PHẦN XXVI
Hôm sau, Mục Lôi hớn hở đem bức thư ra bưu điện thị trấn gửi giúp tôi, còn mua về cho tôi một bao thuốc. Chúng tôi liền đi lên hướng Bắc Sơn. Nhưng dọc đường đi, tôi lại cảm thấy hình như tất cả đều thay đổi, ven đường hoa nở thành vệt, ong nhiều vô kể. Thú vị nhất là trên cành cây, một con chim cất tiếng hót lập tức tám chín con hót ran lên. Người đi đường đi qua chạm cả vào người chúng tôi, cứ nhìn tôi mỉm cười. Tôi hỏi Mục Lôi mặt mình cỏ vết đen phải không? Mục Lôi bảo, đâu có, hay là họ trông thấy anh đẹp trai?
Đi Bắc Sơn phải đi từ một khe núi ở cây số mười lăm trước mặt ngược lên phía Bắc. Mục Lôi khoe ở đầu khe núi có một cái miếu, trong miếu lúc nào cũng khói hương nghi ngút, chúng ta có thể vào miếu thắp hương cầu nguyện. Năm xưa, đi qua đây, tôi đã đến cầu nguyện xin lấy vợ, kết quả đã cưới được vợ ngay trong năm đó. Anh nên vào đó cầu nguyện, để chuyến đi Thương Châu lần này cũng kiếm được một cô bạn tốt. Tôi bảo, anh há mồm nhổ ra cho tôi một chiếc ngà voi xem nào! Anh ta bảo, vậy tôi bắt chước sói gầm cho anh nghe nhé. Mục Lôi quì chân ngồi xuống, hai tay để lên mồm, đầu tiên gục đầu xuống đất, sau đó phát ra tiếng gầm, đầu từ từ ngẩng lên theo, cho đến lúc mặt ngẩng lên trời, cái quả trám ở yết hầu cứ trượt lên trượt xuống. Lại bảo, bây giờ tôi trừng mắt sói nhé! Hai mắt anh ta liền trợn lên, con ngươi lộn lên trắng dã, chỉ có một chấm đen ở góc bên trái.
- Đây là ánh mắt sói khi động đực, anh chưa thấy hả?
- Chưa.
- Sói động cỡn dữ ghê lắm! Nhưng chung thủy lắm! Nếu sói đực và sói cái đã ăn ngủ với nhau, thì sói đực luôn luôn trung thành với con sói cái.
- Thế thì nó khá hơn anh!
- Nhưng cái khoản kia của sói không to, không giống những con lừa này.
Trên đường cái, người qua lại thưa thớt, ngoài ô tô, người đi xe đạp cũng ít, nhưng lừa kéo xe thì cứ nối nhau đi. Mục Lôi lại giới thiệu chỗ này cách huyện lỵ không xa, vận chuyển giao thông của nông dân miền núi toàn nhờ vào loại lừa kéo xe này. Trong gia đình, nếu lừa chết; thịt lừa không ăn, chỉ lấy cái khoản kia của lừa thôi, lại còn thắp hương đốt giấy tiền đưa ma cho lừa. Lừa ở đây có hình dáng hay đáo để, tai dài, thân lùn, nhỏ bằng con chó to, lúc chạy bốn chân thoăn thoắt rộn ràng, nhịp điệu ngắn mà giòn. Lúc này, có một chiếc xe lừa kéo đi qua, chủ xe đang ngủ, con lừa cứ cúi đầu bước đi cộc cộc, mỗi khi có ô tô chạy qua, nó tự tránh sang một bên, chủ xe vẫn ngủ say như chết. Mục Lôi nháy mắt ra hiệu cho tôi, rồi bước tới chặn lừa lại, dắt lừa quay đầu xe, vỗ vào mông nó một cái, con lừa cộc cộc cộc kéo xe đi theo hướng vừa đi đến. Nhìn Mục Lôi chơi trò quái quỉ, tôi càng nhớ đến cậu, cậu ở đây thì Mục Lôi đâu đến nỗi quá thể đến thế. Nhưng bây giờ cậu ở đâu?
- Anh không mau mau đi bắt nó quay đầu lại, thì lừa sẽ kéo xe về lại huyện lỵ mất.
