← Quay lại trang sách

PHẦN XII

Bãi sông hướng Nam Bắc dài bảy dậm, hướng đông tây dài hàng chục dặm, trên đồng cát vàng sương giá, khoai tây còn chưa nẩy mầm, giẫm lên mềm thùn thụt. Phóng tầm mắt nhìn xa xa, trên bờ là từng ô từng thửa mọc đầy cỏ ống, cỏ ống qua mùa đông vẫn khô vàng, nhưng cỏ lác rễ cứng, cỏ khao trắng, cả tỏi dại nữa lại mọc xanh rì. Màu vàng lồng trong màu xanh, màu xanh lẫn trong màu vàng, gió nhẹ từ chân núi thổi tới, những cọng cây héo vàng kêu vi vu. Cứ cách ba bốn ô lại có một đống đá cuội, đá trắng lấp lánh, giữa các khe đá mọc đầy cây gai dại, không có lá, chạc cành đan xen, như rào thép. Nơi đây vốn là bãi tha ma, các gò đống bị người trồng cấy xâm lấn nên càng ngày càng thu nhỏ lại, trở thành nơi vứt sỏi đá và cỏ tạp khi trồng trọt. Vừa qua tiết thanh minh, trên các cây gai còn mắc những dải phướn bay lật phật.

Tôi từ dưới chân núi đi tới, một thửa ruộng dường như mùa thu năm ngoái đã trồng dưa hấu hay bí đỏ gì đó, những dây leo chưa nhổ đi tuy đã mục nát song vẫn còn nguyên hình dáng, đưa tay nhặt lên nhưng không nhặt được, chúng in những đường nét trên mặt đất, đan xen nhau ngang dọc. Sau một giờ đồng hồ, gió bắt đầu thổi mạnh, đất tơi xốp trên ruộng bị thổi tung, trông như một lớp mù nước trên biển. Gió đập thẳng vào vách đá chân núi, bị vách đá chặn lại, tạo thành một lốc xoáy vọt thẳng lên; có thể nhìn thấy những con thỏ rừng trong bụi cây chạy trốn bay biến nhanh như điện, rồi mất hút trong đám cỏ hoang. Ba mươi người mặc quần áo đi săn đang dắt ba mươi con chó nhỏ chia ra đứng cách nhau trong chiều dài bảy dặm. Tôi không trông rõ mười lăm người và chó ở phía đông dáng dấp ra sao. Riêng mười lăm người ở phía Tây, thì cậu đứng ở giữa, con chó Phú Quí kẹp dưới hai chân cậu. Cậu lim dìm mắt nhìn tôi, trông có vẻ đắc ý lắm, còn mười bốn người kia đều đi giày cao su màu xanh của quân đội, đầu tóc rối tung, chiếc áo lót da thú không có khuy, dùng dây lưng làm bằng vải thô ráp thắt lên người, chân họ không cuốn xà cạp mà lấy dây thừng buộc ống quần, gió thổi phồng cả lên. Tất cả lũ chó đều bị cắt đuôi, trông đen đủi và xấu xí, lưng chân không thon dài bằng con Phú Quí. Những con vật này còn bị kích động hơn cả người, cứ nhấp nhổm giậm giật liên hồi, nếu không có chủ ấn vòng dây đỏ trên cổ chúng xuống, thì chúng đã lao đi như mũi tên từ đời tám hoảnh nào rồi. Người đàn ông được khênh đến trên chiếc ghế tròn kiểu cũ chính là bạn cậu - người thợ săn bị bệnh nhũn xương nặng. Anh chịu trách nhiệm khua chiêng. Lúc đầu, tôi cứ tưởng họ đua chó, đến khi một tiếng chiêng nổi lên, mười lăm con chó lao vút đi, chủ của chúng bám sát theo sau, miệng người nào cũng ngậm một cái còi, thổi ra những tiếng dài ngắn cao thấp nhanh chậm, những con chó cứ chạy thẳng, chạy chéo, chạy vu hồi, chạy giao thoa, thế trận biến đổi hết sức linh hoạt. Cùng lúc đó, mười lăm người và lũ chó ở đầu bãi sông ngoài bảy dặm xa xa cũng ào ào xông đến, ngay lập tức bụi đất như hai dòng thủy triều ập vào giữa. Tôi nhìn thấy những con thỏ rừng tháo chạy trong bụi mù, bám sát đằng sau mỗi con thỏ là hai ba con chó nhỏ. Bọn họ vòng lượn trên bãi sông, lúc ẩn lúc hiện, khi chụm lại khi tản ra. Người bám đuổi theo lẫn lộn trong đó, họ khó nhận ra con chó của mình, nhưng tiếng còi của từng người cũng đủ để con chó của họ hiểu rõ hiệu lệnh. Họ chạy nhanh không kém lũ chó. Khi con chó nhảy vọt lên, bạn không thể phân biệt rõ là người hay là chó.

