ kém, mắt mờ. Ông vẫn làm việc như trước đây thậm chí còn chăm hơn. Ông làm như vậy phải chăng chỉ vì chuyên cần? Lối sống khổ hạnh kiểu ấy là sự tham lam luyến tiếc quyền lực, là nhu cầu về chính trị và tâm lý của ông. Người có quyền lực thì có cơ hội đạt được mục đích, có cơ hội thành công, có cơ hội được người khác kính yêu ca tụng. Tóm lại, có quyền lực mới có thành tích, mới có vinh dự. Càn Long làm Thái Thượng hoàng, mà là Thái Thượng hoàng có quyền lực thật sự. Ông còn sống, quyền lực của ông không thể sứt mẻ, mất mát tí nào. Chỉ cần Gia Khánh động đến đầu dây thần kinh quyền lực đó, Càn Long phế bỏ Gia Khánh ngay, không chút ngần ngại. Hòa Thân nghĩ rằng, chỉ cần Gia Khánh đối xử khác với ta, Gia Khánh bí mật xây dựng thế lực, âm mưu cướp quyền của Thái Thượng hoàng. Nếu cần chứng cớ, có đủ, người của ta ở khắp nơi sẽ cung cấp. Vấn đề mấu chốt là tìm hiểu thế giới thật sự trong nội tâm của Gia Khánh.

Hòa Thân còn nghĩ, không nên để Gia Khánh xây dựng thế lực xung quanh Gia Khánh. Khi Hoàng đế Gia Khánh chưa lên ngôi, theo pháp chế của triều Thanh, Gia Khánh chỉ được tiếp xúc với thầy dạy của Thượng thư phòng. Ba thầy dạy Gia Khánh đã chết hai, chỉ còn lại một - Chu Khuê. Không được để Gia Khánh gần gũi Chu Khuê. Hòa Thân nghĩ rằng, gạt bỏ Chu Khuê cũng không dễ, tay Chu Khuê giỏi nịnh nọt tâng bốc lắm, tâng bốc Càn Long chẳng kém Ngọc Hoàng thượng đế. Nhưng dù thế nào, một, không để Chu Khuê ở lại trong triều; hai, không được để Chu Khuê nắm quyền lực lớn. Còn Lưu Dung? Lưu Dung được Càn Long sủng ái, nhưng già rồi vô dụng, không bao lâu nữa sẽ theo A Quế. Vương Kiệt tuy là kình địch nhưng đã bị đuổi ra khỏi Cục quân cơ, giờ ở Nội các, - Nội các thì làm được cái quái gì! sử dụng thì cứ sử dụng, nhưng chỉ là vật trưng bày mà thôi, hơn là không sử dụng. Chỉ có Đổng Hạo, vờ vĩnh, được Càn Long xem là ngay thẳng đứng đắn, tài cán phi thường. Không nên để Đổng Hạo biết nhiều chuyện, phải thẩm tra lại số tay chân của Đổng Hạo, thanh trừng những người tâm phúc của ông ta. Phải cắt bỏ lông đuôi “chim công”của ông ta. Bất luận thế nào cũng phải khống chế cho được Chu Khuê, Vương Kiệt, Đổng Hạo.

Hòa Thân quyết định:.

1. Cử Ngô Tỉnh Lan làm thị độc cho hoàng đế Gia Khánh, giúp Hoàng đế Gia Khánh soạn thảo chỉnh lý văn thư.

2. Càn Long xem ta là quan hề, vậy ta cũng xem Càn Long là “Vua hề” mượn tay ông ta bồi dưỡng cốt cán của ta, đề bạt cốt cán của ta.

3. Khống chế Chu Khuê, Vương Kiệt, Đổng Hạo; khống chế và trừ khử tất cả những ai gần gũi tiếp cận với Hoàng đế Gia Khánh.

Hòa Thân ngước mắt nhìn lên bầu trời, trăng sáng như gương, các vì sao đua nhau nhấp nháy. Hòa Thân bước vào phòng của Hoa Hồng đen, bảo dọn rượu thịt, cùng với Hoa Hồng đen nhấm nháp. Uống xong mấy chén, Hòa Thân nói:

- Đêm nay trăng đẹp, cảnh thơ, nàng hãy hát một bài nào!

Hoa Hồng đen đứng dậy, tay cầm chén ngọc, tay cầm đũa ngà vừa gõ vừa hát:

Màn thưa che gối gấm,

Liễu rũ tựa khói mờ.

Sắc thu dần mờ nhạt,

Tóc mai vương má hồng,

Hương thơm mộng uyên ương,

Nhạn bay đêm sắp tàn.

Cắt xén cho bằng nhau,

Trâm ngọc cài lên đầu.

Hòa Thân nhìn Hoa Hồng đen, thấy nàng đẫy đà hơn trước, nhưng lại yểu điệu thướt tha hơn, eo lưng thon thả, làm nổi bật chiếc mông, cặp vú tròn lẳn, ánh mắt đượm vẻ buồn man mác, ẩn dấu một tình cảm cháy bỏng, nước da đen bóng lên màu hồng, khiến người nàng như trong suốt long lanh.

Thoạt đầu nàng như nụ hoa hé nở, giờ đây, như đã đẫm nước bung ra, phô bày tất cả nhuỵ hoa và toả hết cỡ mùi thơm.

