← Quay lại trang sách

PHẦN VI

Còn có mười lăm con sói ư? Câu nói này của ông như một mũi tên bắn vào tai tôi. Trong tất cả các báo cáo công tác của chính quyền mà tôi đã nghe, chưa bao giờ tôi được nghe một vị lãnh đạo nào khi giới thiệu “lưng vốn” của địa phương mình lại khoe còn có sói! Nhưng ông chủ tịch địa khu Thương Châu khi nói câu này, giọng vẫn bình thường, không tỏ ra cố ý đặc biệt, cũng không có vẻ gì hóm hỉnh. Tôi cảm thấy ngạc nhiên xen lẫn thú vị ở chi tiết này. Tan họp, tôi dành riêng thời gian đi phỏng vấn ông chủ tịch địa khu.

-Thưa ông, - tôi hỏi - trong báo cáo, ông có nhắc đến sói, còn mười lăm con phải không ạ?

-Phải, mười lăm con sói.

-Là ông nói đến sói ở vườn thú Châu Thành?

-Không, sói hoang dã chứ.

-Làm sao ông biết là mười lăm con?

-Tôi cử người đi tổng điều tra, chúng tôi ghi số cho từng con sói, có cả thảy mười lăm con.

-Như thế có nghĩa sói là một tài sản của Thương Châu?

-Đương nhiên rồi! - Ông chủ tịch đắc ý “Nếu không có sói thì Thương Châu sẽ ra sao? Người thành phố các anh không hiểu dân miền núi đâu. Nói một ví dụ đơn giản nhé, trẻ con ở miền núi nếu ban đêm mà khóc nhè, người lớn đời nọ tiếp đời kia bao giờ cũng dọa: “Đừng khóc, sói đến đấy!”, chúng liền im bặt. Nếu không có sói, anh thử nghĩ...

- Tôi hiểu điều này, trẻ con sợ sói lắm. - Tôi nói - Nhưng không có sói thì chẳng phải tốt hơn sao?

- Vậy thì trẻ con cứ khóc hoài.

Tôi cười:

- Ông là một người theo chủ nghĩa bảo vệ môi trường sinh thái!

- Tôi là chủ tịch địa khu! - Ông trả lời. Và ông chủ tịch địa khu đã cho tôi hiểu một đạo lý lớn - Anh biết không, vùng núi Thương Châu có thỏ rừng, có chồn, dê bụng vàng. Dê bụng vàng để xuất khẩu. Nhưng khi sói ít đi, anh chắc chắn cho rằng dê bụng vàng sẽ càng nhiều lên chứ gì? Không, dê bụng vàng cũng ít dần, không phải do nguyên nhân chúng bị săn bắt, mà bản thân chúng ốm chết. Sói ăn dê bụng vàng, và trong quá trình bị sói săn đuổi ấy, thì dê bụng vàng lại tồn tại một cách khỏe mạnh... Con người của thế hệ trước lớn lên trong nỗi sợ sói; nếu không có sói, loài người sẽ không còn khiếp sợ nữa. Nếu trẻ em sau này nói với người lớn: “Mẹ ơi, con sợ!”, thì những người lớn sẽ càng sợ bởi nỗi sợ của trẻ em. Anh đã đến mỏ dầu chưa? Tôi đã từng làm việc ở mỏ dầu năm năm, nếu một đội giếng khoan không có đàn bà, thì bọn đàn ông khỏi cần xây nhà vệ sinh, cũng không màng chăm sóc bản thân, dần dần ngay đến sự rung động tình dục cũng không có, sống chẳng khác gì gấu mèo lớn.

- Ồ, nghe nói cơ sở chăm sóc sinh sản và bảo vệ gấu mèo lớn ở Thương Châu đã thụ tinh nhân tạo thành công cho một con gấu mèo, nó đã có chửa, phải không ạ?

