PHẦN XIV
Theo kế hoạch, ngày đầu tiên chúng tôi đáp xe khách từ Châu Thành đến huyện Đan Phượng, xuống xe ở một bến nhỏ cách huyện lỵ mười dặm, đi men theo sông Đan Giang tới Triệu Dụ rồi đến Hác Phong Nhai. Nhưng ngày đầu tiên không gặp sói. Ngày thứ hai, chúng tôi chui qua một khe núi có tên là Kinh Tử, lội suối ào ào đi ngược lên năm mươi dặm, vẫn không gặp sói, ngay đến một dúm lông, một hòn cứt khô của sói cũng không có. Song chúng tôi đã đến một thôn bản, ở đó có mười mấy gia đình đang tổ chức đám tang. Một cái lều cỏ được dựng lên trong sân của một ngôi nhà tường vây đổ vỡ nham nhở, vải đen xô trắng buộc bó hoa treo ở bốn góc lều, người chết được che chiếu đặt ở trong lều, trên người đậy giấy bản, đầu lợn thủ dê và hương nến bày đầy trên cái bàn trước mặt, Con cháu người chết mặc bao đay thắt khăn tang, thấy chúng tôi đi qua vội vàng cúi xuống đất lạy tạ. Tôi lấy làm lạ, tại sao con cháu người chết lại cúi đầu lạy chúng tôi. Mục Lôi bảo:- Đây là tục lệ, người chết gia đình này chắc chắn là người già, con cháu chịu tang nhìn thấy ai cũng phải cúi lạy. Cậu tôi liền đi vào trong lều, đốt một nén hương cắm lên bàn thờ, thay mặt chúng tôi tỏ lòng kính viếng người vừa qua đời. Đám người ở ngoài lều thì cứ ngồi tại chỗ đánh trống thổi kèn hát lời viếng, họ khóc hờ bằng lời hát gọi là “hiếu ca”. Bài hát đám ma nghe thê lương vô cùng. Tôi lắng nghe, bỗng dưng mủi lòng rơi nước mắt. Tôi có biết một chút nhạc lý nên đã ghi lại bản nhạc của bài ca này, từ đó trở đi, giai điệu và lời hát đã ghi nhớ trong lòng. Trong một cuộc gặp mặt anh chị em trong cơ quan sau khi về Tây Kinh, tôi đã hát lại bài “hiếu ca” ấy. Nghe hát, mọi người ai cũng giống tôi mủi lòng thở vấn than dài. Lời hát thế này:
Ôi, làm người ở trên đời,
Tốt cái gì cơ chứ!
Nói một câu chết là chết liền,
Họ hàng, bạn bè chẳng ai hay.
Họ hàng, bạn bè giờ đã biết,
Người chết đã đến cầu Nại Hà.
Cầu cõi âm không giống cầu cõi dương,
Rộng bảy tấc, cao muôn trượng,
Gió to thổi, tròng trành đung đưa,
Gió nhẹ thổi, đung đưa tròng trành,
Hai đầu đều đóng đinh đồng,
Ở giữa bôi mỡ trơn nhẫy.
Người chết có phúc thì qua được cầu,
Người chết vô phúc thì ngã xuống cầu.
Buổi sáng qua cầu, cầu vẫn đấy,
Buổi tối qua cầu, cầu chẳng còn.
Người chết quay đầu vẫy chào,
Con dường trần gian đã dứt.
Lúc ấy nghe hát hiếu ca, tôi đã khóc, Mục Lôi bước tới kéo tôi sang một bên khẽ bảo:
- Anh khóc cái gì, mình có phải con cháu trong nhà đâu, anh tính để hồn bám vào mình, chuốc xúi quẩy về sau sao?
Tôi không dám khóc nữa, Mục Lôi còn dạy tôi lấy tay vê dấu, bảo làm thế có thể tránh ma chấn tà. Tôi đã làm dấu tay theo hướng dẫn của Mục Lôi. Cậu tôi nói chuyện với người đứng ở bên bàn thờ.
- Bà cụ bao nhiêu tuổi?
- Tám mươi tư.
- Thế cũng thọ lắm rồi.
- Thọ lắm rồi, việc buồn cũng coi là việc vui.
- Bao giờ thì chôn?
- Chờ thằng con trai thứ tám về đã.
- Đông con thế kia à?