Hoa Hồng đen thấy Hòa Thân say đắm nhìn mình, mắt cứ trân trân, nên làm ra vẻ ngượng ngùng xấu hổ, thoáng rùng mình, nàng biết rằng; lát nữa, Hòa Thân sẽ như chú mèo đói làm nàng đau khiếp, như con sói dữ làm nàng chết khiếp. Hoa Hồng đen đang định quay về ngồi, Hòa Thân bỗng gọi; “Đứng lại, đứng lại không được đi, hãy để ta nhìn”. Hòa Thân đi một vòng, nhếch mép cười, lắc đầu mấy cái rồi xoã mái tóc của Hoa Hồng đen xuống. Mái tóc đen như dòng suối tuôn chảy. Lúc này Hoa Hồng đen nhũn cả người tưởng Hòa Thân sắp cắp mình lên núi Vu Sơn để giở trò mây mưa trăng gió. Nhưng không ngờ Hòa Thân chẳng ôm nàng mà chỉ nói một câu:

- Thật đáng tiếc!

- Tướng phụ nói gì vậy?

Hòa Thân nâng mái tóc Hoa Hồng đen nói:

- Đáng tiếc cho mái tóc này!

- Mái tóc này có gì mà đáng tiếc?

Hòa Thân không đáp, lệnh cho nữ tỳ mang kéo đến, rồi nói:

- Đứng im, tóc nàng có mấy sợi bạc trắng để ta cắt bỏ hộ nàng.

- Sao thiếp chẳng thấy?

- Ta đã cắt bỏ rồi nàng làm sao mà thấy được.

Vừa dứt lời, mái tóc đen như dòng suối đã rơi xuống đất Hoa Hồng đen mặt tái mét, toàn thân run lên:

- Tướng phụ, vì sao phải thế này?

Hòa Thân ấn nàng ngồi xuống ghế, vừa cười, vừa nói:

- Hãy ngồi im.

Hoa Hồng đen đâu dám trái ý, cứ vậy để Hòa Thân tuỳ ý sửa lại mái tóc cho nàng. Hòa Thân sửa đi sửa lại một hồi lâu, cắt xong, hết ngắm bên này lại ngắm bên kia, vỗ tay khen ngợi, Hòa Thân bảo nàng đứng dậy, nhưng nàng bủn rủn chân tay, nghĩ rằng mình sắp bị tống lên am ni cô; nghĩ rằng cung nữ xuất cung, đại thần như tướng phụ dâu dám giữ mình lâu trong nhà; nghĩ rằng, sẽ đưa mình đến Thục Xuân Viên, bắt chước kiểu trong “Hồng Lâu Mộng”, muốn ta làm Diệu Ngọc. Hòa Thân luôn mồm nói Thục Xuân Viên giống Địa Quang Viên, cũng có 12 cô gái, còn thiếu một Diệu Ngọc, hôm nay bắt ta cho đủ.

Bỗng, Hòa Thân bê nàng lên, nhìn đi nhìn lại mấy lượt khắp người nàng, tấm tắc khen: “Đúng là tiên nữ xuống trần. Không! Là nữ phò mã?” rồi kéo Hoa Hồng đen đến trước gương thay quần áo. Hoa Hồng đen nhìn thấy người mình trong gương, nhỏ xíu, thoạt đầu cả kinh, nhưng lại thích thú ngay, nhìn đôi mày thon dài càng sắc nét, ánh mắt long lanh. Và nhờ có mái tóc cắt ngắn, dáng vẻ yểu điệu của nàng che dấu một sức mạnh, cái dịu dàng của nàng hiện lên sức nóng của tuổi trẻ, cái lãng mạn của thanh xuân. Lúc này, Hoa Hồng đen mới hiểu rõ ý của Hòa Thân, và xoay mình ôm chặt cổ Hòa Thân, hôn lấy hôn để, hôn mắt, hôn mày, hôn mũi, hôn môi, nàng mút với tất cả sức lực, với tất cả tình yêu. Hòa Thân ôm eo lưng nàng, xoay chiếc ghế bước đến giường, vén màn lên. Nàng thì, đôi môi đầu lưỡi dính chặt không rời. Hòa Thân thì tinh thần phấn chấn, tựa hồ trẻ lại hai mươi tuổi. Đêm ấy, Hoa Hồng đen chiều hết cỡ, Hòa Thân thi thố hết tài năng.

Xong việc, Hoa Hồng đen ngã người lên ngực Hòa Thân, Hòa Thân vuốt ve đôi vai nở nang của nàng.

- Nàng đúng là Diệu Ngọc, viên ngọc đen dẹp nhất, kỳ diệu nhất trên đời này. Hòa Thân vuốt tóc nàng rồi nói tiếp: - Ngày mai ta cho người đi tìm chỗ ở cho Diệu Ngọc của “Hồng Lâu Mộng”, chọn cho nàng một cái am tinh khiết, chẳng phải tốt sao?

- Cũng được, nhưng không nên gọi là “am”, tướng phụ nên đặt cho nó một cái tên, và nói cho thiếp nghe xem nào.

- Gọi là “Trăng lồng hoa hồng&rdqu