PHẦN XI
Dọc đường về khách sạn, trên các nóc nhà cao của thành phố đều đứng kín người, họ xem mưa sao băng, thậm chí còn ao ước có một trận mưa sao băng mới. Có người đem theo cả bia, vừa xem vừa uống, sao băng đã mưa xong, bia vẫn chưa uống hết, liền quăng chai lên bãi trống dưới đất. Lại có người đốt pháo, pháo nổ trên trời rực rỡ, cứ tắt rồi lại sáng. Tôi và cậu vừa đi vừa ngẩng đầu nhìn lên nóc nhà, cứ sợ vỏ chai và nỏ pháo rơi xuống đầu. Cuối cùng, cậu nói với tôi, ban ngày đã gặp chuyện không tốt lành thật:- Hai bạn săn bắn sống ở Sa Hà Tử, một người bị bệnh đau đầu, khi cơn đau kéo đến, cứ phải đấm vào đầu bồm bộp, anh ta đã đi khám nhiều thầy thuốc nhưng không tìm ra nguyên nhân, đành một ngày uống ba lần thuốc giảm đau. Thầy địa lý nói, hẳn đây là do nghiệp chướng, bắt anh ta đẽo một cái đầu bằng gỗ, mỗi khi lên cơn đau đầu, thì cầm vồ, búa hay dao mà đập, khắc hoặc chích vào đầu gỗ. Người anh ta khỏe mạnh hoạt bát lắm, cứ dùng búa vừa đập vào đầu bằng gỗ vừa khóc lóc mà nói:- Tôi đang bị hành hình ở địa ngục, đang phải chịu tội bị xẻo bị khoét bởi hàng ngàn hàng vạn nhát dao! Còn người kia mắc bệnh đáng sợ hơn: khớp xương toàn thân nũn ra, cơ bắp chân tay teo đi, nhưng ăn vẫn khỏe, eo lưng ngày càng to tròn, y như hình con nhện, hiện giờ hai chân không đứng được nữa.
- Cậu phát hiện cổ tay mình cũng đã nhỏ hơn trước. - Cậu tôi lẩm bẩm nói.
Trên nóc một nhà tầng xa xa phóng lên một quả pháo hai càng, phựt một tiếng, đường vòng cung vạch trên bầu trời rơi xuống trước mặt chúng tôi, nổ tung. Cậu tôi run lập cập:
- Nhỏ đi đấy, nhỏ đi thật mà!...
Trông dáng cậu đáng thương quá, dường như có phần nào tám thần thật. Tôi bảo: - Cổ tay cậu to như thế còn nhỏ gì nữa? Cậu đã tức giận, một khi cậu tức giận, tôi cũng không nói nữa, liền giơ máy ảnh chụp trên đường phố. Song cậu đã bám theo tôi nói chuyện.
- Tử Minh ơi!
- Dạ!
Cậu lại thôi không nói.
- Trông dãy nhà kia hay đáo để, không biết xây dựng từ đời Thanh hay đời Minh?
- Anh không cười cậu chứ?
- Sao cháu lại dám cười cậu?
- Vậy thì cậu nói nhá. Tử Minh này, anh chàng đội viên bị liệt của cậu nói với cậu rằng, anh ta có đọc một quyển sách thuốc, trong đó viết rằng có một thứ bệnh quái gở mắc phải do thủ dâm quá độ, hoặc do một số nguyên nhân còn chưa rõ. Bệnh trạng kể trong sách rất giống bệnh của anh ta. Cậu không sợ cháu chê cười, lúc còn đi săn bán, cậu cũng đã từng thủ dâm. sống ở rừng rú, những người thợ săn ít nhiều đều thủ dâm. Cậu buồn chán vì lo bản thân thủ dâm nhiều, cậu cũng sẽ mắc phải thứ bệnh ấy.
Lời nói của cậu khiến tôi cảm thấy tính nghiêm trọng của vấn đề, tôi không dám chỉ trích sống sượng nữa, cũng không có những lời trêu chọc. Tôi nghiêm chỉnh khuyên nhủ, an ủi cậu:
- Làm gì có bệnh ấy, người bạn của cậu chắc chắn giống như mọi thợ săn khác, từ khi không được săn bắn, không có sói, đã mất đi một đối thủ, liền suy nghĩ lung tung đâm sinh bệnh. Có một loại bệnh do suy nghĩ mà nên, cứ nghĩ sắp có bệnh là sẽ ốm, mà là ốm ra trò. Cậu khỏe mạnh như thế này, làm sao có thể mắc bệnh ấy cơ chứ? Thì cứ cho là có thủ dâm đi, có người đàn ông nào cả đời chưa từng thủ dâm đâu? Xét theo quan điểm khoa học, bản thân việc thủ dâm không có hại đối với cơ thể, chỗ tai hại của nó đối với thân thể là cứ luôn luôn cho rằng thủ dâm có hại đối với sức khỏe.