- Ông già thế nào chả có lúc tỉnh ngủ. - Mục Lôi nói - Năm đó, chúng tôi đi săn ở núi Nhị Long, một đàn gấu bị chúng tôi xua đuổi, có một con cứ chạy, chạy mãi, không thu chân kịp, lao từ trên vách núi xuống, các con đi sau cũng cứ thế lao xuống theo, giống như mặt trời ở chân trời đằng tây, cứ nhìn, nhìn mãi, bỗng rơi tõm xuống! Nhưng con chồn hương thì không như vậy, khi anh đuổi nó, nó biết anh có ý định bắt nó để lấy xạ hương, nên lúc anh sắp tóm được, chân trước nó cầm cái túi xạ hương của mình xé nát tan tành. Sói đã thành tinh thì cũng mê hoặc được người giống như cáo. Một lần, tôi và cậu anh đuổi sói, đến một bãi sậy, rõ ràng chỉ còn mấy bước nữa là có thể đến bờ, nhưng chúng tôi cứ mê cuồng, suốt một tiếng đồng hồ tìm không ra lối. Khi chúng tôi lên đến bờ, thì sói đang ngồi hát ở trên hòn đá bờ bên kia.
- Hay là cậu tôi...
- Nhớ cậu anh rồi hả?
Đi đến cột mốc cây số mười lăm, quả nhiên có một cái chùa ở cửa khe núi, trước chùa là cái ao to. Mục Lôi liền đi vào đốt hương cầu nguyện. Tôi ngồi ở trước cổng xem từng tốp từng tốp khách hành hương, người nào cũng bưng vào điện lớn một cái chậu tre đựng ba ba, một lúc sau lại bưng ra thả xuống ao. Tôi kéo một vị thả ba ba hỏi kiếm ở đâu ra lắm ba ba như vậy, họ trả lời ở dưới dốc bên trái cổng chùa bán nhiều ba ba lắm. Trong khách sạn, nhà hàng ở thành phố, canh ba ba là một món đặc sản, ba ba ấy phần nhiều là nuôi nhân tạo, còn ba ba ở miền núi đương nhiên là động vật hoang dã, nhưng làm gì có nhiều như thế để bán? Tôi từ bên trái cổng chùa thả bộ xuống một cái dốc thoai thoải, nhìn thấy một dãy quán bán hàng tạp hóa, đa số là bán hương, bán đồng hồ và những vật treo có khắc tượng Phật Di Lạc, chỉ có bốn cửa hàng chuyên bán ba ba.
Tôi nói:
- Ôi, nhiều ba ba quá!
- Mua một con đi, phóng sinh nó, anh sẽ kéo dài tuổi thọ đấy. - Một phụ nữ bán ba ba nói.
- Ba ba ở đâu thế chị?
- Bắt đấy!
- Bắt ở đâu?
- Ở ao đấy!
- Ao gì mà có nhiều ba ba thế?
Chị ta nhìn tôi, nét mặt ngượng nghịu:
- Anh có mua không? Không mua xin đứng tránh ra.
Ở bên cạnh có người vẫy gọi tôi; tôi bước đến, ông ta nói:
- Còn ao nào nữa, ao thả ba ba ấy mà! Ban ngày bán ba ba để thả xuống ao, ban đêm lại vớt lên bán, kiếm tiền như thế đấy!
Tôi bỗng vỡ lẽ, nhưng chẳng nhẽ sư sãi trong chùa lại không quản lý việc này. Ông già bảo:
- Sư sãi cũng phải ăn cơm chứ!
Tôi thở dài thườn thượt, ngẩng đầu nhìn lên dốc, Mục Lôi mồ hôi mồ kê đầy mặt đang ngáo ngơ nhìn xuống, nhìn thấy tôi, anh ta trách:
- Sao anh lại xuống đây! Nhìn tôi mà xem này!
Trên cổ anh ta đeo một viên ngọc dỏm, trên đó khắc hình Phật Tổ Như Lai.
- Mua bao nhiêu tiền vậy?
- Nên nói là xin mới phải.
- Xin ư?
- Chúng mình đổi cho nhau được không?
Thì ra anh ta định lấy ngọc kim hương cậu để lại cho tôi. Tôi bảo:
- Khôn thế! Tôi không đổi cho anh.