- Bác là người qua đường, có lẽ không biết chuyện, cụ già này cả đời không sinh đẻ, nhưng cụ đã nhận nuôi cả thảy mười con trai. Đáng lẽ hôm nay chôn cất, nằm vào đất là yên mà, nhưng đứa con thứ tám đi làm thuê ở xa, đã gọi điện bảo chưa chắc ngày mai sẽ về. Người khác không về đưa tang, chứ cậu con thứ tám thì phải về, khi mẹ cậu nhận nuôi cậu từ ổ sói, cậu mới có một tuổi...
- Bà cụ là bà già Uông phải không?
- Bác cũng biết ư?
Cậu tôi không trả lời, mà tiến đến trước bàn thờ cầm cút rượu tưới lên đống tro giấy tiền, sau đó sa sầm nét mặt bảo tôi và Mục Lôi lên đường.
Chúng tôi đã đi qua thôn bản như thế, rồi rẽ vào một khe núi khác. Ở khe núi này có một con sông, đường đi theo sông quanh co uốn lượn, lúc lên lúc xuống, càng đi càng vắng vẻ. Trong đầu tôi vẫn còn âm vang bài hát đưa tang, tôi buột mồm khe khẽ hát, nhưng vẫn thắc mắc tại sao cậu tôi cắm hương xong lại đến trước bàn thờ tưới rượu, tưới rượu xong bảo chúng tôi đi luôn? Mục Lôi không cho tôi hát, bảo chúng ta lên đường làm việc lớn, hát đưa đám làm gì. Tôi cũng không tiện cãi lại, im lặng cầm máy ảnh chụp phong cảnh trên sông. Mặt sông không rộng lắm, nước chảy không xiết, uốn lượn theo chân núi trước mặt, ven theo bãi sông là cói và lau sậy dại mọc xanh um, có một con đường lượn qua một khóm liễu, dưới cây liễu buộc một con thuyền nhỏ.
- Đò ơi!
Mục Lôi gọi to, hy vọng trong bãi cói sậy có người nghe thấy sẽ chèo thuyền bơi lại. Anh bảo, chiếc thuyền kia không có chủ, ai muốn đến thì tự chống thuyền mà đến, ai định đi thì tự chèo mà đi. Tiếng gọi đò đập vào vách núi bờ bên kia vọng trở lại, con thuyền vẫn neo tại chỗ, không hề nhúc nhích. Cậu tôi đột nhiên hỏi:
- Nát Đầu ơi, lần đến đây càn sói, cậu có mặt không nhỉ?
Mục Lôi đáp:
- Không ạ!
Cậu không nói gì nữa.
- Cậu định nói việc gì vậy?
Tôi hỏi, nhưng cậu lại chỉ vào một cái cây đứng lẻ loi trên đỉnh đèo, bảo ở đấy đã từng là một ổ sói, ba con sói trong ổ đều là sói cái. Không phải con sói nào cũng có dáng hung ác, ba con sói này mang dáng dấp của cáo, lông trắng như tuyết, bên mắt có một vòng tròn đen nhỏ xíu, giống như nét kẻ mắt, mịn màng đều đặn, còn đẹp hơn nét vẽ ở mắt các cô gái Châu Thành. Nhưng năm nào cũng có một hai lần, không biết từ đâu kéo về đây mười mấy con sói, cứ y như về lễ bái hoặc họp hành, những con sói này con nào cũng đem theo lễ vật, không là cừu lợn, thì là gà. Dân chúng sự tới mức trong thung lũng có mười gia đình thì bỏ đi mất tám, Đội săn bắn sói đã tiến hành một trận càn sói, đánh chết ba con sói cái kia. Khi phá hủy ổ sói ở dưới cái cây đơn độc ấy, thì thấy ở trong hang toàn là xương lợn, xương cừu và quần áo lông tóc của người, lạ lùng thay còn có một con lợn sống và một đứa trẻ sơ sinh.
- Đứa trẻ sơ sinh ư?
Chuyện của cậu có vẻ hoang đường, tôi không cảm thấy rợn người, mà lại có phần đáng cười, nhưng nét mặt cậu rất nghiêm túc.
- Chuyện là thế này, - cậu tôi kể - cậu sai Thành Nghĩa bế đứa bé xuống núi cho người ta nhận nuôi, Thành Nghĩa đòi người nhận nuôi hai trăm đồng, cậu đã mắng anh ta một trận, đem tiền trả lại.
- Chuyện này có thật sao? - Tôi kêu lên - Sói đã tha đứa trẻ và mẹ nó về hang ư? Tại sao chúng không ăn thịt đứa bé?
