PHẦN XVIII
Bộ mặt của sói rút cuộc vẫn chưa xuất hiện, cậu không cho lái đò dừng lại, thuyền tiếp tục lao về xuôi vun vút. Thế rồi chuyện rắc rối lại xảy ra. Tôi sợ bệnh lòi dom không khỏi ngay, nên khi mua rượu cho ông lái đò, tiện thể mua luôn ít giấy vệ sinh “dịu mà đẹp”. Vừa lấy ra định thay thì bất chợt ngứa ran lẽn, tôi gãi gãi mấy cái, càng gãi càng ngứa, rồi ngứa cả toàn thân. Cậu tôi vén quần áo tôi lên xem những nốt đỏ trên người, cậu bảo, người thành phố các anh cơ thể chẳng ra sao, bị nhiễm độc cây sơn mất rồi. Mục Lôi tìm trong đống củi bổ ở đầu thuyền, quả nhiên tìm ra mấy thanh củi sơn, liền vỗ tay bảo:
- Yếu quá, yếu quá! Tôi nằm suốt đêm trên đống củi chẳng sao, anh ngồi có một lúc đã dở chứng thành nông nỗi này.
Sau đó, Mục Lôi vơ từ trong khoang thuyền ra một bó rơm mạch châm lửa đốt, bảo tôi bước qua bước lại trên đống lửa. Tôi không chịu tin anh ta, cho là anh ta trêu mình, nhưng cậu cũng nói một cách nghiêm chỉnh:- Anh cứ làm theo Mục Lôi đi, mồm nói anh là bảy tôi là tám, độc sơn sẽ hết. Tôi cởi quần ra trông rất buồn cười, vừa nhảy qua đống lửa vừa nói:
- Anh là bảy, tôi là tám, tôi không sợ anh!
Sau đó ngồi xuống, ngứa đến phát khóc, nhưng lại cảm thấy buồn cười, cứ nhăn nhăn nhó nhó, đã lòi dom lại bị sơn ăn. Cậu tôi đành bỏ ý định đến thẳng huyện Thương Nam, con đò neo lại ở ven một cánh rừng gỗ hoa. Bây giờ đến lượt cậu gánh tất cả hành lý, còn Mục Lôi thì cõng tôi đi đến một thị trấn xa lắc xa lơ. Bình minh đang lên, trời đất sáng bừng hẳn. Chúng tôi men theo lối mòn trên bãi sông, trèo qua một dốc lớn thoai thoải, rẽ sang một lối ngoặt của trái núi, thì gặp con đường cái quanh co khúc khuỷu, bên đường cứ cách khoảng một dặm lại có một quán nhỏ, treo vô số đèn lồng đỏ ở trước cửa. Mục Lôi khẽ bảo:
- Có nhìn thấy không, phàm những quán nào ở xa thôn bản thị trấn mà treo đèn lồng đỏ, thì ở trong đều có cái khoản kia.
Tôi hỏi:
- Khoản gì hả?
Mục Lôi cười im lặng. Sau đó anh đặt tôi xuống cạnh đường, đi một mình vào quán, một lát sau trở ra bảo, trong quán có chỗ ăn, chỗ ở, mình ở hay ăn nào? Ý cậu là nếu ở thì đến thị trấn, còn ăn thì có món gì, Mục Lôi đáp:
- Thứ gì cũng có, chỉ không có giấy lau mồm tiệt trùng thôi, nhưng có thức ăn ngon, có ăn không bí thư?
Tôi bảo có thứ gì ngon, giữa núi rừng Thương Châu liệu có thứ gì ngon không? Mục Lôi đáp:
- Chính vì rừng núi không có món lớn, nên trong quán nhỏ này mới hóa phép trổ tài chứ, vừa sáng bảnh mắt đã ngồi đầy hai bàn.
Khi đứng dậy đi thì con Phú Quí từ đằng sau tha bó da sói lon ton chạy đến; bỏ bó da sói xuống, nó liền sủa gâu gâu. Tôi nhìn thấy lông da sói dựng đứng cả lên. Cậu bỗng sững người, quay đầu nhìn bốn phía, rồi chỉ vào gò đất gần đấy:
- Ở chỗ đó đã từng có sói nằm, anh ngửi xem, có mùi hôi đấy.
Con Phú Quí tiếp tục phụ họa sủa gâu gâu.