Chúng tôi đi theo khe núi lên phía Bắc, câu chuyện cứ xoay quanh ngọc kim hương. Tôi bảo, Hương Phi trong truyền thuyết xưa, thật ra đâu có thơm, nhờ đeo đá quí này nên mới thơm đấy mà. Nhưng Mục Lôi bảo tôi là người thành phố nên tôi không hiểu. Đúng là thơm từ con người đấy. Cuộc đời anh ta đã từng gặp hai người đàn bà lạ lùng. Một người ở bên dưới có mùi thơm, còn người kia thì như cánh hoa cúc, “khép lại” một cái cứ chật ních. Tôi mắng:
- Anh đau đầu là đáng đời!
Nào ngờ vừa chửi thế, đầu anh ta lên cơn đau thật. Mục Lôi vội vàng uống hai viên giảm đau, bắt con mèo Thúy Hoa chải đầu một lúc. Khe núi càng đi càng hun hút, người mỗi lúc một thưa thớt. Có một loài côn trùng như ruồi trâu cứ bay vè vè ở đằng trước đằng sau chúng tôi. Lạ quá, thứ côn trùng này không đốt tôi, trong khi lưng của Mục Lôi lại bị đốt mấy nốt đỏ bầm. Anh ta nhổ một nắm cỏ xua đánh liên tục và bảo:- Loài sâu bọ này chưa bao giờ cắn cậu anh, tại sao cũng không cắn anh nhỉ? Tôi bảo, bọ bay này đều là bọ cái mà! Anh ta cười hì hì bảo, cậu anh cái gì cũng hay, chỉ có điều không hay gái, không dính dáng đến đàn bà, ngay đến nhìn cũng không. Nếu động tới thì phải làm thật, vậy chẳng phải chết mệt hay sao? Cái gì mình cũng vơ vào, rút cuộc sự việc không thành, cậu anh hễ trông thấy đàn bà là sợ!
Chúng tôi đi qua một khe núi có dăm ba nóc nhà ở bên một cánh rừng rậm và một bãi tha ma, nhà tranh tường thấp, có hàng rào chung quanh, đàn bà trẻ con đang bưng bát ăn canh khoai tây. Khoai tây để cả củ, to bằng nắm tay trẻ con, lúc ăn, ai cũng trợn mắt vì nghẹn ứ cổ. Thấy chúng tôi đi qua, tất cả cầm đũa gõ vào rìa bát và bảo: “Vào ăn cơm đã!”, tôi vẫy tay chào lại, nhưng lũ chó thì sủa ầm lên, sấn xổ lao đến cắn. Tôi hận cậu tôi đã bỏ đi, con Phú Quí cũng bỏ đi, để cho những con chó nhà bắt nạt chúng tôi giữa ban ngày thế này. Sau khi tụt lại phía sau tôi, Mục Lôi đã quơ cây súng đánh ngã được một con, nhưng ba bốn con liền nhao nhao xô đến. Một em bé đang ăn cơm vội chạy đến đe nẹt bầy chó. Chúng tôi bước lên chiếc cầu độc mộc bắc qua suối, em bé kẹp hai chân vào con chó dẫn đầu, nói:
- Vào ăn cơm đã chứ, sao lại đi luôn thế?
Đến thung lũng, trên triền núi có một cây bồ kết đứng đơn độc, nhưng trên cây ra chín loại lá. Có thể do cây quái lạ mà ở đằng trước cây có một cái miếu đất, cạnh tường có tấm bia đã mẻ, loáng thoáng chỉ đọc được hai chữ “xuân giang”, không hiểu ý nói gì. Tôi và Mục Lôi ngồi xuống ăn lương khô, con mèo Thúy Hoa thì leo lên cây bồ kết hái một quả khô ném xuống, trúng vào đầu Mục Lôi, lại vặt một quả khác ném vào vai tôi. Tôi đe: “Thúy Hoa, Thúy Hoa, Thúy Hoa, ta đánh chết mi đó”.