- Chuyện ấy thì ai biết cơ chứ! Chắc chắn đứa trẻ đã bú sữa của sói mà sống, đứa bé trần truồng, trên người cũng mọc lông.
- Đứa trẻ bây giờ thế nào rồi?
- Nó chính là đứa con thứ tám của bà già chết ở thôn bản lúc nãy,
Tôi nhảy dựng lên, oán trách cậu tại sao vừa giờ không nói! Trẻ con nuôi bằng sữa sói, rút cuộc lớn lên giống người hay giống sói? Đây là những chuyện lạ lùng vô cùng, nếu chụp được một tấm ảnh của cậu bé ấy thì có ý nghĩa biết bao nhiêu. Tôi lập tức yêu cầu quay trở lại, nhưng cậu tôi không tán thành, lại còn hối hận đã lắm mồm nhắc lại chuyện cũ.
- Người con thứ tám không ở nhà, đi làm thuê ở nơi khác, có ma mới biết bao giờ về!
Tôi vận động Mục Lôi nói giúp, cho dù không chụp được ảnh người con thứ tám, thì cũng có thể chụp cho bà cụ Uông một tấm ảnh để lại. Nhưng Mục Lôi đã giãy nảy lên:
- Người chết rồi mà anh còn chụp, anh định để những người chịu tang nện chúng ta à?
Rồi anh ôm bụng kêu buồn đại tiện, xách quần đi ra đằng sau vách đá. Tôi đành từ bỏ ý định quay lại thôn bản, tiếp tục đi theo cậu. Đi được bảy tám dặm, ngẩng đầu lên vẫn nhìn thấy cái cây đơn độc trên sườn núi; nhìn xuống thung lũng bên này sông, một vài ngôi nhà bỏ hoang đều đã sập nóc, chơ vơ ba bốn bức tường phơi ra đó, còn có cả cối xay mâm xay và hòn đá kéo lúa. Đây có lẽ là những gia đình bỏ đi ngày nào. Một bầy quạ đen lượn thành vòng tròn trên bầu trời, con đầu đàn từ trong vòng tròn bay ra, giống như tập biểu diễn thái cực đồ. Cậu tôi dặn: - Giữ cẩn thận lương khô! Mục Lôi ôm túi vải đựng bánh bao vào lòng, đề phòng quạ đen tha mất. Nhưng quạ đen không bay đến chỗ chúng tôi, chúng sà xuống đậu trên những hòn đá kéo lúa và cối xay, kêu quang quác. Trời đang chuyển dần sang hoàng hôn.
Đi trong khe núi rất vất vả, nhất là đối với tôi, vốn quen đi đường nhựa ở thành phố, chân bước thấp; bây giờ vì nhấc chân thấp quá nên thường hay bị vấp, đầu ngón chân va vào đá trên lối đi, đầu tiên là toạc móng chân cái bên trái, tôi hái lá thầu dầu nhai đắp vào, buộc cẩn thận. Sau đó, chỗ đau lại va toét lần nữa, đau tới mức tôi cứ ôm chân nhảy lò cò, khóc dở mếu dở, hít thở khí lạnh phì phò như kéo bễ. Vậy mà Mục Lôi lại còn cười, trêu chọc tôi:
- Ăn gì thế, ăn thứ gì ngon thế?
Cậu tôi mắng anh, anh cúi xuống bóp chân cho tôi, bảo:
- Người thành phố làm nũng, chân còn cách tim xa, không chết được đâu!
Đau đớn đã giảm bớt, toàn thân tôi vã mồ hôi, mệt rã rời, chẳng còn chút sức lực nào. Cậu nhìn tôi bằng ánh mắt bất lực không biết làm thế nào, đành phải bảo ngồi xuống nghỉ.
Mục Lôi dắt con Phú Quí ra tắm ở khe suối tại ngã ba thung lũng. Anh bảo phải tắm cho con Phú Quí đen thành Phú Quí trắng mới được. Vừa dằn ngửa con Phú Quí lên hòn đá cạnh suối, anh đã nêu ra với tôi một câu hỏi:- Hai con rùa đen lẹo nhau bên suối, xong xuôi, con rùa đực bò lên đi mất, con rùa cái vẫn ngửa mặt lên trời nằm tại đó. Theo anh thì tại sao con rùa cái vẫn không dậy? Tôi bảo:- Con rùa cái đang hồi tưởng lại khoái cảm. Anh nói:- Không đúng. Tôi bảo có phải nó còn thòm thèm muốn làm một cái nữa. Mục Lôi lại lắc đầu, nào ngờ vừa lắc một cái thì cơn đau đầu tái phát, hai tay vội ôm đầu. Con mèo Thúy Hoa ngay lập tức phát hiện, lao đến như một mũi tên, dùng hai chân chải đầu cho anh, nhưng cơn đau không đở, sắc mặt Mục Lôi nhợt nhạt, mạch máu ở trên trán nổi lên như con giun. Anh gọi:
- Đội trưởng ơi, đội trưởng đến vỗ đầu cho em đi.