Cậu tròn mắt nhìn tôi:
- Thật vậy sao?
- Thật vậy đấy!
- Anh là trí thức, anh không được nói đối cậu đấy.
- Cháu nói dối cậu để làm gì cơ chứ?
Cuối cùng thì cậu tôi đã cười, một nụ cười hết sức ngượng nghịu. Đây là chuyện tôi chưa hề nhìn thấy trong nhiều ngày qua.
Về đến khách sạn, cậu đi ngủ liền, có lẽ tin vào lời nói của tôi, và do đi cả ngày mệt lử, cậu tựa đầu vào giường ngủ rất say, nước dãi chảy ướt cả vùng ngực. Tôi thì không ngủ được, tôi có thói quen lắng nghe âm thanh đêm khuya và lúc bình minh thức giấc. Tôi sùng bái âm thanh của thế gian, luôn lấy âm thanh nghe được đầu tiên trong hàng ngày để dự đoán dữ lành, họa phúc của ngày hôm đó. Nhưng bây giờ chẳng có âm thanh gì hết. Những người thợ săn mắc bệnh bủn rủn chân khá phổ biến, họ cho rằng đó là tai nạn ập xuống sau khi không có sói, sói và họ đối ứng nhau, có sói thì có họ, có họ thì tất phải có sói. Sói tượng trưng cho nỗi hoảng sợ của loài người, con người lại sinh sôi nẩy nở trong sự hoảng sợ đời đời kiếp kiếp. Giờ đây, loài sói vốn đấu tranh với con người đã mấy ngàn năm, đột nhiên tuyệt chủng; sao ở trên trời cũng rơi xuống như mưa đúng vào lúc này, liệu muốn dự báo một tai họa gì chăng? Trước việc sói ngày càng ít dần, những người thợ săn đã cảm thấy trước nỗi hoảng sợ lớn hơn, còn số đông trong chúng ta, dĩ nhiên cũng có tôi, khi xảy ra mưa sao băng, lại chỉ cho rằng đấy là một kỳ quan, tỏ ra reo vui hớn hở. Những người thợ săn như cậu tôi đã tâm thần lẩn thẩn, hay là thể xác và tâm hồn của chúng tôi đã tê dại?
Tôi luôn tỏ ra tôn trọng cậu mình, cảm thấy cuộc gặp cậu lần này chắc chắn là do ông trời đã sắp đặt sẵn từ lâu trong bóng tối. Con người ở trên đời, làm nghề gì cũng có phẩm chất và kỹ năng của nghề ấy, đó đều là do yêu cầu tất yếu mà sinh ra. Ví dụ, trong nhà có một cái bàn, trên bàn cần có ấm pha trà, nên chúng ta mới ra cửa hàng mua ấm pha trà; có ấm pha trà rồi thì phải có chén để uống trà, thế là lại ra cửa hàng mua chén uống trà. Gặp được cậu, tôi sẽ không chỉ chụp ảnh cho mười lăm con sói để có tiếng tăm, mà còn phải lấy câu chuyện của cậu để viết một bản báo cáo về dự cảm tai nạn của loài người.