Đua chó còn hay hơn đua ngựa!

- Đây không phải đua chó, mà là chó đuổi bắt thỏ.

Người bị nhũn xương ngồi trên ghế tròn cải chính lời nói sai của tôi. Bên anh là đám đông kéo đến xem, nhất tề khua chiêng gióng trống, đốt pháo, thậm chí bắn súng hỏa mai, reo hò ầm ĩ. Ở Châu Thành, tôi vốn là một người mê bóng đá, tôi dám chắc những pha ở đây không kém gì những pha máu mê cuồng điên trên sân bóng. Tôi nhìn thấy rõ ràng một người đàn ông cõng con trên cổ, thằng bé vừa reo hò, vừa vỗ bồm bộp vào đầu bố, mặt ông ấy đỏ gay đỏ gắt như say rượu mà vẫn tỉnh bơ. Một chị phụ nữ hò reo nhảy tâng tâng, hai bầu vú cứ bật lên thõng xuống. Một người đàn ông liền bảo: -Thỏ này, thỏ này, thỏ chui vào lồng rồi! Mọi người cười ầm lên, đám phụ nữ liền xúm lại đâm đuổi anh kia vào trong gió bụi xua bắt thỏ. Cuối cùng tôi cũng nhìn thấy cậu trong đám hỗn loạn, cậu và con Phú Quí đang đuổi theo một con thỏ lông xám. Người và chó chỉ cách thỏ độ hai mét, lần nào con chó vồ tới, cùng suýt ngoạm được chân sau của thỏ, nhưng thỏ đột nhiên né một cái rồi lập tức dừng lại; khi con chó xô lên trước theo quán tính, thì thỏ quay ngoắt chạy trở lại. Cậu vội vàng tụt giày ném theo, chiếc giày ném trúng chân con thỏ, con thỏ nhảy vọt lên, rơi xuống đất đánh bịch một tiếng, rồi bò ngay dậy chạy về hướng tây, nhưng phía ấy lũ chó xua thỏ đang chạy đến, thế là con thỏ liền chạy xiên về phía chúng tôi. Hai chú chó con chỉ có cách nhau có hai mét, nhưng vẫn không đuổi kịp. Chúng tôi cứ hét cố lên cố lên. Cậu ở gần chỗ chúng tôi hơn, song vẫn không đuổi kịp thỏ, nên có phần bực bội. Cậu ngồi xuống, chân không còn giày, thuận tay nhặt luôn một viên đá trên đất ném đi, con thỏ trúng đòn, lăn quay ra đất, bốn chân giơ lên trời đạp lung tung, lật được người lại chạy tiếp, nhưng chỉ chạy được hai bước thì ngoẻo, hai con chó nhỏ nhảy xổ đến cùng một lúc. Đám người vây xem hò reo như trời nghiêng đất ngả, hò reo còn là vì hai con chó nhỏ, một con cắn chặt chân sau của thỏ, một con cắn chặt chân trước của thỏ không buông, cuối cùng chúng xé con thỏ làm đôi, kéo xềnh xệch đến chỗ người thợ săn bị nhũn xương. Tôi ngồi xổm vuốt ve con chó nhỏ, lông nó bóng mượt như tấm lụa đen. Tôi bảo:

- Đều có công, đều có công!

Cái xương đuôi chỉ có một tấc cứ động đậy, con chó cất tiếng sủa gâu gâu.

