PHẦN XXV
Tôi nghiễm nhiên bế sói con về nhà, về đến thị trấn tôi cũng ngạc nhiên bởi việc làm của mình. Ở phía sau tôi, cậu và Mục Lôi cứ xì xầm nói chuyện. Chắc chắn hai người đang bàn tán về chuyên quái gở của tôi. Tôi cứ thế đấy, không vứt con sói đâu, nhân lúc đêm tối, tôi đem nó vào trong phòng, lấy dây thừng buộc nó vào chân giường. Cậu đã vào phòng của mình và ở lì luôn trong đó. Còn con Phú Quí và Thúy Hoa thì hớn hở ra mặt, cứ ra ra vào vào buồng tôi; mới đầu chúng xúm đến sói con kêu kêu sủa sủa, con sói bình tĩnh một cách lạ lùng, cứ giương mắt nhìn lại. Sau đó, Phú Quí sang phòng cậu tha cái nệm da sói về, sói con nhảy phắt lên, lông trên tấm da sói tự dưng dựng đứng cả dậy, không có gió mà dường như cứ lay động, mềm mại như đám cỏ kim ở ngoài đồng. Sói con cứ lăn lộn trên tấm da sói, miệng rên ư ử. Từ đầu đến giờ, tôi và Mục Lôi cứ ngồi nhìn, không ai nói với ai câu nào. Mục Lôi liền vuốt mạnh lên đầu tấm da sói, đám lông ở đó phát ra những tia lửa nhỏ kêu lép bép. Nỗi khiếp sợ khó che giấu nổi của Mục Lôi khiến tôi hả lòng hả dạ, bởi vì tôi đã từng trải qua cái đêm hôm nào ở Châu Thành. Tôi đưa thuốc cho Mục Lôi, anh hỏi:
- Anh định nuôi sói thật à?
Tôi cứ lặng thinh hút thuốc. Anh ta lại nói:
- Nuôi được thì từ ngày xửa ngày xưa người ta đã nuôi sói thành chó rồi.
Sáng sớm hôm sau, chúng tôi rời khỏi thị trấn. Tôi mua được ở trên phố một cái lồng gà đan bằng tre, nhốt sói con vào, rồi trùm lên bên ngoài một cái áo, không cho chủ nhà và bất cứ người nào trên phố trông thấy, ông già biết chúng tôi sắp sửa đi thì hớn hở lắm, đích thân nấu một ấm trà đặc thết khách. Mục Lôi nói:
- Tôi sẽ nhớ ông đấy!
Ông già đáp:
- Anh không nhớ đâu. Kẻ thù cũng chẳng nhớ được tôi, nhưng tôi nhớ kẻ thù. Ngày đầu tiên kẻ thù cho tôi ngồi ghế hùm, tôi không khai gì hết...
Mục Lôi ngắt lời:
- Ngày thứ năm, ông vẫn còn muốn khai, song kẻ thù đã bắn ông chết toi!
Ông già cười ha hả, bảo;
- Cái anh chàng này! Hương Hương ơi, đem mấy cái bánh bao cho các anh đây đi ăn dọc đường!
Cô con dâu cầm từng chiếc bánh bao hấp trên xửng xếp vào lòng Mục Lôi, mắt đỏ hoe, cất tiếng:
- Các anh đi thật à?
