← Quay lại trang sách

PHẦN XIX

Thế là chúng tôi đã ở lại thị trấn. Chủ nhà trọ của chúng tôi là người Thiểm Bắc, một người đã già nua, da dẻ nhăn nheo chùng cả xuống trên khuôn mặt như con lừa. Ông bảo ông lưu lạc đến Thương Châu, vốn là nông dân, nhưng cũng đã từng tham gia cách mạng. Khi ông nói, nước dãi cứ chảy ra, ông không nói Thương Châu đã nuôi nấng ông mấy chục năm, chỉ oán trách mình là người Thiểm Bắc, một con rồng trói mình ở Thương Châu Thành con sâu róm. Tôi cảm thấy tinh thần ông già có phần không bình thường, nhưng điều này không cản trở đến sự thú vị của ông trong câu chuyện. Sau khi con dâu ông nấu cho chúng tôi ăn một bữa mì sợi đậu, cậu và Mục Lôi đi xem tấm bia đá “Trấn Sinh Long” trong thị trấn, khen đây là nơi sinh ra người đẹp vào loại nhất ở Thương Châu, phu nhân ở Thương Châu của sấm Vương Lý Tự Thành là con gái nhà họ Lương trong thị trấn. Sấm Vương cưỡi ngựa đi trên phố ban đêm, lúc bấy giờ đường phố rải đá phiến xanh cỡ lớn, tiếng vó ngựa giòn tan, chuông đồng kêu coong coong, cửa sổ các nhà ở hai mặt phố đều mở ra, các cô gái chải tóc dầu hoa quế, bôi móng tay màu, mắt háo hức chờ đợi tiếng ngựa hắt hơi trước cửa: Ông ta định ngủ ở nhà nào, thì roi ngựa treo vào vòng cửa nhà đó. Đương nhiên soi ngựa của Sấm Vương thường gài lên vòng cửa nhà họ Lương, nhà họ Lương liền đun nước nóng, cho lá hoa nhài vào, con gái phải tắm rửa nước nóng. Trong sân sau nhà họ Lương có một hàng trúc xanh và vài khóm mẫu đơn; trúc gặp gió mọc dài đốt, hoa mẫu đơn nở to bằng cái bát. Nhưng đáng tiếc, con gái nhà họ Lương không may mắn, sau khi nàng sinh một đứa con, sấm Vương Lý Tự Thành kéo quân lên Bắc Kinh lại không đưa nàng đi cùng, nếu không, trong triều vua Đại Thuận, nàng ấy cũng là một vị nương nương. Tôi không đi xem tấm bia đó, mà ở nhà dùng thuốc nam chữa bệnh lòi dom.