Chó đuổi thỏ suốt sáu tiếng đồng hồ, khi không còn con thỏ rừng nào trong đám cỏ hoang và đá cuội trên bãi sông sáu dặm vuông, và khi bụi đất đã rơi hết, thì người và chó mới yên nghĩ. Cuộc đi săn đã bắt được tất cả năm con thỏ rừng, cả năm con đều được giao lại cho người bạn săn mắc bệnh nhũn xương của cậu tôi. Anh này cầm dao chặt mỗi con thỏ thành ba khúc, lần lượt vứt cho các con chó nhỏ ăn. Sau đó, anh hét một tiếng, dân bản nô nức kéo nhau thắng lợi trở về.

Tôi đi theo cậu, trông cậu y như một dân bản, người cậu đẫm mồ hôi, giày mất nên đi chân không. Cậu hỏi:- Thế nào, xem đã chứ? Tôi nói:- Chỉ thế này thôi sao? Chấm dứt rồi sao? Cậu bảo:- Còn thế nào nữa, nếu cháu bằng lòng, mình ở thêm một ngày, ngày mai ra bãi sông làm trận nữa. Dĩ nhiên là tôi không đồng ý. Tôi không hiểu, cảnh xua đuổi thỏ hay thì hay đấy nhưng chẳng khác gì trò chơi của trẻ con. Lẽ nào những người lớn bỏ ra ngần ấy sức lực, đổ ra bao nhiêu mồ hôi, chỉ vì một thứ trò chơi không hề có chút ý nghĩa này sao?

- Đúng là thợ săn!

Dân bản đang khen cậu, họ giơ ngón tay cái lên ca ngợi cậu. Đúng là thợ săn ư? Tôi nhìn dáng vẻ đắc ý của cậu trong lời ca ngợi của dân bản; ngay cả con người nhũn xương được khênh kia, đang ngồi trong ghế tròn cũng nói cười rôm rả. Tôi chợt hiểu tại sao cậu đến đây tham gia săn thỏ: Thợ săn không còn sói, thì chỉ có săn thỏ, họ không nhằm một mục đích gì hết, chỉ đơn giản là được một lần phát điên phát cuồng - phát điên phát cuồng là ý nghĩa thực sự của họ.

Tại gia đình người nhũn xương, tôi lại nhìn thấy Mục Lôi. Lúc sáng sớm, khi đến đầu thôn hỏi thăm tình hình, tôi đã gặp anh, anh bảo:

- Chẳng phải anh đem cừu tặng sói đó sao?

Anh ta dẫn tôi đến thẳng nhà người mắc bệnh nhũn xương, cậu tôi đang ngồi ở hè cuốn xà cạp, Cậu tỏ ra ngạc nhiên trước sự có mặt của tôi. Mục Lôi nói vang vang:

- Anh bỏ chúng em rồi hả? Thì ra anh đã bám theo văn nhân phải không?

Tôi thích ngay anh chàng này bởi cái giọng nói sởi lởi của anh, nhưng cậu lại gọi anh là “Nát Đầu”, sai anh mau rót trà cho tôi, anh liền rót trà; sai anh mời thuốc, anh liền thò tay vào túi, tỏ ra hết sức ân cần. Anh nói nhỏ với tôi:

- Trước mặt anh, tôi phải giữ sự tôn nghiêm của đại ca. Anh gọi đại ca của bọn em là cậu phải không? Chó xồm Nhật đứng lên đống cứt mất rồi!

Cậu nghe thấy liền bảo:

- Nát Đầu, mồm cậu nát nữa thì hay đấy.

Tôi hỏi Mục Lôi:

- Chẳng phải anh là Mục Lôi ư? Sao còn gọi là “Nát Đầu”?

Anh đáp:

- Tôi bị đau đầu.

Lúc này, tôi mới biết anh cũng là một đội viên của cậu.

Khi săn đuổi thỏ, Nát Đầu không có mặt ở bãi. Bây giờ, anh ngồi trong sân của người nhũn xương để vợ bóp đầu cho, bệnh đau đầu của anh đã lên cơn thật rồi. Vợ Mực Lôi là một phụ nữ phốp pháp khỏe mạnh, bóp đầu cho chồng tới mức mặt mũi vã mồ hôi, cuối cùng chị đấm mạnh năm tay vào đầu chồng. Cậu tôi hỏi:

- Đau đớn lắm phải không?

Mục Lôi đáp:

- Còn chịu được.

Cậu lại bảo:

- Chịu được thì đừng uống thuốc giảm đau nữa. Thuốc có những ba phần độc hại, thấy ngày nào cậu cũng uống thuốc giảm đau mấy lần, mình hãi lắm.