Tôi cầm khẩu súng săn, tuy không nói rõ từ nay trở đi tôi bảo quản súng này, song cậu tôi cũng hiểu tôi đã tịch thu súng của cậu. Ngay từ lúc sớm thức dậy, cậu đã không còn mặc bộ quần áo săn bẩn, may sương sớm còn mù mịt, chúng tôi khỏi phải chào hỏi bất cứ ai, cũng không ai để ý đến cậu. Trạm tới sẽ đến nơi nào, Mục Lôi chỉ nói, cứ đi theo đường cái, đi một trăm dặm nữa, con đường này sẽ đến địa phận huyện Sơn Dương. Sói có gia đình cố định quái đâu, đi đến đâu, ta sẽ tính đến đó. Mục Lôi nói thế khiến tôi nghi ngờ đây là ý định của cậu. Cậu đã điều tra kỹ mười lăm con sói, cậu biết rõ địa bàn hoạt động của chúng, tuy sói không có chỗ ở cố định như người, nhưng khu vực hoạt động thì cũng tương đối ổn định. Tôi có ý định, sau khi nhanh chóng đến được huyện lỵ Sơn Dương, tôi sẽ giao con sói nhỏ này cho ủy ban nhân dân huyện, rồi họ sẽ đưa đến nuôi ở vườn thú Châu Thành. Nhưng tôi không muốn nói ý định này với Mục Lôi, càng không muốn đưa cho anh ta xách cái lồng sói con.
Hôm nay là ngày tồi tệ nhất, tư tưởng tình cảm của cậu đã ảnh hưởng nặng nề đến tư tưởng tình cảm của tôi. Tuy Mục Lôi cố ý pha trò, nhưng tôi và cậu không sao vui lên được. Chúng tôi đã dùng cơm trong một nhà dân ở dưới dốc Yên Chỉ, nhưng con sói thì chẳng ăn gì, thậm chí ngay đến nước nó cũng không uống. Con Phú Quí và Thúy Hoa càng hăng hái bao nhiêu thì nó càng ủ rũ bấy nhiêu, tôi cứ lo nó chết mất. Đi đến một ngã ba thung lũng, trời đã tối, người mệt lử, gần xa chẳng thấy một mái nhà nào, chúng tôi ngồi ở bên đường, đem cái bánh bao cuối cùng chia cho ba người và chó mèo cùng ăn, cho cả sói nhưng sói vẫn không ăn.
Bây giờ có một người đàn bà cho bú thì hay quá! - Mục Lôi nói - Người có thể bú sữa sói mà lớn, sói bú sữa người sẽ thành cái gì nhỉ?
Trong đêm tôi anh ta cứ huyên thuyên, từ chuyện bú sữa, anh ta tán đến giá trị của sữa đàn bà: Khi đàn bà chưa lấy chồng thì sữa là sữa vàng, lấy chồng rồi thì sữa là sữa bạc, đẻ con ra thì là sữa lợn, chẳng cần biết có người ngoài hay không có người ngoài, chỉ cần con oe oe khóc là vén phắt áo lên, nhét vú vào mồm đứa trẻ. Tôi nói:
- Một ngày, anh không nói một đoạn tanh tưởi thì không biết sẽ sống thế nào?
- Vậy thì xin hỏi, - anh ta đáp trả - ở châu Phi có bao nhiêu nước?
- Chuyện ấy thì ai biết được cơ chứ?
Chúng mình thử bàn một chút nhé, liệu có lật đổ được Mauritania, chia một nước thành hai nước không?
Tôi tức lộn ruột, phớt lờ anh ta, giơ chân đá con mèo Thúy Hoa một cái, bởi vì nó cứ giơ chân cào cấu con sói làm sói con tức quá cứ kêu nheo nhéo.
- Anh định mang theo con sói này mãi à?
- Dĩ nhiên rồi.
- Vậy thì nó sẽ chết đói.
- Thả nó ra càng chóng chết.
- Nhưng...
Anh ta ghé vào tai tôi khẽ bảo, người của đội bắt sói có bao giờ lại mang theo sói, cậu anh bực bội chắc là phản đối việc mang theo sói con này. Nhưng tôi nhất định phải mang theo sói con, đem theo sói con sẽ nhắc nhở cậu tôi không bao giờ được bắn giết sói nữa.