Trên cành cây, con Thúy Hoa ngồi rửa mặt một cách đắc ý. Bỗng Mục Lôi gọi: Bí thư ơi, anh nhìn kìa! Trên sườn núi có thể nhìn thấy các ngã ba, ngã tư nằm xen kẽ nhau lúc ở bên phải lúc ở bên trái, đường quanh co uốn lượn khi ẩn khi hiện dưới những tán cây rừng. Trong mây bảng lảng, rừng cây nửa kín nửa hở, còn ở đáy thung lũng lác đác mấy nhà tranh vách đất bên lối đi. Tiếng gà nhà ai đó đang cục tác, cứ quang quác quang quác ra cái điều ta đây vừa đẻ trứng. Trên đồi đất thuộc nhánh thung lũng phía đông, ruộng bậc thang cứ từng lớp từng lớp vây chặt, đồi đất như một hòn đảo lẻ loi, trên hòn đảo lẻ loi ấy có một ngôi nhà. Ở miền núi, nông dân thường gặt đập lúa mạch ngay tại ruộng, rồi cày lên gieo trồng, gia đình cũng có một đống rơm rạ ở góc ruộng cách nhà không xa. Mục Lôi chỉ cho tôi xem hai con dê bụng vàng sừng to đùng đang đấu sừng trên thửa ruộng trước đống rơm lúa mạch. Quả thật đấy là một trận chiến khủng khiếp. Hai con dê không hề gầm thét, chúng gầm ghè nhau ở ngoài mười mét, rồi đột nhiên chạy xộc đến, đầu cúi thấp, lưng cong lên, huých một tiếng sởn tóc gáy, đầu con nọ húc vào đầu con kia, hai cặp sừng ngoặc vào nhau vặn vọ. Sau đó, từng con lại đột nhiên quay đầu chạy thật nhanh ra xa khoảng mười mét, rồi bất thình lình xông đến, lại vang lên tiếng va khô khốc nặng nề... Cứ như thế, tách ra, húc vào, húc vào, tách ra... y như các đại tướng đâm chém nhau trên chiến trường ngày xưa, có đến bốn năm hiệp đã diễn ra. Lần húc nhau cuối cùng thì chúng không tách ra nữa, mà đẩy nhau, con này đẩy con kia xồng xộc năm sáu mét sang trái, sau đó con kia lại đẩy con này sang phải năm sáu mét xồng xộc, tám cái chân thẳng đơ như chiếc gậy sắt, mặt đất bị cày lên thành những rãnh sâu. Mãi sau cùng, con bên phải đẩy con bên trái một hơi lên phía trước, đẩy chui tọt luôn vào đống rơm mạch, sang bên kia đống rơm vẫn còn tiếp tục đẩy, đống rơm bị đổ tung tóe. Cảnh tượng như vậy, tôi chưa nhìn thấy bao giờ, thậm chí trong phim, trong các cuộc đấu bò ở Tây Ban Nha cũng không có những pha như thế. Tôi lấy máy ảnh ra chụp. Mục Lôi nói, ở nơi này động vật hoang dã loại nào cũng có, nhiều nhất là sói và dê bụng vàng. Dê bụng vàng có sừng to khỏe, khi sói đông, chúng sợ sói, sói cũng sợ chúng; sói thì đầu đồng chân cây đay lưng đậu phụ, nên dê bụng vàng chỉ cần húc lưng sói một cái là sói liền nằm bẹp tại chỗ. Bây giờ, sói ít dần, dê bụng vàng sẽ xưng bá. Chúng ham đấu nhau lắm, khi đã vào trận, thì người không dám đến gần, chúng thường tàn sát nhau, nên số lượng cũng ngày càng giảm đi.
- Ồ! - Tôi thốt lên, chụp liền ba kiểu.
Mục Lôi bỗng hỏi:
- Có ăn thịt dê không?
- Anh không được bắn ẩu đâu đấy nhé!
- Bắn một phát chỉ thiên thôi!
Đoàng! Tiếng súng làm cho hai con dê đứng sững như trời trồng, sau đó chúng quay đầu nhìn rồi vụt chạy biến mất, kéo lê cái đuôi dài chui nhoang nhoáng vào trong ngôi nhà đất.