Mục Lôi gượng cười:

- Đội trưởng này, vợ em là sói đấy!

Chúng tôi chưa kịp hiểu ý, anh nói tiếp:

- Nửa đời người về trước, em đánh sói; nửa đời người về sau, sói đánh em!

Nét mặt cậu chùng xuống, cậu bước tới đấm đầu cho bạn, nghẹn ngào nói:

- Đừng có ru rú ở xó nhà, không ốm cũng thành ốm. Ở đây nhiều thỏ rừng, các cậu cứ vây săn thỏ, dần dần sẽ khỏi bệnh.

Mục Lôi đáp:

- Đúng, đúng, phải hoạt động! Nhưng em lo thỏ ngày càng ít đi.

Cậu tôi bảo:

- Bắt được thỏ thì đừng cho chó ăn, thả ra rồi lại đuổi.

Chị vợ Mục Lôi đang ngồi đun nước nước nấu cơm trong bếp nói với cậu:

- Anh phải đến luôn cơ! Anh xem đấy, anh đến một cái là bạn bè anh em vui vẻ ra nhiều. Không thì anh dẫn quách nhà em đi, tiện thể tìm một việc làm gì đó để khỏi ở nhà đau đầu quấy nhiễu em như thằng điên.

Cậu tôi hỏi:

- Mục Lôi nghe đâu đã từng đi miền Nam làm ăn cơ mà?

Vợ Mục Lôi đáp:

- Dừng nhắc đến việc anh ấy đi làm thuê nữa, hễ nhắc đến là em tức lộn ruột.

Mục Lôi đang thu dọn ở sân đe nẹt vợ:

- Này, cô đừng có lắm mồm!

- Em cứ nói đấy!

Chị kể, Mục Lôi ở nhà buồn chán, cứ leo lẻo, nào là đi miền Nam làm thuê, nào là đi kiếm tiền, nhưng mới đi được một tháng làm việc vặt ở một công trường xây dựng, không quen với môi trường thành phố, lại bỏ về. Anh ấy kiếm được bốn trăm đồng, sợ bị mất cắp nên cất dưới lớp lót giày. Khi đi tàu hỏa lại tụt giày ra co chân lên ghế ngủ. Lúc xuống ga, không thấy giày đâu, hỏi người chung quanh, họ bảo, quẳng đi rồi, đôi giày rách ấy thối um, đã vứt qua cửa sổ toa. Chửi không lại người ta, đánh cũng không nổi người ta, anh ấy chỉ xót xa đôi giày, càng xót xa bốn trăm đồng để dưới miếng lót giày, liền chửi đổng một câu: “Kẻ nào nhặt được đôi giày của ông sẽ vớ bở!”. Thế là đi chân không xuống tàu, tìm đến một người cùng thôn làm thuê ở quán cơm, mượn tiền về nhà.

Mục Lôi ở trong sân lên tiếng:

- Anh đừng nghe cô ấy nói lung tung, nếu em đến nước ấy thì em nhổ lông d... thắt cổ chết quách đi cho xong.

Vợ Mục Lôi nói:

- Thôi, thôi, coi như em đã dặt điều cho anh!

Nói xong, chị lại cúi xuống đun bếp, ngọn lửa đã lụi từ lúc nào, chỉ còn mỗi khói. Tôi trông thấy lúc vợ Mục Lôi cúi xuống thổi lửa, hai hàng nước mắt chan hòa trên má chị.

Cơm dọn lên, cánh đàn ông hò hét đòi uống rượu. Rượu ở đây được làm từ ngô do gia đình tự ủ, tự nấu đựng trong chum, vợ anh chàng nhũn xương dùng gáo quả bầu múc ra từng gáo từng gáo. Họ thay nhau chúc rượu cho khách. Tôi uống không được, cậu phải uống thay. Sau đó, họ vừa hát, vừa chơi lẩy cỏ. Tôi chưa bao giờ thấy uống rượu hát chơi lẩy cỏ phức tạp như thế. Cùng với lời hát lại phải tỉnh táo xòe tay báo con số, ai thua, thì bên kia liền hát:- Nào, bạn hãy uống chén rượu này đi! Anh nào anh nấy uống tới mức mặt đỏ tía tai, cởi áo quăng sang một bên. Tôi cứ tưởng chỉ cậu mới có sẹo trên người, nào ngờ anh nào trên thân cũng có sẹo; uống rượu vào, vết sẹo đỏ tấy lên bóng loáng. Tôi sờ vào vết sẹo của Mục Lôi, hỏi:

- Những vết này đều do sói cào à?