Lúc này trên đèo tối om om. Bên kia sông lấp loáng ánh lửa của những chiếc đèn lồng và bó đuốc, chúng từ nhiều hướng khác nhau hội tụ vào một điểm, tiếng người lao xao vọng đến song nghe không rõ họ nói gì. Đêm nay, có lẽ gia đình nào đó trên đèo kia mời bạn bè thân thích đến ăn mì sợi mừng thọ bố mẹ, hoặc là tụ họp uống rượu đánh bạc, còn chúng tôi phải ăn ngủ giữa đồng hoang lạnh lẽo. Cạnh đường đèo có một cái hang đá, đi vào xem thì thấy tương đối khô ráo kín gió. Mục Lôi trải chăn nệm của anh ở bên ngoài, nhường cho tôi ngủ bên trong, nhưng hang sâu rộng, lối đi trong hang ở bên trái lại ngoặt vào, không biết sâu đến đâu, mấy con dơi vỗ cánh phành phạch bay ra. Cậu tôi quẳng chăn nệm của Mục Lôi vào trong, còn mình trải tấm da sói sát ngay cửa hang. Mục Lôi gọi thử vào trong hang mấy tiếng, rồi bảo “không sao, không sao”, sau đó lăng xăng bê đá kê bếp, vơ củi đun nước nóng trong cái ca nhôm to đùng. Những người thợ săn rất giỏi tổ chức đời sống, Mục Lôi kê bếp nhanh lắm, trong hang không có nước, trên tường hang chỉ có một vệt ươn ướt thấm qua, anh ta liền lấy dao đục một đường rãnh trên vách đá ướt, gắn một lá cây vào, trên ngọn lá lập tức chảy xuống một mạch nước nhỏ li ti; còn củi đun thì cứ việc vơ hàng nắm cành khô lá nỏ ở ngoài hang. Nhưng khi bật diêm nhóm bếp, thì mặt quẹt phốt pho của bao diêm bị ướt, không sao cháy lên được. Cậu tôi lẳng lặng cầm lấy que diêm ủ vào trong tai, rồi quẹt luôn vào một hòn đá, ngọn lửa như một bông hoa yếu ớt ngượng ngùng run rẩy xuất hiện. Tôi khen:
- Cậu giỏi thật!
- Cậu anh giỏi lắm, đã từng rán bánh trên phiến đá xanh cơ đấy!
- Chỉ được cái lắm mồm! - Cậu mắng - Có vài cái củi này mà đun được nước à?
Cuối cùng thì cậu tôi cũng chịu mở miệng, tôi vui vẻ nói luôn:
- Chúng mình đi vơ củi nào.
Tôi và Mục Lôi ra ngoài hang, đi đến một thửa ruộng, ánh trăng soi rõ những cây ngô vụ thu năm ngoái còn xếp đống ở bờ, mỗi người chúng tôi vơ một bó. Mục Lôi háu ăn lắm, anh ta bảo, đã có nhiều củi đun thế này, có thêm đậu tương non thì hay quá. Tôi nói kháy anh ta:
- Có thịt kho tàu và rượu nữa mới khoái chứ!
Mục Lôi liền bỏ bó cây ngô xuống, chạy mất biến, một lát sau quay lại với hai túi to phồng căng, thì ra anh ta đã bới trộm hơn mười củ khoai tây còn non tinh ở một ruộng khoai tây cách đó không xa.
Chính vì Mục Lôi muốn ăn khoai tây nướng, nên chúng tôi mất khá nhiều thời gian ở ngoài hang, khi về đến nơi, thì nước trong ca nhôm đang bốc hơi ngùn ngụt, còn cậu thì mất hút. Lúc ấy, tôi cứ tưởng cậu đi tiểu tiện loanh quanh đâu đó, hoàn toàn không nghĩ đến chuyện khác; đến khi nấu xong một ca mì ăn liền, lại nướng chín mấy củ khoai tây, vẫn không thấy cậu đâu. Mục Lôi ra cửa hang gọi:
- Đội trưởng ơi, đội trưởng! Anh ỉa vào dây giếng rồi phải không?
Vẫn không có động tĩnh, chỉ thấy con Thúy Hoa tha ở đâu về một con chuột đồng, mà không thấy Phú Quí đâu.
Tôi cảm thấy căng thẳng:
- Cậu tôi bỏ đi rồi sao?