Bệnh viêm vòm miệng và lòi dom của tôi luôn là nỗi khổ khó nói mà tôi không thể đắc ý trước mặt vợ, cũng vì thế mà đánh răng và rửa đít đã trở thành bài tập phải làm của tôi mỗi buổi tối. Năm kia, tôi đã từng mổ một lần, vết thương không dán thuốc, bác sĩ yêu cầu để lành tự nhiên. Suốt hơn mười ngày tôi khổ sở, cơm không dám ăn nhiều, ngủ không được nằm ngửa, ho cũng cố gắng nín thở mà ho. Vợ tôi nghe nói có một loại máy phổ tần chữa được vết thương bên ngoài, liền mua về để soi chiếu. Nào ngờ soi chiếu vào, vết thương lại sưng tấy lên, tôi phải nằm trên giường thêm một tháng nữa. Vậy mà chẳng bao lâu sau, bệnh trĩ lại tái phát. Bây giờ lá thuốc rửa đít này là do chủ nhà trọ hái giúp tôi, ông bảo lá thuốc này tuyệt vời lắm, trong những năm tháng chiến tranh, ông đã dùng nó chữa khỏi bệnh trĩ cho mình; một ông trung đoàn trưởng cũng rửa bằng lá thuốc này mà hết bệnh lòi dom. Lá thuốc này ngửi có mùi hăng hắc, sắc lên đổ ra chậu gỗ, rồi ngồi lên mép chậu xông hơi nóng, sau đó lấy nước rửa. Ngồi trên quả bách phơi đầy ở sân sau, ông già cứ nhìn tôi lom lom. Quả bách là nguyên liệu làm hương, nhiều gia đình ở thị trấn đều buôn bán thứ hàng này. Có lẽ ông già nhìn thấy cái gì đó trên người tôi, liền nói bốc rằng số ông phải làm quan to sau khi cách mạng thành công, bởi vì trên bẹn ông có một nốt ruồi. Tôi bảo, vậy thì tôi cũng có thể làm quan to hơn, tôi có những ba nốt ruồi cơ. Ông già không tin, định đến xem, tôi vội vàng kéo quần lên. Ông bảo:- Anh làm quái gì có ba nốt ruồi, anh tưởng anh là ai nào? Vừa lẩm bẩm một mình, ông vừa đảo quả bách, mùi hương thơm mát đậm đà. Tôi cảm thấy ông già này thật đáng mến. Khi được biết chúng tôi từ Châu Thành đến tìm sói, lại còn định chụp cả ảnh cho sói, thì ông cho là người Châu Thành thật rỗi hơi, vô công rỗi nghề. Sói hả? Đâu đâu mà chẳng có sói, giống như con người sống ở nhà mình là phải có chuột và ruồi nhặng, việc quái gì phải đi tìm? Tôi vội hỏi ở đây có sói không, ông đã nhìn thấy sói bao giờ chưa? Ông bảo ông hái quả bách ở trong rừng, đang hái đang nhặt thì sói đến. Ông ngồi xuống hút thuốc, sói cũng ngồi xuống trước mặt xem ông hút thuốc; ông rút gói thuốc ở trong túi ra đưa cho sói hút, sói cũng nhận thuốc hút. Ông còn bảo, con sói đã từng hút thuốc với ông, tuổi nó không bằng ông, nhưng nó biết lo toan việc nhà. Vì vợ và con, ngày nào nó cũng vào rừng bắt thỏ hoang, đâu có giống như con trai ông, nói là đi buôn bán làm ăn, đi một cái là biền biệt cả năm không thấy bóng dáng đâu cả. Tôi nghe một cách khoái chí, cảm thấy đầu óc ông hơi lẩn thẩn. Tôi rửa sạch vết đau, xin phép lên nhà gác nằm nghỉ, ông già nói:

- Anh biết không, thằng con tôi học bố nó đấy, lúc còn trẻ tôi cũng bỏ nhà đi, nhưng tôi đi làm cách mạng, đi theo Lưu Chí Đan!

Tôi đang leo lên cầu thang, thì nghe ông già gọi một đứa bé bước qua cửa, cười hà hà:

- Để ông sờ chim nào, chim đâu? Ồ, chim dài gớm nhỉ, to bằng này rồi cơ à!

Trên nhà gác bằng gỗ có thể nhìn rõ toàn cảnh thị trấn. Bắc Sơn có một sườn núi uốn lượn đi xuống, nhô ra một con dốc thoai thoải rồi thu lại, thị trấn nằm trải dài trên dốc núi này, đường phố là con đường cái vòng qua đập nước sau dốc. Còn nhà cửa cũng ven theo đường cái đến thẳng cạnh đập nước, trông như cái đuôi của thị trấn. Phía trước và đằng sau của mọi ngõ phố và các ngôi nhà mọc rất nhiều thông già bách già, cành cây xanh khỏe, vỏ cây nứt nẻ lốm đốm to bằng lòng bàn tay, tưởng chừng có thể dễ dàng bóc ra từng mảng. Tuy thân to nhưng cây nào cũng thấp lòa xòa, có đứa trẻ buộc dây lên cành ngang đánh đu, thình lình em bị rơi xuống khóc hu hu. Gia đình ông già gần như ở giữa thị trấn, trước mặt có bãi đất chênh chếch, cạnh bãi cũng có một cây bách nhưng là một cây bách lạ lùng, thân cây phình to như cái thùng, cành cây ngắn nhỏ và dày, tự dưng tôi có cảm giác trên cây này đã từng có người treo cổ tự vẫn, mà người ấy là đàn bà, đi một đôi giày trắng. Tại sao lại có cảm giác như vậy? Tôi dường như cũng giật mình ngạc nhiên, chợt nghe tiếng ông già ở sân sau gác một đang kể chuyện cho cháu, giọng Thiểm Bắc, âm mũi nặng lắm, song rất ý vị.