Mục Lôi đáp:

- Phàm những con sói nào đụng vào mình đều bị giết.

Anh chàng nhũn xương hỏi:

- Mục Lôi này, thế vết sẹo ở cánh tay trái kia cũng do con sói bị giết cào rách hả?

Mục Lôi đáp:

- Quan Công cũng còn thua thiệt ở Mạch Thành cơ mà. Mẹ kiếp, đêm qua mình còn mơ thấy con sói ấy.

Mục Lôi kể còn trông thấy con dao ở dưới vách đá mỏ quạ trong thung lũng Sơn Đông Nhị Lang. Lúc tỉnh dậy đã hỏi các em, có phải con sói đã nhắn gởi mình trong giấc mộng không.

- Đội trưởng ơi, anh có thể đến dưới vách núi mỏ quạ trong thung lũng Sơn Đông Nhị Lang lần nữa không? Đến thử xem con dao có thật còn ở đó không?

Cậu hắng một tiếng không nói gì. Mục Lôi liền kể với tôi, một hôm anh đang đại tiện ở trong rừng, đại tiện thì phải ngồi ở chỗ xuôi gió, anh vừa xoay hướng ngồi, cảm thấy không ổn, còn chưa ngoái đầu lại, thì một con sói từ sau cây xổ tới, chộp luôn ống tay áo của anh. Súng để ở một bên không kịp cầm, anh liền rút con dao ở xà cạp ra đâm, phập một nhát trúng lỗ đít con sói. Nào ngờ đâm sâu quá, không rút ngay ra được, con sói mang theo dao chạy mất.

- Mẹ kiếp! - Anh nói - Con dao vào loại tốt đáo để!

Nói xong cười hề hề.

Thế là các anh bắt đầu kể chuyện săn bắn ngày trước, hầu như người nào cũng chỉ vào vết sẹo trên người kể lại từng cuộc vật lộn với sói không biết bao giờ mới chấm dứt. Còn các chị em thì tụm lại với nhau nói tùm lum hết chuyện con chuyện cháu đến chuyện bạn học ngày xưa tụ họp, chuyện thời thơ ấu... Nói mãi mà vẫn không hết chuyện. Cánh đàn ông kể chuyện cứ vung chân múa tay, nét mặt hớn hở, vừa kể vừa hỏi tôi:

- Có hay không?

Tôi thì cứ há hốc mồm ra nghe, gật gù lia lịa. Cậu bảo Mục Lôi:

- Lau bọt mép đi đã nào.

Mục Lôi ngượng ngùng kể tiếp. Tôi sờ vào vết sẹo ở lưng cậu, giống như sờ vào cái bóng đèn trên khung cửa sắt, hy vọng cậu cũng kể chuyện. Nhưng cậu chỉ cười và uống rượu, cậu bảo:

- Quên sạch, chẳng còn nhớ chuyện gì.

Anh chàng nhũn xương nhấc hai chân đã mất cảm giác khỏi mép ghế, như nhấc hai xâu thịt, nhét vào mặt ghế, vẻ mặt hơi buồn buồn:

- Hiện giờ anh vẫn còn là thợ săn, đương nhiên anh không nhớ. Còn bọn em, hễ cứ ngồi xuống là chỉ biết ôn lại chuyên cũ để giết thời gian. Người đời thường nói, kẻ biết bơi cuối cùng rồi sẽ chết đuối, người leo núi rút cuộc chết trên rừng, còn chúng mình cả đời đi săn sói, không chết trên thân sói, lại chết bại chết liệt trên giường lò...

Cậu tôi đứng lên nói với bà chủ:

- Không nói nữa, không nói nữa, thái bột mì nấu ăn nào!