Con Phú Quí đi rồi, cuộn chăn nệm của anh ấy không thấy đâu, anh ấy để mì ăn liền lại đây, rõ ràng là có ý bỏ đi.
- Nhưng súng vẫn còn đây. - Tôi nói.
- Anh đã tịch thu mất súng rồi kia mà!
Tôi và Mục Lôi vẫn không thể tin là cậu đã bỏ đi. Tại sao cậu bỏ chúng tôi lại? Tại tôi đã chỉ trích cậu ư? Thế sói con, sói con đâu? Tình hình dường như càng trở nên tồi tệ khi cả lồng lẫn sói đều biến mất.
- Tôi đã nói anh đừng đem theo con sói ấy, nhưng anh không nghe, cứ khăng khăng mang theo. Chắc chắn vì con sói mà anh ấy nhất định không vui vẻ đồng hành với bọn minh.
Nhưng tôi đã phát hiện một vệt đen sì trên mấy hòn đá kê bếp, cúi xuống nhìn thì đấy là một hàng chữ viết bằng than xiêu xiêu vẹo vẹo: “Tôi không xứng đáng làm người đi săn, càng không xứng đáng dẫn anh đi chụp ảnh. Mục Lôi, anh phải ở lại, anh nhất định phải phối hợp giúp Tử Minh hoàn thành công việc. Cậu vẫn là cậu của anh, chưa thể dẫn anh về thăm quê, chờ sau này có dịp vậy”. Trên hòn đá còn để viên ngọc kim hương.
Cậu tôi bỏ đi là một đòn nặng nề đối với tôi. Nếu không có cậu, tôi không thể đi vào rừng tìm sói, chụp ảnh cho sói. Cậu bỏ đi như thế này có khác nào để tôi như con cá mắc cạn. Tôi bỗng nổi cơn tam bành, bộp bộp giậm tắt đống lửa, mắng nhiếc ầm ỉ:- Một tiếng không nói, bảo đi là đi liền, cứ coi như không nhận đứa cháu ngoại này, thì việc bỏ đi như thế có xứng đáng làm một người thợ săn, một người đàn ông không? Mục Lôi cầm ngọc kim hương để lên mũi ngửi khen thơm rối rít. Nghe tôi trách móc, Mục Lôi bảo:- Đội trưởng mới là đàn ông chứ. Tôi mấy lần nói đi đi, nhưng có đi cóc đâu. Đội trưởng là người nói sao làm thế, bảo đi là đi liền.
Tôi mỉa:
- Không có kẻ giết lung tung, thì tôi phải ăn lợn cả lông chắc?
Mục Lôi không thích nghe, hỏi lại:
- Ai là kẻ giết lung tung? Tại sao nói đội trưởng là kẻ giết lung tung? Không có cậu anh, anh lại không giết sói, gặp sói thì chôn vào bụng sói à!
Tôi cũng điên tiết:
- Ai mà chả chết, chết trên giường thật chẳng bằng chết trong bụng sói. Mồ chôn trong bụng sói cũng là chuyện vẻ vang. - Rồi tôi lạnh lùng hỏi - Anh có đi không?
Mục Lôi đáp:
- Tôi nghe theo bí thư.
Tôi nói:
- Tôi còn coi là bí thư cái gì? Nếu anh định đi thì cứ đi, tôi tìm không thấy sói thì tôi có thể thôi chụp ảnh, về Châu Thành báo cáo với ông chủ tịch!
Mục Lôi hỏi:
- Báo cáo chuyện của cậu anh chứ gì?
Tôi đáp:
- Đương nhiên.
Mục Lôi lại hỏi tiếp:
- Nghĩa là sẽ xử phạt cậu anh phải không?
Tôi đáp:
- Kẻ nào phạm pháp thì xử phạt kẻ ấy!
Mục Lôi nói:
- Anh mới là sói giả dạng, anh bảo vệ sói như vậy vì sói là đồng bọn đồng chí của anh phải không? Tại sao chúng tôi ra đi? Chúng tôi ra đi đều là để chữa bệnh, anh chẳng đã thấy ở thị trấn Sinh Long, cậu anh hăng hái vui vẻ thế cơ mà, nhưng đi khỏi thị trấn, tinh thần lại trở nên sa sút đó sao?