Cậu tôi tìm thuốc giảm đau trong ba lô của Mục Lôi. Nát Đầu uống hai viên, anh gục xuống cạnh suối uống hớp nước nuốt vào. Cậu tôi giơ mu bàn tay đập bồm bộp vào đầu Mục Lôi như bằm thịt. Mỗi lần cậu tôi đập qua đập lại, tôi đều cảm thấy như đập vào đầu mình, tôi cứ lo đập mãi như thế sẽ vỡ đầu mất. Mục Lôi đáng thương cứ thúc giục:- Mạnh vào, mạnh vào! Như thế, như thế! Mãi cho tới lúc đỡ đau, sắc mặt đỏ dần lên, Mục Lôi nháy nháy mắt với tôi:
- Anh dốt quá, con rùa cái không dậy là vì chẳng có ai lật mu cho nó.
Cậu tôi đẩy anh ta một cái ngã kềnh.
Xem chừng hôm nay khó lòng vượt qua được trái núi Hoàng Hoa trước mặt. Không vượt nổi núi Hoàng Hoa thì đêm phải ngủ trên võng trong rừng ư? Bánh bao có ba cái thì vừa ăn hết rồi, bụng đói đành phải chờ ngày mai, lúc nào đó tìm được thức ăn đã chứ! Tôi không ngờ công việc chụp ảnh mười lăm con sói lại gian nan đến thế, nhưng tôi không thể oán trách và biếng nhác được dù chỉ một chút, bởi vì cậu tôi và Mục Lôi đang dẫn tôi đi. Trong cảnh chiều hôm, nhìn trên dốc núi có một con đường mòn trắng xóa như sợi dây thừng nhỏ, kéo dài suốt từ chỗ hõm lưng chừng dốc chạy thẳng xuống đáy thung lũng, Tôi nghĩ, sợi thừng nhỏ này từ trên trời rơi xuống chăng. Nếu nửa sợi thừng buộc vào chúng tôi, chỉ cần quăng một phát, chúng tôi sẽ sang bên kia núi Hoàng Hoa. Giá gì sợi dây thả xuống một con gà quay, hay một rổ bánh bao. Quả nhiên, trên sợi dây có một con gà quay, tôi kêu toáng lên một tiếng “Ồ!”, nhìn kỹ thì đó là một người gùi cái thùng gỗ to đang đi xuống, chân bước vòng kiềng, chao chao đảo đảo, dường như có thể lăn cồng cộc xuống bất cứ lúc nào. Tôi vẫy gọi:
- Này, này!
Người đó ngẩng đầu lên, cứ nhìn trân trân một hồi lâu, không tỏ vẻ ngạc nhiên mà lại hí hí cười ngây dại với tôi. Tôi hỏi Mục Lôi:
- Anh ta ốm à?
Mục Lôi đáp:
- Có mà anh ốm ấy, người ta hớn hở chào hỏi anh đấy.
Quả nhiên người ấy nói:
- Đến nhà tôi chứ?
Cậu tôi hỏi:
- Nhà anh ở hõm dốc phải không?
Người ấy gật đầu, nhìn giày ở chân chúng tôi.
- Trong nhà có gì ăn không?
vẫn gật đầu và vẫn nhìn giày ở chân chúng tôi. Trong ba chúng tôi, trừ cậu đi giày đay ra, tôi và Mục Lôi đều mang giày da, không có chỗ nào đặc biệt.