Lúc trời tảng sáng, tôi ra ngoài đi dạo. Trên đường phố có nhiều người đang chạy hoảng loạn, một phụ nữ đầu tóc rối bung vừa chạy vừa gào khóc: “Tiểu Man, Man Man ơi, con của mẹ!”. Người chị bủn rủn lăn ra đất, những người đã chạy vượt lên trước quay trở lại kéo chị ấy mà kéo không nổi, họ liền xúm lại khiêng chị ấy chạy tiếp, một chiếc giày của chị bị tuột ra. Tôi nhặt chiếc giày, hỏi người bên cạnh:- Sao vậy? Có chuyện gì vậy? Người ấy đáp:- Khiếp quá, đã xảy ra chết người, chết mười hai em nữ sinh! Tôi cầm chiếc giày chạy theo họ, trong ngõ nhỏ trước mặt có một hàng mười hai cái xe cải tiến, trên mỗi xe có một xác chết, trên xác chết phủ vải trắng, nhưng tấm vải trắng quá nhỏ, che kín đầu ở trên thì chân ở dưới lộ ra. Gia đình có người chết xúm quanh xe gào khóc. Người trên đường phố mỗi lúc một đông, đang là giờ đi làm, mọi người đều dừng lại, bỗng chốc gây tắc đường cản trở giao thông. Tôi liền bám theo người phụ nữ đánh rơi giày, chen vào cạnh xe cải tiến, tôi không nhìn thấy toàn bộ dáng dấp của mười hai xác chết, nhưng khi người phụ nữ kia lật tấm vải trắng trên xe cải tiến thứ ba, thì chị ngất xỉu. Trên xe quả thật là một cô gái non tơ, tóc rất dài, chải thành hình đuôi ngựa, mái tóc lòa xòa gài một cái cặp hình bướm trắng, khuôn mặt còn nguyên vẹn nhưng nửa người dưới thì đầy máu, ngay đến giày tất cũng dính bê bết máu. Tôi nghe người chung quanh nói rằng, tối hôm qua, những em gái này hẹn nhau đến một bãi cỏ dưới chân núi Mào Gà xem mưa sao băng, mưa sao băng khiến các em vui sướng khác thường. Sau khi hết mưa sao băng, các em còn ca hát nhảy múa trên bãi cỏ. Cả một đêm, các em không về nhà, bố mẹ các em sốt ruột đi tìm khắp nơi, lúc tang tảng sáng mới phát hiện các em đã chết hết trên bãi cỏ. Trên người các em không có vết đánh và vết thít, nhưng nửa người dưới thì nát bét cả, thậm chí còn bị cào mất thịt ở mông. “Các em bị hãm hiếp” - người ta bàn tán - “Nhưng hãm hiếp sao lại đến nỗi khoét mất thịt ở nửa người dưới?”.
Có người thốt lên:
- Lạ nhỉ, hay là bị sói giết hại?
Trong óc tôi lập tức sống lại câu chuyện bà nội kể đã lâu lắm, Bà bảo, có một người ở thành trì cũ đang đi bộ một mình trong đêm, một con sói đã bám theo anh. Anh biết, nhưng không dừng lại quần nhau với sói, vì có vật lộn với sói cũng không vật nổi, đành phải cứ bước đi. Nhưng ở đằng sau, con sói cứ cào vào mông anh, cào hết miếng thịt này đến miếng thịt khác, Người ấy vẫn cắn răng đi tiếp, cho mãi lúc tới ngã tư ngoài thành trì, có tiếng người nói ở phía trước thì con sói mới chạy mất, còn anh kia ngã vật ra đất, sờ vào mông thì đã bị mất đi một nửa thịt... Nhưng ở Châu Thành này làm sao có sói được? Dù có sói đi nữa, thì làm sao bỗng chốc lại đông thế, đã cào hết mông đít của mười hai cô gái? Người ta nghi ngờ nhận định này nhưng vẫn lan truyền đây là việc làm của sói, ngoài sói ra, còn có kẻ nào nữa? Rồi có người đột nhiên nói:
- Mấy hôm trước, tôi nhìn thấy một con sói được khiêng vào thành phố, chửa biết chừng người khiêng sói chính là sói cải trang! Trên đời bây giờ, chuyện gì chẳng có cơ chứ?
Tôi sợ toát mồ hôi, vội vàng rút lui khỏi đám đông chạy về khách sạn. Tôi đã dừng ở cửa khách sạn lâu lắm, tôi không dám kể với cậu chuyện ngoài phố, cũng không thể để cậu nhìn thấy sắc mặt khác thường của mình.
Cậu đã thức dậy, đang ngồi trên giường gãi ngứa sồn sột, tâm trạng dường như rất vui vẻ, cậu vừa ngâm nga câu hát, vừa vạch cạp quần ra bắt rận ngay trước mắt tôi.
- Anh bảo, trên đời có người trước hay có rận trước?
- Rận. Rận là con sáu bọ cổ xưa nhất.
- Con người cũng là sâu bọ!
- Vậy sao?
- Con người là thứ sâu biết đi.
- …
- Thế anh bảo, sói có trước hay chó có trước?
- Sói có trước, sói cũng là con sâu cổ xưa!
- Nhưng sói gọi chó là cậu cơ đấy.