Tôi bẻ lại:
- Tôi bảo vệ sói chẳng phải vì con người đấy ư? Giết hết sói, thì con người chẳng phải càng trở nên suy nhược hay sao!
Chắc chắn Mục Lôi không cãi nổi tôi, anh ta bảo:
- Lời nói có ba bảy đằng, bọn văn nhân các anh chỉ được cái dẻo mỏ.
Cuối cùng cả hai đứa đều mệt. Lúc ngồi xuống, Mục Lôi đưa ra thông điệp cuối cùng với tôi: Anh ta có thể dẫn tôi hoàn thành nhiệm vụ, nhưng không được báo cáo với ông chủ tịch y nguyên sự việc của cậu tôi. Tôi đồng ý, nhưng cũng ra điều kiện: Một là, từ nay trở đi không được giết sói nữa. Hai là, trên đường đi không được trai gái lung tung.
Tôi đi ra ngoài hang tìm xem ở chung quanh có xác chết của sói con không, song chẳng tìm thấy gì cả. Quay vào trong hang, tôi ăn mì và khoai tây, rồi buồn bã đi ngủ, trong lòng cứ mong ngóng cậu tôi sẽ quay lại, mong tìm được con sói không bị đập chết mà quăng ở nơi nào đó... Suốt cả đêm, tôi cứ mơ mơ màng màng, nửa tỉnh nửa mê. Hôm sau tiếp tục lên đường. Đến một bản nọ, hỏi thăm gần đây sói có xuất hiện không; bỗng dưng có người nhắc đến sói, dân bản tỏ ra ngạc nhiên: Ờ nhỉ, không nói đến sói thì quên bẵng mất sói, mấy năm nay có nhìn thấy con nào đâu! Đến một thị trấn khác, dân ở đây nói: Không phải bây giờ, ngày xưa lúc còn nhiều sói, chẳng hề có con sói nào đến thị trấn này, bởi vì ở đây nhà nào cũng có lò rèn, suốt ngày suốt đêm thổi bễ rèn sắt, sói là loài sợ lửa mà. Nhưng ở phía Đông thị trấn có một trạm thu mua hàng da, dân ở vùng Bắc Sơn thường đến đấy bán da dê, da thỏ, da cáo, da gà rừng, cũng có cả da sói. Tôi và Mục Lôi tìm đến trạm thu mua, nhưng được biết, một năm trước đây, trạm thu mua đã sập tiệm, ba gian nhà mặt phố cửa gỗ khóa im ỉm, trên vòng cửa chăng đầy mạng nhện, một con nhện béo trục béo tròn đang nhả tơ thả xuống. Mục Lôi bắt con nhện, ngắt sạch chân nó. Tôi bảo: Sao anh tàn nhẫn thế? Mục Lôi đáp: Có gì đâu, chính phủ vẫn chưa công bố điều luật bảo vệ nhện! Chúng tôi nói chuyện oang oang ở trước cửa, có mấy người đến hỏi chúng tôi có phải bán da thú không.
- Trạm thu mua tại sao không mở cửa?
- Vì không có nguồn hàng.
- Dân Bắc Sơn không đến nữa à?
- Thu mua một ít da thỏ rừng, gà rừng có lãi lời gì đâu?
- Thế còn da sói?
- Bây giờ làm gì còn sói nữa, vẽ sói trên đất ư? Các anh từ đâu đến đây?
- Châu Thành.
- Nghe nói ở Châu Thành có mấy nhà máy của quân đội, công nhân đều thất nghiệp. Hết chiến tranh, nhà máy phải đóng cửa, công nhân chế biến da bò bây giờ thua nông dân mình rồi, có phải như vậy không?
- Phải đấy!
- Nghe nói trên châu công bố điều luật cấm giết sói, lại còn nhập ở nơi khác về Thương Châu một lô giống sói, đúng không?