- Phải. - Ông chủ tịch địa khu bỏ kính ra, tay xoay cái bút chì duyệt văn bản - Sở dĩ gấu mèo lớn trở thành tài sản quí của nhà nước, là bởi vì chúng mất dần khả năng thích ứng với môi trường sinh tồn, thiếu tính dục, thời kỳ động cỡn rất ngắn, khó có chửa, chửa rồi thì có đến chín phần mười khó đẻ. Anh thử nghĩ, hiện nay con người càng ngày càng đông, diện tích rừng càng ngày càng bị thu hẹp, điều này vốn đã là nguy cơ đe dọa chí mạng đối với sự sình tồn của lũ sói. Nếu con người cứ tiếp tục săn bắt, cuối cùng sẽ có ngày số phận của sói cũng giống như số phận của gấu mèo lớn, cho nên chúng tôi đã ban bố chỉ thị cấm săn bắt sói.

Tôi chưa thật sự nhìn thấy sói bao giờ, chỉ trông thấy một con trong vườn thú của thành Tây Kinh, đã vậy hôm đi chơi vườn thú, sói cứ nằm lì trong chuồng không ra, chỉ thò mỗi cái đuôi dài như cán chổi gác lên cửa chuồng... Nhưng với sự nhạy cảm nghề nghiệp, tôi biết mình đã gặp một đề tài sáng tác vô cùng hấp dẫn. Lúc ấy, tôi thầm nghĩ, trên thế giới này, những người chưa tận mắt nhìn thấy sói có thể khá đông, song có lẽ không ai là chưa từng nghe nhắc đến tên sói và những câu chuyện tanh mùi máu sói. Là người có quan hệ huyết thống ở Thương Châu, lại chịu sự giáo dục sâu sắc của người địa phương đã từng chịu tai họa sói, quan điểm của tôi khác với ông chủ tịch địa khu. Ông ấy là người ở nơi khác, ông và gia đình dòng họ của ông chưa từng chịu sự nguy hại mà sói gây nên. Với tôi, cả Thương Châu chỉ còn mười lăm con sói là một chuyện thở phào nhẹ nhõm. Nhưng xét về mặt lý lẽ, tôi lại không thể không đồng ý với quan điểm của ông chủ tịch địa khu. Theo tin tức từ báo chí, thì trên trái đất này, mỗi năm có vài trăm loài sinh vật bị nguy cơ tuyệt chủng đe dọa, nếu cứ tiếp tục tốc độ này, loài người sẽ đứng trước một cảnh tượng đáng sợ biết chừng nào. Vậy mà trong báo cáo công tác của chính quyền, một ông chủ tịch địa khu đã nhắc đến việc bảo vệ và cấm săn bắt sói. Chuyện này nếu không là có một không hai, thì cũng thật hiếm hoi trong bối cảnh khá phổ biến hiện giờ là các quan chức chỉ lo sốt sắng lập công và nghĩ đến những món lợi trước mắt, tôi nên nhiệt liệt hưởng ứng và tích cực phối hợp mới đúng, Đương nhiên chuyện khiến tôi ngạc nhiên và say mê là ở chỗ: Mối nguy hiểm đe dọa loài người bấy lâu nay sẽ có thể biến thành một thú vui để con người thưởng thức. Hàm ý của nó bỗng dưng kích thích ham muốn sáng tác đã lạnh tanh chết cứng từ lâu nay trong tôi. Tôi đề nghị ông chủ tịch, liệu có thể cho tôi được xem hồ sơ liên quan đến mười lăm con sói này không, và nếu được, tôi sẽ chụp ảnh cho chúng. Ông chủ tịch vỗ tay đánh bốp, thậm chí còn bóp chặt vai tôi, khen tôi có ý định tuyệt vời. Ông nói, đã xây dựng hồ sơ tài liệu gì đâu, mới chỉ ghi số thứ tự và đánh số từng con thôi, mà mọi tài liệu đầu tay này thì nằm cả trong tay anh thợ săn tổng điều tra kia.