Tôi giúp cậu cởi quần áo.
- Cậu ơi, hôm nay cháu phải ra trụ sở ủy ban hành chính địa khu thăm lại các anh em Thi Đức. Sáng sớm mai, cậu cháu mình có thể lên đường được rồi. Cậu cứ ở trong khách sạn, đánh răng rửa mặt, tắm nước nóng một cái, cậu ạ!
- Cậu không quen tắm nước nóng, mà đánh răng làm quái gì! Cháu đánh răng nhưng mồm cháu cứ lở loét, sói cả đời không đánh răng mà nó ngày nào cũng có thịt ăn.
Tôi cười:
- Vậy thì cậu cứ ở trong phòng, chờ cháu về, cậu đừng có đi đâu nhé!
- Cậu phải đi Sa Hà Tử một chuyến.
- Cậu lại đi Sa Hà Tử nữa ư?
Cậu tôi gật đầu.
Tôi tuy hiểu cậu, nhưng vẫn không khỏi cảm thấy ngạc nhiên khi cậu còn định đi Sa Hà Tử. Cậu cởi trần, trên lưng và vai cậu đầy vết sẹo, trên cổ cậu đeo một hòn đá nho nhỏ. Những vết sẹo này, khỏi cần hỏi cũng biết, là những ghi chép lịch sử của người thợ săn như cậu; còn viên đá nho nhỏ cậu đeo ở cổ mới khiến tôi có phần hiếu kỳ. Từ lâu đã nghe nói, giống như người đi biển, người đi săn cũng hết sức giữ gìn, mê tín. Ở trong rừng, họ tuyệt đối kiêng nói những câu không tốt lành, thậm chí kiêng nói cả những từ như “cút rồi”, “toi rồi”. Nếu trước khi ra khỏi cửa mà đột nhiên đèn bị tắt, hoặc lúc bước qua ngưỡng cửa, bị vấp vào ngón chân, ngã dúi đi, thì phải bỏ ngay việc làm trong ngày. Trên người họ thường phải đeo bùa viết lời chú trên giấy vàng đóng khung, hoặc mẩu giấy đóng dấu đỏ trên thông báo xử bắn người, hoặc là băng vải kinh nguyệt của cô gái còn trinh tiết. Nhưng thứ cậu tôi đeo ở cổ lại là một viên đá. Tôi cúi xuống sờ nghịch viên đá nhỏ ấy, viên đá màu đen nhẵn bóng.
- Ôi, cậu định làm Giả Bảo Ngọc cơ đấy!
- Đây là viên ngọc quí, làm gì có chuyện giả?
Rõ ràng cậu chưa bao giờ đọc Hồng lâu mộng.
- Anh ngửi tay anh xem, có mùi gì vậy?
Trên tay tôi thoang thoảng mùi sôcôla. Ở chung với cậu, thỉnh thoảng tôi ngửi thấy thứ mùi này, cứ tưởng ở khách sạn người ta phun nước hoa xịt phòng gì đó, chẳng ngờ cái mùi này lại tỏa ra từ viên đá của cậu.
- Đây là ngọc kim hương.
Ngọc kim hương, là ngọc kim hương trong câu thành ngữ: “Có mắt không nhận biết ngọc kim hương” đó sao? Cậu tôi bảo, đúng đấy. Tôi tháo viên đá nho nhỏ ấy ra khỏi cổ cậu, để gần vào mũi ngửi, mùi thơm càng ngan ngát. Tôi bỗng nhớ trong lịch sử có một người con gái tên là Hương Phi, trên người Hương Phi lúc nào cũng tỏa ra mùi thơm quyến rũ. Con người làm thế nào lại tỏa ra mùi thơm cơ chứ? Phải chăng nàng ấy đã đeo viên đá có mùi thơm này? Nhưng, đàn bà đeo ngọc kim hương, chứ một người đàn ông thô ráp và hôi xì như cậu mà cũng đeo ngọc kim hương hay sao?