- Nhóc con ơi, nhóc con, cháu nghe này! - Ông già kể - Ngày đầu tiên kẻ thù tra tấn, chúng cho ông ngồi ghế hùm, ông không khai báo gì. Ngày thứ hai, chúng đổ nước ớt, ông không hề hé miệng. Ngày thứ ba, chúng rút hết móng tay, ông cũng nghiến răng chịu đựng. Sang ngày thứ tư, chúng cho ông một cô gái đẹp, ông đã khai tuốt tuột. Ngày thứ năm, ông vẫn còn muốn khai, kẻ thù đã bắn ông chết ngắc.

Thằng bé hỏi:

- Ông ơi, ông bị bắn chết hả ông?

- Ừ, bị bắn chết!

Đứng trên gác tôi cười một mình, một con chim đậu trên dây điện trước nhà cũng vỗ cánh bay đi. Giữa lúc này, từ chỗ ngoặt của dốc phố, có một người đang thong thả bước tới, vừa đi đến cổng một gia đình ở cạnh bãi đất, thì ở bên trong có một người lùn tịt bưng bát cơm to tướng đi ra, người lùn kia đứng sững lại:

- Chào trưởng thôn, trưởng thôn ăn chưa?

Trưởng thôn đáp:

- Vừa ăn xong. Tại sao mày vẫn không dỡ bỏ con bài mạt chược nhị bính đi hả?

Anh chàng lùn gắp miếng đậu phụ luộc trong bát cho vào mồm, mắt trợn ngược, lưỡi chợt líu lại, chờ nuốt trôi miếng đậu phụ mới nói:

- Trưởng thôn ạ, tôi đã nghĩ rồi, chuyện ấy không phạm pháp gì cả. Người khác có thể dùng gạch khắc rồng chạm phượng trên nóc nhà, thì tại sao tôi không thể khắc con bài nhị bính cơ chứ?

Trưởng thôn nói:

- Mày làm xôn xao ầm ĩ cả lên, định để chủ tịch thị trấn đến bắt tội đánh cờ bạc hả?

Anh chàng lùn đáp:

- Tôi rửa tay gác kiếm từ lâu rồi, ông ấy bắt ai cơ chứ?

Trưởng thôn đuối lý bước đi, vừa đi vừa nói:

- Nhị Cẩu này, mày cãi được tao, liệu mày có giỏi thì chờ đấy mà cãi với chủ tịch thị trấn!

Dưới ánh nắng, anh chàng lùn nheo nheo mắt quay đầu nhìn lên nóc nhà, tôi cũng nhìn theo. Trên nóc nhà chễm chệ một con nhị bính được làm bằng gạch, to bằng cái chậu rửa mặt, quét màu lòe loẹt. Tôi đi xuống cầu thang, ông già vẫn đang trêu đùa cháu nhỏ trên đống quả bách. Cô con dâu của ông ngồi trên ngưỡng cửa, quay lưng ra cắt tỉa hoa bên cửa sổ. Cô cắt hỉ thước đăng chi [1], rồi cắt lão thử thủ thân [2]. Tôi khen:

- Khéo tay quá!

Chị ta ngừng tay không cắt nữa, bảo anh đùa em à, rồi hỏi tôi có uống nước không, nhưng ông già đã đứng lên:

- Muốn uống, tôi đi đun cho!