- Đúng dấy!
Tôi cứ thuận miệng trả lời, trả lời xong chợt nghĩ, nhập giống sói mới ư? Ồ, chuyện này ở đâu ra thế nhỉ? Tại sao lại có ý định này? Ý định này hay đấy, rất có giá trị! Chúng tôi rời khỏi trạm thu mua. Tôi hỏi Mục Lôi nhập giống sói mới vào liệu có khả thi không, Mục Lôi bảo: Trước đây chỉ nghe nói lợn Ucờraina nhập từ Liên Xô, thỏ lông dài nhập từ Ăngola, chưa bao giờ nghe nói sói cũng nhập khẩu. Hàng của nước ngoài đều xịn hơn Trung Quốc, giống sói mới là như thế nào? Nếu nhập vào thì còn cho đi săn nữa không?... Tôi không tranh luận với anh ta nữa. Tối hôm ấy, chúng tôi ngủ lại ở thị trấn. Tôi xúc động viết cho ông chủ tịch một bức thư dài, báo cáo sơ lược tình hình từ sau hôm tôi ra đi đến nay, đề nghị cần có chiến lược lâu dài, nếu chỉ bảo vệ mười lăm con sói còn lại, thì rất khó phát triển đàn sói; có thể bắt và nuôi đẻ một loạt giống sói mới từ nơi khác đưa về Thương Châu nhằm góp phần cải thiện môi trường sinh thái mới được không?
Có thể nói, tôi đã tỏ ra đắc ý bởi những đề nghị của mình, nếu đề nghị này được thực hiện, thì tôi đã đóng góp quan trọng cho việc cải thiện môi trường sinh thái của Thương Châu. Khi tôi viết thư, Mục Lôi đi dạo chơi, lúc trở về, anh ta cứ cười khúc khích; tôi hỏi cười gì, anh ta kể: Tôi đi qua phía Đông của dãy nhà trước mặt, cửa sổ có ánh đèn hắt ra, ở trong nghe có tiếng gà kêu, nhòm qua khe cửa sổ, thấy lão buôn gà đang ôm một con gà cho cái khoản kia vào lỗ đít! Ban ngày tôi đã nhìn thấy lão buôn gà ấy, già lõ cả đít, mặt đầy đốm đen, vậy mà còn máu mê đáo để. Tôi bảo: Cút cút cút! Những việc bẩn thỉu đến thế tại sao anh đều trông thấy nhỉ? Anh ta hỏi tôi làm gì thế, tôi đáp viết thư. Anh ta bảo: Anh nhớ vợ rồi hả? Bí thư này, mình suốt ngày trèo núi luồn rừng, thư ký riêng này cũng chưa tìm cho anh một người đàn bà, nếu anh bằng lòng, tôi sẽ lấy dao khoét một lỗ vào chân để anh chơi nhé! Tôi bảo, anh câm ngay cái mồm thối hoắc, mau mau đi ngủ đi, đừng làm ảnh hưởng tôi viết thư cho ông chủ tịch. Nghe tôi nói viết thư cho ông chủ tịch, Mục Lôi bỗng sa sầm nét mặt, hỏi viết gì vậy. Tôi biết tâm tư anh ta, nhưng không nói nội dung cụ thể. Anh chàng liền giả vờ ngủ, lại còn cố ngáy rõ to. Viết xong thư, tôi đi nằm. Lát sau, tôi nghe Mục Lôi khe khẽ gọi, tôi không trả lời, anh ta liền ngồi dậy, bật đèn, len lén xem bức thư tôi viết. Anh ta lo tôi báo cáo với ông chủ tịch việc cậu tôi đã giết năm con sói, nhưng tôi không hề đá động đến chuyện ấy, anh ta mới yên tâm nằm ngủ, hơn nữa còn cởi quần để ngủ trong chăn cho thoải mái. Anh ta ném một cái, chiếc quần vừa vặn mắc vào cái cọc gỗ trên tường đối diện.