- Tôi sẽ báo cho người thợ săn ấy đến gặp anh.

Vậy là tôi bỏ hẳn ý định ban đầu chỉ phỏng vấn lấy tài liệu một cách ứng phó qua quít rồi lập tức trở về Tây Kinh. Thôi thì đã đến đây, cứ yên chí ở lại, tạm thời ở Châu Thành một thời gian, chờ đợi sự bố trí sắp xếp của ông chủ tịch. Tôi đoán mình sẽ phải làm một công việc quan trọng, bỗng chốc tôi hoàn toàn chìm đắm trong ý thức bảo vệ và hoài niệm sói. Có thể nói, tôi đã đứng lên thành Phật, trở thành một người theo chủ nghĩa bảo vệ môi trường sinh thái một cách đột biến, tôi thề từ đây không giết súc vật nữa và bắt đầu ăn chay. Rồi ngay sau đó đã xảy ra hai sự kiện khiến tôi càng thêm giác ngộ. Một là, lúc đi dạo trong sân khách sạn, rõ ràng tôi nhìn thấy một cô gái ở lầu một nhìn trộm qua cửa sổ, nhưng khi đi đến gần, thì đó lại là một cây hoa đinh hương. Hai là, khi đi qua vườn hoa giữa phố Châu Thành, tôi thuận tay ngắt luôn một cành hoa nguyệt quí, cả cây nguyệt quí đã rung lên dữ dội, cành hoa bị ngắt tự dưng phình to và đen thẫm, sau đó tứa ra một chất nước màu trắng, còn bông hoa đang nở thì cụp ngay vào, cánh hoa rơi lả tả. Điều này khiến tôi ngạc nhiên hết sức, vạn sự vạn vật đều có mạng sống và linh hồn ư? Rồi tôi nghĩ đến câu hỏi: -Cái gọi là linh hồn bất tử là gì nhỉ? Khi còn sống, bà nội tôi thường nói đến hai chữ luân hồi, luân hồi là gì nhỉ? Có phải sau khi người ta chết, linh hồn tách ra khỏi thể xác, lượn lờ trên bầu trời hay không? Nếu đối ứng được, thì trong khi bay lượn, gặp một con ong mật đem phân hoa của cây này rắc vào hoa của một cây khác, linh hồn ấy sẽ ở lại để rồi một cây mới sẽ mọc lên. Và khi cây mới mọc này đến một lúc nào đó sẽ chết, thì linh hồn lại bay lên trời, vừa may gặp một con lợn đực và một con lợn cái đang giao phối, linh hồn liền nhập vào, và một con lợn mới sẽ ra đời... Nếu có thể như vậy, thì mọi sự sống trên trái đất này đều bình đẳng, kiếp này tôi là người, liệu kiếp trước có phải là một con lợn? Còn kiếp sau thì sao? Có lẽ sẽ là một con sói, con cá, một thân cây ngọn cỏ, hoặc là một con hổ lớn trán trắng mắt xếch... Càng nghĩ viển vông như vậy, tôi càng thấy tâm thần mình có gì đó bất ổn, toàn bộ con người tôi chẳng có vẻ gì là một hậu duệ của Thương Châu, hay nói cách khác, tôi đã phản bội các bậc tổ tiên dòng giống của mình, đã nảy sinh cảm giác thân thiện đối với sói mà ngay đến bản thân cũng phải ngạc nhiên.