Cậu nói kỳ quá! Cho dù là thợ săn lão luyện nhất cũng không thể ngửi thấy mùi sói ở nơi sói đã từng nằm! Mục Lôi cũng đứng lại, hếch mũi lên nói:- Tôi bị viêm mũi. Rồi anh ta đi ra chỗ gò đất, quả nhiên nhặt được một dúm lông sói. Cậu giục Mục Lôi đi vào quán, tôi đỡ mông ra gò đất chụp ảnh. Gò đất đối diện với quán ăn không xa, thậm chí có thể nhìn thấy sân sau quán ăn. Lạ thật đấy, cách quán ăn gần thế này mà lại có sói dám nằm ở đây, nó nằm ở đây định làm gì nhỉ?
Lúc tôi vào quán ăn, trong quán có năm bàn, thì hai bàn đã có người ngồi, trông dáng dấp những người này y như cánh lái xe qua đường, họ đang ăn bánh bao và thịt bò xào, không có gì đặc biệt. Chủ quán là một người có cặp mắt tam giác, cúi gập lưng, nói sang sảng:
- Xin chào, mời ngồi. Cho một đĩa lưỡi bò xào!
Một người hầu bàn trẻ cầm con dao sáng loáng đi ra sân sau. Tôi hỏi:
- Còn món gì nữa không? Lẽ nào chỉ có mỗi thịt bò?
Chủ quán đáp:
- Tiên sinh đến đây lần đầu phải không? Thịt bò ra thịt bò, dưới gầm trời này cũng chỉ có một quán nhà mình thôi!
Tôi nói:
- Thịt bò nhà anh lẽ nào không phải thịt trên thân bò?
Chủ quán đáp:
- Nói hay đấy, nó chính là thịt trên thân bò!
Lời nói chưa dứt, thì từ sân sau vọng đến một chuỗi tiếng bò rống. Mục Lôi gọi tôi:- Bí thư ơi, anh ăn gì? Ăn gì bổ nấy, có ăn đầu đại tràng không? Những người đang ăn cơm ở hai bàn kia, ai cũng dừng đũa nhìn tôi, ghé đầu vào tai nhau thì thầm:- Đấy là bí thư!
Tôi vòng qua một vũng nước bẩn đỏ lòm tanh tưởi, đi ra sân sau. Sân sau rộng lắm, xếp vô số các bộ khung xương bò hoàn chỉnh. Trong một giá gỗ sù sì treo một con bò nhỏ béo nung núc, một đùi sau của nó đã bị róc sạch thịt, lòi hết cả xương ra, máu chảy ròng ròng xuống đất. Còn trên giá gỗ treo hai xâu dây cỏ thơm đang cháy rủ xuống, tỏa khói xanh biếc, khiến đàn ruồi nhặng bay vè vè không thể đến gần. Anh chàng bồi bàn xắn cao tay áo, mồm ngậm con dao lá liễu, xách thùng nước đi đến, đặt xuống rồi cúi người mở chiếc rađiô để trên hòn đá kéo lúa ở bên cạnh giá gỗ. Tiếng nhị “Nhị tuyền ánh nguyệt” réo rắt vang lên trong không gian, y như khói thuốc bay ra khỏi lỗ mũi người hút thuốc, y như con bướm bay bay nhẹ nhàng... Tôi nhìn thấy anh chàng kia đột nhiên xách thùng nước hắt ào ào vào chân trước bên phải con bò, con bò không rống lên nữa nhưng há to miệng, toàn thân run rẩy. Bốn chân con bò hoàn toàn bất lực, cái giá gỗ đã kẹp chặt khiến nó không quì xuống được. Cặp mắt nó chảy nước, một thứ chất lỏng màu vàng đặc sệt từ trên má rơi xuống. Anh chàng kia dường như không thèm nhìn, dao lá liễu tỳ trên lưng bò, cất tiếng hỏi:
- Ăn lưỡi bò chứ?
- Không, ăn đuôi bò kho tàu! - Cậu tôi đáp.
Con dao phập một nhát, đuôi bò đứt phăng, nhanh gọn tới mức có cảm giác như đuôi bò chỉ nối lắp vào. Cái đuôi bò quẫy quẫy trên mặt đất, đàn ruồi nhặng lao vào bị nó xua ra xa.
- Tôi phải ăn ngầu pín bò.
Mục Lôi cúi xuống sờ mó bộ phận sinh dục của con bò, một đoạn dài dài thò ra. Con ve tám chân bò trên gáy Mục Lôi, anh chàng kia vỗ luôn lòng bàn tay vào, trên gáy không có máu, chỉ có một vệt đen sì.