Tôi biết người miền núi hiếu khách, nhưng tôi không ngờ anh chàng chân vòng kiềng này, ngay đến chúng tôi là ai, đến làm gì, cũng không hỏi, liền mời luôn về nhà. Tôi thường nghe nói có một số tù nhân chạy trốn, trên người không có một xu, vẫn ẩn náu lâu dài trong núi sâu, có thể là ẩn náu như thế này chăng? Chúng tôi theo anh chàng chân vòng kiềng gánh nước ở bờ suối rồi lên dốc. Leo tới sườn dốc hình cánh cung, trong chỗ lõm vào của sườn dốc có một ngôi nhà, không xây tường sân, phía trước là bãi rộng, phía đông có một đống rơm, phía tây có một cối xay bằng đá, còn ruộng bậc thang hình bán nguyệt xây đá thì cứ thấp dần từng lớp từng lớp theo địa thế, giống như những chiếc vẩy cá khổng lồ. Tôi thích thú ngắm nhìn phong cảnh đẹp, còn chủ nhà thì cứ nhìn vào giày của chúng tôi, tỏ vẻ nghi ngờ điều gì đó.
- Mời chúng tôi đến lại không muốn để chúng tôi vào nhà sao?
- Các anh đến nhà tôi lần nào chưa nhỉ?
- Chưa!
- Chưa đến bao giờ thì được. - Anh chàng chân vòng kiềng nói - Tôi làm việc cả ngày, tối đến mệt lử, nửa đêm thức dậy đi tiểu, dưới giường lò thường có giày cỏ của tôi, giày hoa của vợ, còn có một đôi giày cao su vàng, tôi liền...
Cậu tôi bảo:
- Có lẽ đêm khuya, anh hoa mắt chăng?
- Hoa mắt một lần, chứ ba lần bốn lần đều hoa mắt hay sao?
Tôi và Mục Lôi cười hì hì. Mục Lôi khẽ nói:
- Đó là giày của tôi đấy!
Tôi vội vàng bịt cái mồm ăn mắm ăn muối của anh ta, bảo:
- Anh nhìn cho kỹ, chúng tôi không có ai đi giày cao su màu vàng.
Anh chàng chân vòng kiềng liền cười hì hì:
- Các anh không phải giày cao su màu vàng.
Anh ta dẫn chúng tôi qua đống rơm rạ quây xấn trên ba cây chụm lại, tôi trông thấy một người phụ nữ đầu bù tóc rối ngồi trên cái đôn gỗ ở chái nhà, thế đất cao, ráng chiều của mặt trời lặn vẫn còn chiếu một vệt, chị ta đang vạch áo bắt rận. Nghe thấy tiếng bước chân, đầu không ngẩng lên, chị ta nói the thé:
- Lão Tuyền ơi, lão Tuyền, nước tiểu trong thùng có giòi rồi sao anh không đổ đi?
Anh chàng chân vòng kiềng nói:
- Nhà có khách.
Người đàn bà lúc này mới ngẩng lên nhìn chúng tôi, hỏi:
- Nhà có khách à?
Chị ta vén quần lên gãi ngứa sồn sột, để lộ ra cẳng chân cóc cáy đen sì, những thứ gì đó như vẩy trấu bay trong ráng chiều. Anh chồng bảo:
- Khách đến rồi, làm một đĩa bánh bao, nấu một bát dưa chua, nhà còn mở lợn phải không, chiên lên nhé!
Chị vợ nói:
- Làm gì có mỡ lợn, anh có giỏi thì đi kiếm mỡ lợn về đây.
Anh chồng vội vàng lấy cái làn nhỏ đựng hạt thầu dầu trên cái mẹt ở hiên trước nhà, bóc mười mấy hạt rồi đi vào trong nhà đốt chảo. Chị vợ nhìn Mục Lôi cười, bảo anh ngồi xuống ngưỡng cửa, đưa túi thuốc của chồng treo trên then cửa cho Mục Lôi hút, Mục Lôi không hút, chị ta lại gọi chồng:
- Lão Tuyền ơi, lão Tuyền, cái lược nhà mình để đâu nhỉ?
Anh chồng lại cầm lược đưa cho vợ, rồi vơ một bó củi đi vào nhà. Chị vợ chải mái tóc rối bù xù của mình, luôn mồm nhổ bọt bôi lên tóc. Tôi khe khẽ hỏi Mục Lôi:
- Chị ấy gọi chồng là lão Tuyền, lão Tuyền là gì nhỉ?
Mục Lôi đáp:
- Anh không biết Tuyền đâu, tinh dịch đấy, chửi mà lị, cộng thêm chữ lão nghĩa là người chồng già.
Tôi nói:
- Ồ, anh ấy đâu đã già.