Ở lại Châu Thành, tôi bỗng dưng cảm thấy thư thái nhẹ nhõm hẳn, Tây Kinh đã trở nên xa vời đối với tôi. Sáng sớm dậy không phải húp cháo mạch nấu đặc sệt như gỉ mũi, khỏi phải nuốt năm viên vitamin C và hai viên vitamin E theo yêu cầu của bà xã. Buổi tối cũng không nhất thiết phải đánh răng, rửa chân thì mới được lên giường. Điều lạ lùng là bệnh viêm khoang miệng mãn tính của tôi lại đỡ đi nhiều. Vào buổi chiều ngày thứ ba, khi tôi sốt ruột đi đến trụ sở ủy ban hành chính tìm ông chủ tịch Châu Thành hỏi bao giờ có thể gặp người thợ săn tổng điều tra kia, thì ông chủ tịch lại vỗ tay, bảo đang định tìm tôi.

- Ghê gớm quá, Thương Châu sắp có chuyện lớn rồi! - Ông nói - Anh biết không, chuyện này sẽ chấn động cả nước, con gấu mèo lớn duy nhất nuôi ở cơ sở chăm sóc sinh sản và bảo vệ gấu mèo lớn tại thành trì cũ đang ở vào thời kỳ chuẩn bị sinh nở.

- Ồ, vậy ư! - Tôi đáp.

- Hình như anh không xúc động thì phải?

- Hẳn nhiên đây là việc vui mừng, nhưng tôi lại khát khao chụp ảnh cho mười lăm con sói hơn.

- Nhưng chuyện này quan trọng, khẩn cấp lắm, anh nên đến đó lấy tài liệu, ghi chép tỉ mỉ tình hình, đưa tin cho đồng bào trong nước biết.

Tôi đã đi đến đó, kết quả là con gấu mèo lớn đã chết trong lúc sinh nở khó khăn, con nó đẻ ra nhỏ như con chuột rất đáng thương cũng chết ngoẻo chưa đầy hai tiếng đồng hồ sau đó.

- Đây là lần buồn tình nhất trong cuộc đời đi lấy tin viết bài của tôi. Nhưng như một định mệnh, ở đó tôi đã gặp được người cậu của mình.

Tôi đi đến cơ sở nuôi gấu mèo lớn. Chủ nhiệm Thi Đức và nhóm chuyên gia khoa học của ông đã tiến hành nhiều cuộc kiểm tra chất kích thích đối với con gấu mèo lớn mang tên là Hậu, phân tích số liệu và quan sát trạng thái hành vi của nó trước khi đẻ, họ đã nhận định ngày đẻ chỉ trong vòng hai ba hôm nữa. Tôi nhìn con Hậu đã bỏ ăn sáu ngày, một con vật đần độn và yếu đuối quá thể, nghĩ bụng, tại sao người ta lại đặt tên nó là Hậu nhỉ? Tôi không biết ở những cơ sở khác của nhà nước có con gấu mèo nào tên là Hoàng không? Nhưng con Hậu này trông sao mà khốn khổ khó coi đến thế. Thi Đức giới thiệu rằng, gấu mèo lớn là loài động vật cô độc nhất trên thế giới, hầu hết chúng đều sống đơn độc và không có tính dục. Trong thời gian động đực ngắn ngủi, nhất định phải cho chúng gặp đối tượng giao phối. Gặp đối tượng giao phối rồi vẫn chưa chắc đã xảy ra giao phối, bởi vì biểu hiện giao phối của chúng không phải là niềm sung sướng mà hết sức đau khổ. Cho dù đã giao phối, song liệu có mang thai hay không, cũng hết sức mong manh. Và nếu có mang thai thì con gấu mèo mẹ nặng cả trăm kilôgam đẻ ra đứa con chỉ khoảng mười gam, tỉ lệ sống cũng chỉ là mười phần trăm... Nghe vậy, tôi hết sức ngạc nhiên và nghĩ ngay đến sói, sau đó nghĩ đến người. Đến một ngày nào đó, liệu loài người cũng sẽ rơi vào nghịch cảnh này? Tôi từng đọc một tài liệu nghiên cứu, trong đó có viết rằng, loài người đã bắt đầu thoái hóa, lượng phóng tinh của một người đàn ông bình thường hiện nay so với lượng phóng tinh của một người đàn ông bình thường cách đây năm mươi năm đã giảm đi một phần năm, tỉ lệ tinh trùng cũng giảm hai mươi phần trăm. Lúc mới đọc, tôi chỉ cười hì hì mấy tiếng rồi quên, nhưng khi đến cơ sở chăm sóc sinh sản và bảo vệ gấu mèo lớn này, tôi mới cảm thấy một nỗi sợ hãi thật sự, khiến tôi càng chú trọng ghi chép tình hình sinh đẻ của con gấu mèo. Tôi đã tham gia vào nhóm nghiên cứu của chủ nhiệm Thi Đức, bận rộn với việc sinh nở của con Hậu. Quả nhiên sang ngày thứ ba, con Hậu chuyển dạ đẻ, tôi đã ghi lại tỉ mỉ quá trình sinh nở của nó.