Đây đúng là một câu chuyện đồng thoại thần bí xa xưa. Nhưng cậu tôi đâu phải là nhà văn, cậu không biết tưởng tượng, hư cấu thêm mắm thêm muổì, cậu bảo viên đá này do một đạo sĩ già ở đền Đá Đỏ cho cậu. Đạo sĩ già và một đồ đệ duy nhất trong đền tình cờ phát hiện ra viên đá này trong một hang đá ở núi sâu. Hai người bỏ nó vào một chiếc túi đay khoác xuống núi, đi nhờ trên chiếc máy kéo của địa phương vào rừng chở gỗ. Đi được nửa đường, vị đạo sĩ già chợt buồn nôn, bảo máy kéo dừng lại, ông xuống xe nôn ọe một lúc khá lâu vẫn thấy khó chịu, người lái máy kéo không chịu chờ, đã nổ máy đi luôn. Lúc ấy, đạo sĩ già có phần tức bực mới chửi một tiếng, nhưng nào ngờ chiếc máy kéo đi được khoảng hai cây số thì bị đổ lăn xuống vực sâu hai mươi mét, không ai trên máy kéo sống sót, người học trò của vị đạo sĩ già ngay đến cái đầu cũng bị đè bẹp. VỊ đạo sĩ già còn sống trở về, ông vững tin hòn đá lạ kia đã cứu mạng mình, liền đem nó về đền, đặt trên bàn thờ cúng. Viên đá này rất lạ, dân bản chung quanh đền người nào cũng biết, nhưng không ai nói rõ được đây là viên đá gì. Hai năm trước, ở trong châu có hội nghị địa chất toàn tỉnh, ông đạo sĩ già đã đem hòn đá này đi tìm các nhà khoa học nhờ giám định, cuối cùng nhận định đây là ngọc kim hương. Sự xuất hiện của viên ngọc kim hương đương nhiên đã làm xôn xao giới địa chất, nhưng truy hỏi viên đá này lấy từ đâu, thì đạo sĩ già không nói, ông biết rõ đây là duyên phận Ông Trời ban cho.
- Tôi tặng lại các anh một nửa nhé!
Thế là viên đá được chia đôi, một nửa tặng ngành địa chất, một nửa đem về đền. Trong một ngày mưa tuyết lớn, đạo sĩ già lặng lẽ vào núi, định dùng đá vứt lộn xộn lấp miệng hang kia, song lạ lùng thay, hang đã bị đổ sập, ngay đến chính ông cũng không tìm được cửa hang ở chỗ nào. Từ đó trở đi, đạo sĩ già không bao giờ nhắc đến chuyện này, nhưng chuyện một nửa viên ngọc kim hương vẫn còn trong tay ông, thì rút cuộc cứ lan truyền đi. Những người có tiền ở châu ở tỉnh kéo đến gạ mua lại với giá gấp sáu lần giá vàng, ông đạo sĩ già nói rằng đã quyên góp cho nhà nước, nhưng ông đã bí mật cưa nửa viên ngọc kim hương còn lại thành những mẩu nho nhỏ, phân phát cho những ai đã từng giúp đỡ đền. Trong lần tổng điều tra sói cuối cùng, cậu tôi đã đến quả núi ấy. Đêm ngủ trong đền, cậu đã tâm sự về nỗi hoảng sợ của cánh thợ săn khi không được săn sói nữa, ông đạo sĩ già đã tặng cậu viên ngọc kim hương này làm bùa hộ mệnh.
- Đạo sĩ già ấy còn sống không, thưa cậu?
Dĩ nhiên tôi không thể xin bùa hộ mệnh của cậu, nhưng tôi rất thích viên đá này.
- Vẫn còn sống. - Cậu đáp - Nếu chúng ta có thể đi chụp ảnh cho sói thật, thì cậu sẽ dẫn anh đến thăm đền Đá Đỏ, còn việc ông ấy có tặng cháu một viên hay không, thì còn tùy ở cái duyên cái phận.
Tôi tin tôi có duyên phận ấy. Tôi đã ngẫm nghĩ rồi, nếu tôi được một viên ngọc kim hương, tôi sẽ không tặng vợ, mà sẽ tặng bạn gái của tôi, để cô ấy trở thành Hương Phi của tôi.
Nhưng cậu tôi đi Sa Hà Tử một lần nữa và đã không trở về trong ngày, thậm chí ba hôm liền vẫn không thấy quay trở lại. Người nhà quê kém ý thức về thời gian, đây là việc khiến tôi đau đầu nhất, nhưng cậu tôi vẫn mất hút, tôi biết làm sao được? Sáng hôm sau, tôi đến thư viện Châu Thành mượn tư liệu có liên quan về sói, với ý định trong một thời gian ngắn có thể tìm hiểu thói quen, môi trường sinh sống và hoạt động tình dục của sói, song tôi hoàn toàn bị hẫng hụt vì sách nói về sói ít lắm, đành ôm về một đống tiểu thuyết kể chuyện sói. Vậy là tôi đã đọc lại một số chương đoạn của Liêu trai chí dị, đọc Thím Tường Lâm của Lỗ Tấn và Tình yêu cuộc sống của Giắc Lơn-đơn. Tôi ngồi đọc, nằm trên ghế sô pha đọc, sau đó lăn cả ra giường của cậu mà đọc.