Nhưng chị vợ đã nghe thấy, liền bảo:
- Hơn tôi những mười lăm tuổi mà không già ư? Anh ấy mười lăm tuổi cao thế này này, - chị ta đưa tay chỉ vào vai của Mục Lôi - còn em mới lên một.
Anh chồng bưng đĩa bánh bao ra, nói:
- Cô này, cô...
Chị vợ cướp lời:
- Tôi làm sao nào, anh mà không coi là già ư? Vương Sinh không chết thì tôi đâu đến được giường lò của anh?
Chị vợ này chua ngoa đáo để, chúng tôi không nói gì nữa. Dưa chua, nước tương được bưng ra, còn có hẳn một con gà chưng, nhưng là gà gỗ, gõ kêu cốc cốc. Bánh bao hấp bột đen, to tổ bố, trên bánh in rõ đường vân tay. Mục Lôi bảo:
- Ông chủ có phúc, vân tay tròn hình cái đấu.
Chị vợ nhanh nhảu:
- Đó là vân tay của em, anh nhìn này, mười ngón tay em đều có vân tay tròn hình đấu, mười cái đấu cơ đấy nhé!
Chị ta giơ tay cho Mục Lôi, Mục Lôi cầm lấy, cứ lật lên lật xuống, bóp bóp nắn nắn. Cậu tôi trừng mắt nhìn anh ta, anh ta buông tay chị kia ra, nói:
- Tay đẹp đấy.
Lần đầu tiên tôi biết thế nào là đói mầm đá cũng ngon, cứ xơi tì tì, ăn hết một cái bánh bao, lại ăn cái nữa, cái nữa. Người đàn bà đột nhiên thò tay vào bụng sờ mó, hình như sờ được cái gì đó để vào lòng bàn tay xem. Anh chồng chân vòng kiềng lập tức đạp vợ một cái, chị ta nhìn tôi cười, hất tay đi, bảo:
- Em cứ tưởng là con rận!
Mục Lôi ngoẹo đầu, nhìn chằm chằm xuống đất, nói luôn:
- Tôi lại cứ tưởng không phải là con rận!
Tôi bỗng cảm thấy buồn nôn, vội bỏ đũa xuống. Cậu tôi bảo:
- Ra khỏi nhà rồi, cái mồm phải quen ăn nhiều thứ,- Rồi cậu quang sang hỏi người đàn bà - Trên dốc chỉ có một mình nhà chị, ở đây có sói không?
Chị ta đáp:
- Thân người có rận, thân núi có sói, sao lại không có sói cơ chứ?
Anh chồng liền cải chính:
- Hết sói rồi, mấy năm nay có thấy bóng dáng con sói nào đâu.
Chị vợ nói:
- Sao lại không có sói? Không có sói, hóa ra anh đã ăn thịt Vương Sinh à?
Anh chồng bảo:
- Vâng, vâng, có sói, có sói.
Chị vợ đắc ý, ngồi bệt xuống cạnh Mục Lôi, cầm một cái bánh bao lên ăn, vừa nhai vừa nói:
- Tôi phải chửi cái bà mối Lưu chết dấp ấy. Bà ta dỗ dành tôi không có sói; không có sói, nên tôi mới đến Câu Não làm dâu nhà Vương Sinh. Người đến trêu đùa cô dâu chú rể trong đêm tân hôn ép tôi hôn Vương Sinh. Hôn thế nào được trước đông người như thế, tôi đã không hôn. Thế là bọn họ lôi Vương Sinh ra buộc vào cây táo trước nhà để phơi lạnh trong tuyết, họ bảo tôi không hôn thì nhìn Vương Sinh rét cóng rét run trong lòng có thương không? Tôi nghĩ bụng, cứ để xem một người đàn ông lớn tuổi chịu được rét đến mức nào, nên đã im lặng. Nhưng bọn họ lại không chịu cởi trói cho Vương Sinh, cứ trêu đùa tôi mãi. Tôi có đen không? Đen thì có đen, nhưng tôi là hoa mẫu đơn đen, bọn họ đều bảo thế. Tôi cũng biết bọn họ lôi Vương Sinh đi để tiện chọc ghẹo tôi. Nhân cơ hội, người này sờ eo tôi, kẻ khác véo bẹn tôi, còn thọc cả tay vào bụng vào ngực tôi. Bọn họ đều là trai độc thân chưa vợ, tôi ngốc quá, nghĩ bụng bọn họ chưa bao giờ thấy đàn bà, bóp thì cứ bóp đi. Cứ thế nô nghịch cho tới quá nửa đêm mới nhớ đến Vương Sinh vẫn còn ở ngoài cửa, lúc ra nhìn thì Vương Sinh đã bị sói ăn thịt.