Chín giờ năm phút, con Hậu vỡ ối. Nó tỏ ra đau đớn khó chịu, đi đi lại lại suốt trong chuồng, thỉnh thoảng nó lại nằm ngửa ra đất quằn quại, lưng sau cong tớn, mông đít sưng tấy.

Chín giờ mười phút, con Hậu ở tư thế ngồi, nó bắt đầu kêu rên, khóe mắt ứa ra nước vàng, bàn chân trước chống đất, đầu gục xuống. Sau đó, nó cuộn tròn lại, mồm há ra, lưỡi cứ liếm nước ối chảy ra ở âm hộ và xung quanh.

Chín giờ hai mươi phút, con Hậu ngẩng đầu lên, tiếng rên càng thê lương, sau đó nó ngửa mình nằm xuống, thở hổn hển, không rên nổi nữa, chỉ thở rốc, mắt đờ đẫn nhìn tôi.

Chín giờ ba mươi phút, toàn thân con Hậu tì sát vào vách tường, phát ra một chuỗi tiếng kêu đặc biệt. Tôi nhìn Thi Đức, Thi Đức lắc lắc đầu, bẻ gãy một đốt tre cầm trong tay. Có thể do đau đớn không chịu nổi, con Hậu lại lồm cồm lăn người đứng lên, nhưng liền ngã lăn quay, nó lại bò dậy, đứng sát vào tường, hai chân sau cứ run lên bần bật.

Chín giờ bốn mươi phút, con Hậu ngã sấp ra đất, đầu gục dưới bụng.

Chín giờ năm mươi phút, con Hậu co mình vào phía trong thành hình bán nguyệt, bụng nó run rẩy mạnh. Tôi khẽ hỏi Thi Đức, liệu có phải mổ để lấy con nó ra không? Thi Đức nói, thai nhỏ lắm, khi mổ bụng, dù chỉ một dồn nén nhỏ cũng gây nguy hiểm đến tính mạng của gấu mèo con. Hơn nữa, mổ xong rồi, gấu mèo mẹ khó phối hợp với người xử lý vết thương. Một cơ sở ở Tứ Xuyên từng xảy ra chuyện không chữa khỏi vết thương, đã làm cho gấu mèo lớn bị chết.

Mười giờ hai phút, con Hậu lại chống thân đứng dậy, đi đến cạnh cửa ngồi xuống, năm khí quan co quắp, nó lại cúi xuống liếm nước ối ở âm hộ.

Mười giờ năm phút, con Hậu thở rốc. Đột nhiên nó kêu lên những tiếng tưởng xé tim rách phổi. Thi Đức lập tức dặn dò: Chú ý, sắp đẻ đấy! Nhưng con Hậu lại nằm ra đất thở hồng hộc, kêu khóc như trẻ con.