Ông cầm cái rìu bổ một miếng trà đóng bánh trên hè, bỏ vào chiếc ấm tôn tự gò, treo lên chiếc móc câu trên bếp lò đun. Tôi và cô con dâu nói chuyện phiếm về tương cà mỡ muối, dĩ nhiên nói cả việc trông thấy vừa rồi. Chị ta liền cười bảo, Nhị Cẩu người lùn tịt nhưng tốt số ra trò, trước kia cũng buôn bán hương, tích góp tiền của mấy năm chuẩn bị làm nhà. Nhưng anh chàng vốn say mê cờ bạc, trong một đêm thua gần hết số tiền định xây nhà, ai cũng khuyên anh ta đừng đánh nữa, còn lại chút ít mang về nhà để còn nhận lỗi với vợ. Anh ta thua tới mức cay cú đỏ cả mặt, bảo chắc chắn vợ không thắt cổ tự tử, thì cũng sẽ ly hôn, cứ đánh thêm ván nữa, nếu thua thì vợ thắng, cô ấy cũng sẽ noi gương con ma đói này đi dạo chơi đây đó! Nhưng sau khi dừng bài, anh ta cần phải có một con nhị bính mới hòa, đến lượt lấy bài, Nhị cẩu đã rớ được một con nhị bính thật, bỗng chốc thu lại toàn bộ số tiền đã thua, lại còn nhiều hơn là khác. Thế là anh ta đã xây nhà mới, lại còn cố tình đắp con nhị bính trên nóc.

- Ông cháu đây kính nể con nhị bính lắm. - Chị con dâu nói - Người nhà mình một là không biết lừa gạt hãm hại ai, hai là không biết ăn uống chơi bời cờ bạc, nhưng một năm bốn mùa không gửi về được đồng nào.

Ông bố chồng tiếp lời:

- Có thể lừa gạt hãm hại, nhưng không được ăn cắp, không được trổ tài ăn uống chơi bời cờ bạc.

Con dâu nói:

- Sao bố không nói với anh ấy những điều này.

Bố chồng bảo:

- Nó tự ý bỏ đi biền biệt, tôi nói với ai được?

Hai bố con hục hặc nhau, tôi vội vàng hỏi trà đã uống được chưa; ấm trà của ông già vẫn chưa đun xong, tôi bảo ông sắc thuốc bắc hay sao vậy. Ông lấy đũa xem thử, bảo sắc tới mức chè đặc sệt cắm tâm, thì uống vào suốt ngày tỉnh như sáo.

Tôi ra cửa xì mũi, thấy con Phú Quí đang nô đùa với đàn gà, thì đột nhiên một hồi còi ô tô vang lên, một chiếc xe vun vút lao tới, đàn gà kêu quang quác, chạy nháo nhác, con Phú Quí cũng lao người nhảy lên bức tường thấp lè tè. Tôi vừa kịp đứng vững chân, chửi gã lái xe: Ô tô đi qua thôn cũng không giảm tốc độ à, thì chiếc xe đã lao qua một góc tường ngoặt gần đó ở phía dưới. Một người đàn ông và một người đàn bà đẩy mạnh đứa trẻ ở bên cạnh một cái, đứa trẻ va vào xe tung người lên, rồi rơi xuống rãnh nước bên đường như cái lá rụng, cùng lúc đó xe phát ra tiếng bóp phanh đáng sợ, cuối cùng đứng sựng lại sau khi trượt một vệt đen dài trên mặt đất. Sự việc xảy ra trong nháy mắt, như sét đánh không kịp bịt tai, trên phố hoàn toàn yên tĩnh, gió không nổi, cây không lay, người qua lại đứng ngây tại chỗ như gỗ đá, nhưng từ trong ngõ nhỏ đối diện có hai người lao ra, đó là cậu tôi và Mục Lôi. Tôi trông thấy người cậu dài ra nhỏ đi như cái thắt lưng quăng ném bay vù vù trong không trung, chưa kịp hoàn hồn thì cái thắt lưng kia rơi xuống đất thành một cục đen đen, cậu tôi bế cháu bé lên, trán đứa bé đang chảy máu, nó khóc hu hu. Người đàn ông bước tới giơ tay chùi máu trên mặt đứa trẻ, cứ xoa đi xoa lại mãi, trên năm ngón tay vẫn còn máu nhỏ giọt. Anh ta lập tức sấn xổ lao đến túm cổ áo gã tài xế vừa xuống xe, nạt nộ ầm ĩ:

- Mày cán con tao rồi! Đồ chó, mày cán con tao rồi!