Tôi kêu lên:
- Sói đã ăn thịt chú rể ư?
- Không ăn thịt là gì! - Chị vợ nói - Sói sợ lửa sợ ánh sáng, tối hôm đó trong nhà lửa đèn sáng choang, nhưng sói lại dám đến và đã ăn thịt Vương Sinh. Nó cắn đứt họng anh ấy trước, sau đó móc bụng ăn, ruột già ruột non rơi cả xuống đất, chân tay bị dây thừng trói nên vẫn còn nguyên.
Anh chàng chân vòng kiềng đi đến cho thêm dưa chua vào đĩa, cố ý đứng trước mặt vợ nói:
- Không cho cô nhắc đến Vương Sinh mà cô vẫn cứ nhắc! Tay Vương Sinh ấy là con lợn hóa kiếp, làm gì có người đàn ông nào béo trắng thế... Anh ta vốn là một món ăn của sói.
- Anh cứ rủa Vương Sinh đi! - Chị vợ chanh chua - Nếu anh không chết, thì ngày nào tôi cũng nhắc đến Vương Sinh của tôi, Vương Sinh ơi, Vương Sinh!...
Anh chồng lúng túng nhìn chúng tôi cười.
- Lúc Vương Sinh bị sói ăn thịt, chắc chắn anh ấy đã kêu cứu, - chị vợ tiếp tục nói - nhưng trong nhà nô đùa ầm ĩ, không ai nghe thấy. Sói đã từng ăn thịt trẻ con, nhưng ai ngờ người lớn cũng bị sói ăn thịt.
Anh chồng giơ chân đá vợ, cô vợ cũng lấy chân đá lại chồng, lại còn khóc hu hu. Anh chồng ôm vợ định lôi vào trong buồng, chị vợ ôm chặt cái đôn gỗ không đi. Cả người và đôn gỗ liền bị kéo xềnh xệch qua bậc hè. Chị vợ bỗng dưng ôm chặt chân Mục Lôi, anh chồng liền buông tay ra. Mục Lôi nói:
- Tôi dìu chị vào trong nhà ngồi nghỉ nhé!
Chị vợ đứng ngay dậy để Mục Lôi đỡ vào trong nhà. Anh chồng liền giục tôi và cậu tiếp tục ăn cơm.
- Ăn đi, ăn đi! Ở đây trước kia có sói thật đấy. Các anh cứ nhìn mà xem, trên bờ tường thì vẽ vòng tròn vôi, trước cửa cũng đào hố, tôi còn có cả cạm sói nữa. Nhưng mấy năm nay lại không thấy bóng dáng một con nào. Ở chung với sói hàng chục năm đã quen rồi, bây giờ bỗng dưng không có sói nữa. Tôi ngồi trước cửa hút thuốc cứ nghĩ vẩn nghĩ vơ, tại sao không có sói nữa nhỉ?
Ở trong nhà, chị vợ nói vọng ra:
- Anh nhớ sói là phải rồi, sói đã biếu anh một cô vợ cơ mà!
Không biết con Thúy Hoa đã vào trong nhà từ ìúc nào, bỗng nó nhảy phốc ra, tha một chiếc giày của bà chủ, kêu meo meo. Cậu tôi liền gọi:
- Nát Đầu ơi, Nát Đầu!
Mục Lôi từ trong nhà đi ra, bụng ôm sáu bảy cái bánh bao, nói:
- Tôi xin cho anh em mình một ít lương khô.
Ăn cơm xong thì trời đã tối, chiếc đèn bão được đốt lên đặt ở nóc tủ trong nhà. Anh chủ chân đi chữ bát muốn giữ chúng tôi ngủ đêm. Trong nhà chỉ có một cái giường lò to, ở lại thì nằm ở đâu? Nhưng chị chủ nhà bảo, cái giường to như thế này chín mười người nằm cũng vừa, liền lấy bàn chải lau chiếu trên giường, rồi trải chăn. Anh chồng cầm một chiếc đòn gánh ra đặt ở giữa giường bảo:- Hai vợ chồng tôi ngủ bên này, ba người các anh nằm ở bên kia.
Mục Lôi nói:
- Chúng tôi đều có học, ngăn hay không, không sao cả.
Nhưng cậu tôi cứ dứt khoát phải đi. Tôi hỏi:
- Mình không ở lại hả cậu?