Bột mì đã nhào sẵn, cục bột nằm lù lù tại đó, người đàn bà béo phục phịch quay quạt gió đun nước kêu loạch xoạch loạch xoạch. Cậu tôi bê cục bột mì bảo để cậu thái. Cậu đội lên đầu một mảnh vải ướt rồi để cục bột lên, sau đó hai tay đưa hai con dao dài hình lá liễu lên gọt vào cục bột, bỗng chốc dao vung như bay, những phiến mì rơi tới tấp như lá rụng vào trong nồi nước nóng. Mọi người im lặng chăm chú nhìn cậu, không ai lên tiếng tán thưởng tay nghề thuần thục của cậu, tất cả đều trang nghiêm tưởng như ngừng cả thở. Hai lưỡi dao của cậu múa càng lúc càng nhanh, dường như cậu đang thù hận chính mình, định gọt cả cái đầu thành từng mảnh từng phiến. Khi cục bột chỉ còn một lớp mỏng, hai tay cậu vung lên, hai con dao sắc bay vào bức tường phía bắc trong nhà cắm phập lên tấm da sói đang treo ở đó.

Sự quái lạ bất ngờ của cậu làm cho mọi người không ai nhắc đến chuyện sói nữa. Mì được bưng lên mâm, ai nấy đều suỵt soạt ăn. Tôi cứ lo lo những người thợ săn này mượn hơi men sinh sự chẳng lành, lại càng không muốn không khí mâm cơm tẻ nhạt. Người đàn bà béo liền vẫy tay gọi tôi ra sân, khẽ nói:

- Anh em nhà họ thường họp mặt uống rượu. Mấy hôm trước uống đến cuối bữa, một người định cầm dao bổ vào đầu mình, một người giơ gậy đánh vào đôi chân nhũn, sau đó thì cả hai đều khóc. Đàn ông mà khóc cứ y như bố mẹ chết. Anh không uống rượu, cứ liều liệu cầm chịch giúp cho.

Tôi trở lại mâm, cố tìm chủ đề nhẹ nhàng, hỏi thịt muối làm thế nào mà ăn ngon thế! Thế là họ bảo tôi, giết lợn xong, cắt thành miếng, cho muối lên, trộn bột nhào qua, ủ vào trong chum ba ngày, sau đó treo lên xà nhà, đốt bông hoa bách để hun chín; hoặc treo luôn trên bếp để khói lửa ba bữa cơm trong ngày hun nướng. Tôi thốt lên, à, thì ra là như vậy, thế tại sao trên xâu thịt muối ở dưới xà nhà lại có một tấm đá mỏng to tướng? Họ bảo, làm thế để phòng chống chuột leo theo dây mò xuống ăn thịt, chuột có tinh khôn đến mấy thì cũng không thể lăn từ tấm đá rồi lại lăn sang lưng tấm đá. Tôi hỏi, liệu chuột có thể nhảy thẳng lên tấm đá được không? Người đàn bà béo vỗ tay khen, anh thông minh lắm, chuột sẽ nhảy như thế, nhưng anh xem kìa, tấm đá treo xiên cơ mà, nó nhảy xuống sẽ tuột khỏi tấm đá rơi xuống đất. Sáng sớm nay thức dậy, một con chuột chết quay lơ ra đất... Trong lúc nói chuyện, tôi lại mắc cái tật cũ, sờ lên cằm, lấy móng tay nhổ râu. Ban đầu, cậu tôi đá vào chân tôi dưới gầm bàn, tôi không nhận ra; cậu liền đánh vào tay tôi một cái, tôi mới chợt phát hiện những người đàn ông kia đều có râu quai nón, tuy đã cạo, song nửa dưới mặt đều đen xanh. Cùng một lúc, họ cũng phát hiện tôi gần như không có râu, liền bắt đầu trêu chọc, bảo tôi là thái giám, là ái nam ái nữ. Mục Lôi còn thò tay sờ cằm tôi, chê nhẵn thín như mông trẻ con. Đương nhiên tôi không tỏ ra bực tức trước thái độ vô lễ của họ, bởi vì họ thẳng thắn bộc trực, không có bất cứ ác ý nào, huống hồ vợ tôi chẳng hề chê tôi không râu, cô ấy thích đàn ông trắng trẻo. Nhưng ở Thương Châu, ở trong gia đình đội viên săn sói của Sa Hà Tử, lần đầu tiên tôi đã cảm thấy xấu hổ bởi cái mặt bơ sữa và không râu của mình.