- Cắt sát vào, sát vào!
Mũi dao không thò dưới háng bò, mà bập vào lỗ đít bò, ngoáy một cái thật mạnh, anh chàng kia nói:
- Rút ra từ đằng trước.
Mục Lôi lại cúi xuống rút ngầu pín bò ra, dài đẫy một gang.
- Bí thư ơi! - Mục Lôi gọi - Anh bị lòi dom, có ăn đầu đại tràng không?
- Không không...
Tôi chưa bao giờ nhìn thấy thịt bò sống ăn miếng nào xẻo miếng đó như thế này, cảm thấy khắp mình mẩy đang đau đớn.
- Tàn nhẫn quá, ăn thế nào được cơ chứ!
Tôi vội vàng chạy khỏi sân sau, đi ra phía trước, ngồi sụp xuống cạnh đường cái trước quán. Tiếng “Nhị tuyền ánh nguyệt” vẫn văng vẳng bên tai. Tôi nhìn bầu trời rực rỡ, nắng sớm nhuộm đỏ từng đám mây màu, những đám mây màu này không ngừng thay hình đổi dạng, giống như ngọn lửa trong lòng lò phản chiếu ra ngoài từng lớp từng lớp. Nhưng khoảng trời trên quán ăn thì dần dần đọng lại một đám mây đen. Quay nhìn bốn phía, thấy xung quanh quán có một vài cây, cây nào cũng héo một nửa, ngay đến cỏ cạnh đường cũng vàng xỉn, không có một chút hơi xanh. Cậu và Mục Lôi từ trong quán đi ra gọi tôi, vẻ mặt người nào cũng tỏ ra nghi hoặc:
- Anh không ăn thật à?
- Không ăn. - Tôi đáp.
- Nếu không ăn thịt thì gọi cho anh một đĩa đậu phụ nhé, đậu phụ ở đây mịn lắm.
- Không ăn!
- Thứ gì cũng không ăn sao?
- Đây là đâu nhỉ?
- Trước mặt là thị trấn Sinh Long, chỗ này là đèo Anh Hùng.
Tôi ngẩng nhìn biển đề ở cửa quán, trên tấm gỗ ngô đồng không sơn phết, nguệch ngoạc mấy chữ mực đen xấu xí: “Quán Thịt Bò Đèo Anh Hùng”. Còn bên trái quán thì kề sát vào vách đá đỏ, trên tường vách đá đục khắc cái gì đó chi chít. Cậu và Mục Lôi không biết làm thế nào, lại vào quán, Mục Lôi còn cố quăng cho tôi một bao thuốc. Tôi đứng dưới tường đá chăm chú nhìn đoạn văn khắc kia, nhiều vết chữ đã tróc vỡ, nhưng nội dung đại thể là, khi vị vua xông xáo Lý Tự Thành đóng quân ở Thương Châu, vợ của ông đang đau đẻ ở thị trấn phía trước, quân sĩ của nhà Minh bất ngờ kéo đến vây quét. Dưới quyền Lý Tự Thành có một người tên là Lý Nghĩa đã đánh nhau với binh lính nhà Minh ở đây. Lý Nghĩa, giống như Lý Đạt trong truyện “Thủy hử”, cũng dùng rìu chém một lúc hai trăm tên địch, khi quân địch bị thua rút đi, anh ta đã cắt tai của từng tên lính bị giết, xâu lại thành chuỗi, treo trên bức tường đá này... Tôi thốt lên: -Anh hùng là cứ phải chém giết sao? Lý Nghĩa dùng rìu chém hai trăm người, anh ta là anh hùng. Cậu tôi săn bắt sói nửa đời người, cậu cũng là anh hùng. Một hiệu thịt bò ở đây, những ai đến ăn thịt bò sống cũng đều là anh hùng hay sao? Ở đằng sau tôi có hai người đi đến, chính là khách vừa ăn cơm trong quán, có lẽ họ cũng đến xem văn bia, nhưng một người bảo:
- Ở lại đây chứ? Trong dãy quán phía đông sân sau mới đến một con “phẽo” non ra phết, vú lại to.
Người kia nói:
- Lại làm khách làng chơi hả? Cẩn thận đấy, bà xã biết lại làm ầm ĩ lên.