Thật không ngờ, con sói này lại dễ dàng lộ mặt như thế. Vừa giờ nó nấp ở đâu đó, nó tránh dê bụng vàng, hay là quan sát dê bụng vàng đấu nhau? Liệu có phải nó chờ dê bụng vàng hao tổn hết sức lực thì mới tấn công bất ngờ hay không? Khi tôi cầm máy chụp ảnh dê bụng vàng, thì đột nhiên con sói xuất hiện trong ống kính, lúc tôi nhận ra đây là sói, thì nó đã mất hút ở trong nhà, nhưng tôi tin là đã chụp được ảnh con sói ấy. Tôi vô cùng mừng rỡ. Tôi muốn chụp ảnh sói rõ hơn, nên cầm máy ảnh từ sườn núi chạy xuống. Mục Lôi vừa hét nguy hiểm, vừa xách súng đuổi theo. Gai góc trên lối đi cào rách quần áo tôi, cổ chân và tay tôi cũng không biết bị cái gì cào xước mấy chỗ, vết máu đỏ au như con giun bò trên mu bàn tay và bàn chân.
Tôi chạy đến ngôi nhà đất, ngôi nhà không có người, rõ ràng sói đã chui vào trong nhà, bởi vì cửa đang mở, que gỗ cài cửa gãy đôi rơi ở hè. Vào trong nhà thấy có một sàn bếp, trên sàn bếp treo ba xâu thịt muối mỡ ướt rượt. Cạnh sàn bếp có một cái chum to, có lẽ đang đựng dưa, mà cũng có lẽ là đang chứa nước, trên chum đậy cái sàng. Phía sau nữa là một cái giường lò to xây bằng đá phiến, trên tường phía đầu giường có gắn một cái kệ gỗ, bên trên xếp đồ sành sứ và túi đựng linh tinh. Bên giường lò có một cối xay đá nhỏ, tay quay cối đá xỏ một đòn quay dài dài, một đầu của càng cối xay dùng dây thừng buộc lên xà nhà. Đồ đạc trong nhà chỉ có ngần ấy thứ, vậy thì sói ở đâu? Liệu có phải vừa nãy tôi hoa mắt? Cũng có thể sói đã chạy vào thật, song khi chúng tôi từ sườn núi chạy xuống, nó đã chạy đi mất qua lối cửa, hoặc chui qua cửa sổ nhỏ ở tường sau chạy trốn. Nhưng cửa sổ chỉ là một cái lỗ rất nhỏ, liệu sói có nhảy qua được không? Mục Lôi bảo:
- Con người lúc nguy cấp cũng có thể chui lọt qua một cái lỗ chỉ to bằng cái đấu, sói lại càng biết thu gọn xương hơn.
Tôi buồn chán ngồi trên mép giường lò. Tôi hỏi:
- Tại sao nhà này không có người nhỉ?
- Có ma mới biết được.
- Cứ cho là đi vắng thì que gỗ phải cài trên cửa chứ!
- Có ma mới biết được.
Lúc này, con mèo Thủy Hoa mới từ ngoài chạy vào, chắc là nó thấy chúng tôi đột ngột bỏ đi, nên vội vàng từ cây bồ kết nhảy xuống đuổi theo, toàn thân nó lông lá bù xù, thậm chí mất hẵn một vệt lông ở chân sau. Nó kêu meo meo với chúng tôi, rồi bỗng dưng chạy quanh cái chum sành một vòng, hai chân cứ cào câu vào thành chum.
- Thúy Hoa, Thúy Hoa, mày nom cái dáng của mày kìa! - Mục Lôi nói - Mày có làm đàn bà thì cũng là loại đàn bà bỏ đi!
Cái sàng đậy trên chum bỗng bắn tung lên, rơi ngay vào mép giường tôi và Mục Lôi đang ngồi. Chúng tôi giật nảy mình, chưa kịp hoàn hồn thì từ trong chum nhảy ra một con sói béo mũm mĩm, nó lao ra cửa như một luồng gió và mất hút. Mục Lôi hét to:
- Sói! Sói!
Chúng tôi xô ra cửa, bên ngoài không thấy có gì hết. Mục Lôi cầm súng sục sạo chung quanh, làm gì còn bóng dáng sói nữa, anh ta cất tiếng chửi:
- Mẹ kiếp, nó đã chơi xỏ mình!
Cả hai đứa chúng tôi ôm bụng mà cười.