Gã lái xe mặt xám ngoét, vội vàng bế em bé lên. Đứa bé đã đứng dậy được, cậu tôi đang xoa chân bóp tay cho cháu, cứ hỏi đi hỏi lại: -Chỗ này có đau không? Em bé chỉ lắc đầu. Mục Lôi bảo bố đứa trẻ mau mau băng bó vết thương cho con, hỏi trên thị trấn có bệnh viện không. Nhưng bố đứa bé cứ níu lái xe không buông và bảo, cán bị thương con chúng tôi rồi, bây giờ giải quyết sao đây, công hay tư hả? Lái xe nói, không chết người là may rồi, công là thế nào, tư là thế nào? Người đàn ông nói:- Công là hai bên đi đến thị trấn Lưu Công cách đây hơn mười dặm, ở đấy có cơ quan xử lý giao thông; còn tư thì anh phải trả tiền, trả một ngàn đồng. Gã lái xe im lặng một lúc, rồi tìm thuốc ở trong túi, anh ta lấy một điếu châm lửa, song lại châm luôn vào đầu lọc, vội đổi đầu châm lại, chỉ một nhoáng đã hút hết nửa điếu. Anh ta nói:- Xe tôi đang đi tử tế, con anh chạy tạt sang, trách nhiệm không thuộc về tôi mới phải. Công thì đến đâu cũng được, nhưng xe tôi đi đường, cháu bé đã không việc gì lớn, tôi cũng không thể để lỡ thời gian, vậy thì tư hay hơn, nhưng nếu tư thì cũng không có nổi một ngàn đồng. Người đàn ông bảo:- Thế này nhé, một ngàn đồng không được thì tám trăm, chúng tôi cũng không phải người sinh sự. Lái xe liền móc túi, moi ra năm trăm đồng bảo hết. Người đàn ông nói:- Anh không nói đùa chứ? Cán bị thương một con lợn cũng phải trả năm trăm đồng, huống hồ đâm vào người. Anh móc lại đi, móc nữa xem nào, ở túi áo kia kìa. Gã lái xe lộn ngược tất cả các túi áo, dốc ra một gói thuốc và mười đồng nữa. Anh ta nói, ông anh, thằng em còn phải ăn một bữa cơm chứ! Người đàn ông nói, không bắt anh ngồi tù là tốt rồi, anh còn ăn cơm gì, đi mà ăn cứt! Nói rồi tước luôn mười đồng kia. Gã lái xe còn định nói gì nữa, thì cậu tôi đã kéo anh ta sang một bên bảo:- Thôi thôi, trông đứa bé đáng thương kia, anh chịu đói một bữa đi! Gã tài xế lên xe. Khi lái xe đã đi khỏi, chúng tôi giục người đàn ông mau mau bế cháu bé đi bệnh viện, nhưng anh ta quay người chộp luôn một con gà dưới hiên nhà, nhổ vài sợi lông tơ, vừa đắp vào vết thương của con, vừa kéo nó hấp ta hấp tấp đi xa dọc theo phố.

Chúng tôi từ đầu chí cuối tận tình giúp đỡ xử lý tai nạn, song lấy làm lạ quá, dân địa phương ở gần đó sao không ai đến giúp, đã không giúp mà hình như cũng chẳng quan tâm đến em bé bị tai nạn ô tô, ngay đến bước tới an ủi một câu cũng không. Tôi quay vào trong nhà, ông già đang ngồi uống trà trên ngưỡng cửa, thư thái đến lạ. Ông đưa bát nước cho tôi, nước trà đặc cắm tăm, uống một hớp tôi liền nhổ ra. Ông già hỏi:

- Đưa bao nhiêu tiền?

Tôi đáp:

- Năm trăm mười đồng.

- Lần này kiếm được khá đấy!

- Lần này ư?

Ông già chỉ hắng một tiếng.

- Người ở đây, chẳng ai quan tâm đến việc của ai hay sao ấy?

- Uống đi, uống đi! Báo đồng chí kia của anh cũng uống, sẽ hết đau đầu đấy!

Chú thích:

[1] Chim khách đậu cành.

[2] Chú chuột đón dâu.