Người nọ bảo:
- Mình đã nói thẳng với bà xã, ngủ với đĩ sướng lắm, người ta biết “gọi giường”, chứ đâu như anh vần xác em. Bà vợ chân quê hiểu thế nào được tiếng lóng “gọi giường” là những cách chiều khách làng chơi. Bà ấy bảo, gọi giường à? Ai chả biết gọi giường. Thế là lúc vào cuộc, hai tay bà ấy cứ vỗ phành phạch vào mép giường: Gọi giường này, gọi giường này! Mình điên tiết, lọi cho một nhát. Khác nhau chứ, vợ là vợ, đĩ là đĩ, hai chuyện khác hẳn nhau!
Tôi vội vàng tránh xa bọn họ, ngồi trên tảng đá cạnh đường hút thuốc. Cuối cùng, cậu và Mục Lôi đã ăn no nê vừa ợ nấc lên vừa ra khỏi quán, hình như Mục Lôi hỏi:
- Anh cảm thấy thế nào?
Cậu đáp:
- Thịt xào chưa chín dừ.
Mục Lôi nói:
- Tác dụng phải biết, bây giờ em đến phải đi khom.
Đúng là Mục Lôi khom lưng về phía trước thật, anh ta cười hềnh hệch. Cậu liếc nhìn tôi, có vẻ ngường ngượng:
- Không nên ăn cơm ở đây mới phải. Tử Minh không muốn thì có lẽ ngay đến sói cũng cười cợt bọn mình.
Mục Lôi bảo:
- Sói lang hổ báo cũng không ăn thịt thiu thối cơ mà!
Tôi ngẩng đầu nhìn lại cái gò đất, tự dưng nghĩ, chắc chắn sói đã từng nằm ở đó, mà nằm ở đó cũng chắc chắn không phải một hai lần, chúng đã nhìn tận mắt con người xẻo từng miếng thịt trên thân con bò sống như thế nào. Còn con sói mà chúng tôi nghe thấy tiếng nó gầm lúc ở trên thuyền liệu có phải là con sói đến đây nằm không. Có phải nó tỏ lòng bất bình đối với cảnh ngộ của bò, hay là nó chửi rủa con người xẻo thịt bò sống, ăn thịt bò sống? Thương Châu là mảnh đất nghèo khó, từ lâu đã nghe nói ở các nơi có nhiều quán kinh doanh thú rừng, nhưng từ sau khi hàng loạt điều luật bảo vệ động vật hoang dã được công bố, thì các quán ăn này đã nghĩ ra cách ấy để câu khách!
Tôi đi theo cậu và Mục Lôi, cậu cúi xuống bẻ một cành cây bên đường xỉa răng, hỏi tôi:
- Người anh còn ngứa không?
- Vừa nhìn thấy hình dạng con bò, sợ đến mức hơi độc sơn bay đi cả.
Nhưng bệnh trĩ của tôi thì hình như nặng hơn. Tôi không muốn nói hết những điều này với cậu, cố gắng bước nhanh, đi vào quán chụp ảnh những con thỏ rừng bị lột da để lộ bộ mặt gớm ghiếc, chụp những bộ xương cừu và mai rùa vàng treo trên xà gỗ trước bếp lò, lại quay sang chụp một đống xương bò to tướng xếp ở góc tường sân sau, chụp cả con bò sống bị cắt dở dang máu me nhoe nhoét. Khi tôi chụp cho anh chàng bồi bàn, thì anh ta đang cầm dao xẻo tai con bò. Thấy tôi chụp, anh ta dừng tay, đứng nghiêm mỉm cười, trên gò má anh ta có hai cục thịt đỏ, mắt nhỏ ti hí như cái móng tay bóp lại. Bước ra cửa, chủ quán mời tôi thuốc lá, nói:
- Cảm ơn tiên sinh, tuyên trụyền nhiều hơn cho chúng tôi nhé!
Giơ máy lên, xoạch một tiếng, tôi chụp luôn bộ mặt ông ta, thầm nghĩ: Mồm đàn bà! Ông ta có cái mồm bà già, ở cằm mọc một nốt ruồi, trên nốt ruồi có một sợi lông dài. Xin hãy đợi, sau khi lấy được chứng cớ, ta sẽ tố cáo nhà ngươi trên báo, dứt khoát buộc phải đóng cửa cho mà xem!
Tôi nói:
" Nếu gặp phải năm mất mùa đói kém, quán ăn này chắc cũng dám bán bánh bao thịt người lắm. Cậu ơi, trên gò đất kia chắc chắn sói thường hay đến, mình đến thị trấn Sinh Long ở lại, sau đó canh ở đây nhất định chụp được ảnh sói.