Cậu đáp:
- Ở đây không được.
Nói rồi, cậu ra cửa đi liền. Mục Lôi đã đặt hành lý lên giường, song con Phú Quí lại tha gói hành lý ra, anh chàng tức quá đá con Phú Quí một cái.
- Các anh ấy muốn đi thì cứ đi, còn anh ở lại. - Chị chủ nhà bảo thế.
- Tôi không dám đâu.
- Ông ta là ai, người gì mà lạ thế?
Mục Lôi đáp:
- Là đội trưởng của chúng tôi.
Chị chủ nhà bĩu môi, ngồi ì trên giường, không chịu đứng dậy. Anh chàng chân vòng kiềng tiễn chúng tôi ra đi, anh ấy còn châm cháy ba sợi thừng lửa để chúng tôi quăng soi dọc đường, bảo là phòng được dã thú và tránh được ma tà. Anh ấy tiễn chúng tôi một mạch đến sườn núi Câu Não, chỉ vào nền nhà bỏ hoang có bức tường đổ nát bảo, gia đình Vương Sinh vốn ở đây. Dưới ánh trăng, cây táo trói Vương Sinh vẫn còn đó, tôi đứng dưới cây táo, tưởng tượng sói ăn thịt Vương Sinh như thế nào, tự dưng rùng mình rợn tóc gáy. Tôi đung đưa người dựa sát vào cây táo, cây táo rung lên rào rào, mấy quả táo khô lép năm ngoái rơi lả tả xuống đất. Anh chàng chân đi vòng kiềng đi đến một cái bệ cối xay ở bên cạnh, bệ cối xay đã bị sạt một nửa, cánh cối xay lặng lẽ tỏa ra ánh sáng lạnh lẽo dưới trăng. Mục Lôi khẽ nói với tôi và cậu:
- Trông cô vợ anh ta lôi thôi, thật ra cũng đẹp đấy!
Cậu tôi ngắt lời:
- Những chiếc dùi đầy mồm cũng đẹp à?
Mục Lôi đáp:
- Răng trắng đáo để.
Cậu tôi bảo:
- Cái ngữ cậu chịu không nổi mỹ nhân kế đâu mà!
Mục Lôi gân cổ lên nói bừa:
- Cô ấy thử dùng kế mỹ nhân với tôi đi, xem tôi tương kế tựu kế như thế nào!
Tôi nói:
- Mục Lôi này, anh ăn nói lung tung vừa chứ!
Anh chàng chân đi vòng kiềng đang ngồi gục xuống bên bệ cối xay, tôi cứ tưởng anh ta ra đấy đại tiện, nhưng lại thấy anh ta lấy từ trong người ra một cái gì đó, sau đó nhặt một hòn đá đập mạnh xuống. Lạ lùng quá, tôi đi tới xem, thì ra cạnh bệ cối xay là một nấm mồ, anh ta bảo, đây là mộ Vương Sinh, cái đầu và chân tay Vương Sinh chôn ở đây. Anh ta đóng nêm gỗ đào trên mộ Vương Sinh để yểm bùa. Anh ta nói:
- Tôi hận Vương Sinh.
Tôi bảo:
- Anh nên cảm ơn Vương Sinh mới đúng.
- Hồn ma của hắn chắc chắn đã bám vào người vợ tôi. Anh không biết đâu, một năm rưỡi nay, mồm cô vợ tôi chỉ nhắc đến Vương Sinh. Ban đêm cho dù nằm ngủ với tôi, cô ấy vẫn cứ gọi Vương Sinh, cô ấy gọi tiếng nào, còn đòi tôi trả lời tiếng ấy.
- Anh nên đóng nêm lên thân sói. - Tôi nói - Mộ của Vương Sinh xây trong bụng sói cơ mà!
Chúng tôi trở lại đi qua dưới cây táo, anh chàng chân đi chữ bát đạp đạp vào thân cây, táo khô trên cây rụng hết. Anh ta nhặt một nắm đưa cho tôi, tôi định nhét một quả vào mồm, nhưng cậu đã đánh vào tay tôi một cái, quả táo bay đi. Cậu bảo:
- Quả có hồn oan, không ăn được!
Anh chàng chân đi vòng kiềng bỗng hoảng hốt nói, anh ta đã trót nuốt quả táo mất rồi, quả táo to như vậy, vừa cho vào mồm một cái đã nhộm nhoạm nuốt luôn.