Mười giờ mười phút, con Hậu bám chặt móng trước vào lan can sắt, kêu rên dữ dội. Thi Đức nói: “Gấu mèo lớn đẻ con chẳng theo quy luật thời gian mang thai nào cả, ngắn nhất là bảy mươi ngày, dài nhất có thể tới một trăm tám mươi ngày. Chúng tôi đã theo dõi con Hậu hai tháng nay, trực ban hai mươi bốn tiếng trên hai mươi bốn tiếng trong chuồng đẻ, trước lúc nó đẻ thì thường xuyên ngồi chờ tại chỗ”.

Mười giờ hai mươi lăm phút, con Hậu vẫn giãy giụa, kêu rên.

Mười giờ hai mươi chín phút, con Hậu bắt đầu rặn, nó kêu rên giãy giụa dữ dội hơn, rặn mãi mà vẫn chưa đẻ được. Mọi người căng thẳng tới mức vã mồ hôi, chuyên gia họ Hoàng ngồi bệt trên nền đất ở cửa chuồng, mặt ông vàng như sáp.

Mười giờ ba mươi tám phút. Thi Đức bưng nước đường glucô và chất năng lượng ATP bón cho con Hậu. Con Hậu ăn uống một cách cố gắng cực nhọc.

Mười giờ năm mươi phút. Con Hậu nằm phủ phục, đầu ngả tì lên đất. Nếu thời gian khó đẻ kéo dài, gấu mèo con bị chèn trong tử cung sẽ nguy hiểm đến tính mạng. Thi Đức bàn với chuyên gia họ Hoàng mấy lời, rồi đi đến quyết định: Tiêm thuốc thúc đẻ.

Mười giờ năm mươi lăm phút, tiêm thuốc thúc đẻ, chuyên gia họ Hoàng cầm ống tiêm, động tác nhanh gọn, con Hậu không bị hoảng sợ gây cản trở.

Mười một giờ mười ba phứt, con Hậu gục đầu vào lan can sắt, nó lại tì sát tường một cách nôn nóng không yên.

Mười một giờ ba mươi phút. Ôi, giây phút phấn chấn lòng người đã đến. Con Hậu đứng tại chỗ, hai chân sau đạp vào trong, nó rặn, cứ rặn, rặn mãi! Một cái gì nho nhỏ xuất hiện ở bên dưới nhưng lại thụt ngay vào. Mặt Thi Đức xám ngắt, hai tay nắm chặt kêu lắc rác.

Mười một giờ ba mươi ba phút. Con Hậu lại tì đầu xuống đất một lần nữa. Đúng rồi, rặn tiếp đi! Phụt một tiếng, một mạng sống non nớt cuối cùng đã ra đời, đứa con gấu mèo rơi xuống đất. Nó nhỏ xíu, chỉ bằng con chuột. Con Hậu quay ngoắt lại, há mồm tha lấy con, đi gấp về phía chúng tôi mấy bước, rồi đột ngột gục xuống đất.

Sự ra đời của đứa con gấu mèo lớn không có tiếng khóc oe oe như trẻ con chào đời. Hình ảnh mà tôi nhìn thấy là nó động đậy cánh mũi, có vẻ như cười. Tôi còn đang ngạc nhiên, chưa giải thích nổi điệu cười này, thì gấu mèo mẹ đã lăn quay ra chết. Sau đó, con nó cũng ngoẻo luôn. Thì ra nụ cười của gấu mèo con là một sự trào lộng, nhằm chứng minh sự ra đời của nó là để thôi thúc cái chết của gấu mèo lớn. Sự việc xảy ra khá đường đột, chẳng khác gì một tia chớp trong đêm tối, sáng lóe lên soi rõ tất cả, nhưng sau đó đêm tối càng mịt mùng hơn.

Gấu mèo lớn chết đi, để lại một lũ chuyên gia nghiên cứu gấu mèo lớn.