Trên giường cậu trải tấm da sói, tôi quên bẵng việc lông sói dựng đứng lên. Khoảng mười giờ đêm, đột nhiên cảm thấy người ngưa ngứa, vừa liếc nhìn tấm da sói thì thấy lông lá đã sù hết cả lên. Tôi hốt hoảng tới mức tim muốn bật khỏi lồng ngực, hớt hải nhảy từ giường cậu sang giường mình. Ngồi trên giường mình, tôi cứ chằm chằm nhìn tấm da sói. Khách sạn vắng tanh, đèn điện chiếu vào bốn bức tường trong phòng sáng trắng, tôi cứ cảm thấy tấm da sói đang động đậy. Bụng bảo dạ:- Không phải đâu, không phải đâu; rồi cầm sách lên đọc tiếp, cố quên đi cơn hoảng sợ. Nhưng sao lại không xem thử nhỉ?
Tôi nín thở đứng dậy, soạt một tiếng, tôi giật phăng tấm da sói, rốt cuộc nó vẫn là tấm da sói! Tôi nghĩ: -Mình sợ cái gì nhỉ? Lẽ nào có linh hồn bám vào nó cơ chứ? Tôi mở tung cửa sổ, định quẳng tấm da sói đi, nhưng sực nhớ đây là đồ dùng của cậu mình, liền đem treo nó ra ngoài cửa sổ, sau đó đóng cánh cửa vào, tiếp tục đọc sách... Em bé chăn cừu trong bản làng đang hét:- Sói đến đấy, sói đến đấy!... Tôi chưa kịp đọc tới chỗ dân trong bản cầm dao vác gậy chạy lên núi, thì ở ngoài cửa sổ có tiếng kêu quái lạ, nó trầm lắng nhưng có sức xuyên thấu cực mạnh, giống như tiếng huyên người ta thổi mà tôi đã từng nghe ở thành phố, sau đó có tiếng chó sủa, lúc đầu thưa thớt dăm ba tiếng, sau đó bảy tám tiếng, mỗi lúc một dày, chó sủa râm ran khắp lượt. Nhân viên phục vụ gõ cửa hỏi tôi:
- Anh có nghe thấy tiếng sói kêu không?
Tôi hỏi lại:
- Có sói kêu à?
Nhân viên phục vụ đáp:
- Tôi vừa nghe thấy tiếng sói kêu. Mấy hôm trước, có mười hai em nữ sinh bị sói hãm hại, con sói này còn ở trong thành à?
Tôi nói to:
- Vớ vẩn nào, anh khẳng định sói đã hãm hại các em học sinh ư? Trong Châu Thành làm gì có sói, tung tin đồn nhảm mê hoặc dân chúng, anh phải chịu trách nhiệm đấy!
Người phục vụ thuỗn mặt ra đầy vẻ nghi ngờ, sau đó bỏ đi.
Anh ta vừa đi một cái, tôi lại đâm hoảng, lẽ nào tiếng kêu đó phát ra từ tấm da sói tôi treo ở ngoài? Tôi vội vàng mở cửa sổ đem tấm da sói vào, nó vẫn là một tấm da sói mềm mềm đấy thôi. Tiếng chó sủa thưa dần rồi mất hẳn. Bây giờ thì tôi sợ thật rồi, biết tấm da sói này có mang linh hồn của sói. Vợ tôi đã từng kể, mỗi con bướm đều là vong linh của người đàn bà đẹp đã chết đang đi tìm quá khứ. Vậy thì linh hồn sói đã chết tách ra khỏi lông sói, hồn sói bay phiêu bạt tốii hôm nay đã hoài niệm quần áo của nó, hay là về gặp một người định đi chụp ảnh những con sói sống? Tôi không dám ngủ nữa, mắt cứ mở thao láo nhìn tấm da sói cho đến sáng. Nhưng tấm da sói không có chút động tĩnh nào khác thường.
Lúc chín giờ, tôi hỏi thăm hướng đi Sa Hà Tử, nhất định tôi phải đến đó tìm cậu.