Cơ sở chăm sóc sinh sản và bảo vệ gấu mèo lớn chìm trong cảnh buồn thương lạnh lùng. Tôi ném tung tập tài liệu ghi chép quá trình sinh đẻ của gấu mèo, cầm máy ảnh đứng dưới hiên nhà, cái sân to rộng bỗng dưng quay tròn, y như cái mâm cối xay lớn đang quay. Xác con gấu mèo lớn hai màu đen trắng nằm chết cứng trên ngưỡng cửa chuồng. Trên bầu trời xuất hiện một đám mây màu chì, tôi nghĩ linh hồn của gấu mèo lớn đã bay đi. Bánh bao hấp trong nhà bếp xếp trên mâm bốc hơi ngùn ngụt, cuối cùng đã nguội lạnh. Chỉ có con chó nhỏ Phú Quí mồm ngậm khúc xương đi lại trong sân, nó đạp một chân sau vào cây, đái xè xè một cách tỉnh bơ. Thi Đức cùng đi với một người thợ săn đầu hói, sau đó người thợ săn đến nhà dân bản đèo về rết nhiều khoai tây chín, rồi bỏ vào cối đá giã làm bánh, cái chày gỗ giã sao mà nặng nề chậm chạp. Chuyên gia họ Hoàng mặc bộ quần áo rộng thùng thình, người ông trông chợt gầy mảnh khảnh hẳn đi. Ông cất giọng hát một điệu gì đó, vừa hát vừa chạy gằn đi đi lại lại, y như hình người bằng giấy trong các đồ tế lễ ở thôn quê. Đàn bà buồn thì đi rông, đàn ông buồn thì hát, tôi lo ông ta phát điên. Quả nhiên ông điên thật, cứ ngửa mặt lên trời cười, cười chán rồi khóc rống lên, xô vào đánh nhau với bà con của chín gia đình dân bản kéo đến xem, thậm chí còn lấy tấm da gấu mèo lớn vừa lột ra quấn vào thân thể trần truồng của mình, để “cái ấy” vừa đen vừa xanh thò lủng lẳng ra ngoài. Đi theo chuyên gia Hoàng là các đồng nghiệp của ông, bọn họ ôm chặt ông nhưng không sao ôm nổi, nên phải dùng một mảnh vải che lấp “của quí” của ông. Họ an ủi: “Chết rồi thì thôi, chẳng phải còn có phương pháp clone, sinh sản vô tính cũng được cơ mà. Ông vẫn có thể tiếp tục làm chuyên gia chứ sao!”. Chuyên gia Hoàng là trợ thủ của Thi Đức, mấy chục ngày hầu hạ gấu mèo lớn, thức đêm thức hôm tới mức mắt thâm quầng sâu hoắm. Tôi đã từng trêu ông: Cứ tiếp tục hầu hạ đi, ông cũng sẽ trở thành gấu mèo lớn! Ông bảo, ông đâu có cái hơi sang của gấu mèo lớn, lúc mẹ ông đẻ ông, ông rơi bên cối xay, phân lừa kéo cối xay bám đầy người. Ông nói: “Gấu mèo lớn đẻ gian nan đến vậy, tôi hận không thay thế được nó”. Thi Đức cho biết, chức danh hiện nay của chuyên gia Hoàng là phó nghiên cứu viên, ông đã tham gia toàn bộ quá trình thụ thai, sinh nở của gấu mèo lớn lần này, với niềm hy vọng tràn đầy là lấy thành quả đó xin xét chức danh nghiên cứu viên. Bây giờ ông đã hóa điên, Anh em đè ông ra đất, cởi bỏ tấm da gấu mèo, rồi ép ông mặc quần áo vào. Thi Đức không còn dám để chuyên gia Hoàng ở riêng nữa, mà chuyển ông sang ở cùng phòng với mình. Vậy là người thợ săn đang ở chung với Thi Đức sẽ dọn đến ở phòng tôi tại chiêu đãi sở. Thật ra, chiêu đãi sở được cải tạo từ một gian nhà kho, kê được năm tấm phản. Tôi vẫn chưa có dịp nói chuyện với người thợ săn.