← Quay lại trang sách

PHẦN XXIX

Chúng tôi và cậu hội ngộ tại hai gian nhà đất xấu xí này. Tôi và Mục Lôi hớn hở ôm chầm cậu. Cậu nhìn chúng tôi, không tỏ vẻ mừng rỡ, nét mặt lúng túng có phần ân hận, khóe mắt cậu ươn ướt. Chúng tôi không nhắc đến chuyện cậu bỏ đi, hỏi cậu có khỏe không, mấy ngày vừa rồi cậu sống ra sao. Phú Quí và Thúy Hoa quấn quít bên nhau đùa nghịch nhào lộn ở bãi đất hẹp trước cửa, bụi cát bắn tung tóe. Bầy gà trên hè nháo nhác, kêu quang quác. Cậu tôi bảo:

- Đây là duyên phận, đây là duyên phận.

Đương nhiên tôi đã giao súng lại cho cậu, giao cả viên ngọc kim hương. Cậu ngần ngừ, hai tay lau vạt áo, cuối cùng nhận súng nhưng không nhận ngọc kim hương.

- Cậu đã gặp đạo sĩ già chưa?

- Ông ấy ốm nặng lắm, không còn ngọc kim hương nữa. - Cậu nói - Ông lão nhà này mười mấy năm nay thường xuyên tự nguyện vác đá xây bậc trước đền, đạo sĩ già đã giao cho ông lão số ngọc kim hương còn lại, tôi đến hỏi ông lão, ông lão bảo ngọc kim hương đã đưa hết cho trưởng thôn rồi.

Tôi và Mục Lôi cứ xuýt xoa ca cẩm mãi, bấy giờ mới hiểu những lời trưởng thôn đã từng nói. Mục Lôi cứ đù cha đù mẹ chửi rủa cái lão ấy, thậm chí còn định quay về bản tìm trưởng thôn. Cậu tôi xua xua tay:

- Xem ra được ngọc kim hương cũng phải có duyên phận, giống như con số mười bốn ấy mà!

- Con số mười bốn ư? Là con sói số mười bốn, phải không ạ?

Cậu tôi không trả lời, bảo chúng tôi vào gặp ông lão chủ nhà. Trong nhà tối mò mò như một cái hang núi, chúng tôi phải dừng một lúc mới nhìn rõ bên trong có một giường lò to, trước giường lò là cái bếp khá lớn, củi đang cháy leo lét, trên ngọn lửa có một cái ấm đất được treo bằng sợi dây thép, đang nấu cái gì đó sôi tục bục, một ông lão và một bà lão đang ngồi thu lu bên cạnh. Khi chúng tôi nói chuyện ở ngoài, ông bà lão không ra. Lúc chúng tôi đi vào, ông bà lão chỉ ngước mắt nhìn. Cảnh nghèo khó và hiu quạnh trong rừng sâu núi thẳm thường khiến người dân có thái độ cực đoan đối với người ở ngoài tới, hoặc là sốt sắng quá mức, hoặc là lạnh nhạt quá thể. Tôi lên tiếng:

- Chào hai bác.

Trả lời là: “Ngồi xuống! Ngồi xuống!”.

Cuối cùng họ đã nói chuyện, con ngươi trắng dã đảo xuống, từ sau lưng, ông lão kéo ra mấy cái đôn gỗ, đưa tay lau mạnh mặt đôn.

- Thưa bác, - tôi nói - chúng tôi từ thôn dưới lên, trưởng thôn của các bác gửi lời nhắn, bảo bác xây ruộng bậc thang trên dốc sau nhà.

Ông lão nói một cách ương bướng:

- Tôi không xây!

- Ruộng bậc thang thì nên xây, thưa bác.

- Không xây!

Ông lão đột nhiên đứng dậy, cứ hầm hầm nhìn tôi, tôi cứ tưởng ông lão định sấn đến đánh tôi, nhưng hai chân ông lão bỗng tách ra đứng ở tư thế cưỡi ngựa, chiếc quần ông mặc không có đũng, một cục thịt đen đen rũ xuống, ông nói:

- Tôi không có quần!

Cảnh tượng này khiến tôi ngạc nhiên đến sửng sốt.

Mục Lôi thì cứ tỉnh khô, anh cúi xuống cầm một que củi châm thuốc hút. Anh hỏi:

- Không có quần ư? Càng không xây ruộng thì càng nghèo tới mức phải cởi truồng. Lười và nghèo gắn với nhau làm một, hai người thay nhau mặc quần cũng phải xây ruộng!

- Tôi không cho ông ấy mặc quần của tôi đâu!

Bà lão lẩm cẩm nói và đứng lên rời khỏi bếp, ra ngồi trên ngưỡng cửa, bà nói tiếp:

- Tôi cho ông ấy mặc quần của tôi, chỉ hai ba hôm là rách bươm đũng.

- Thưa bác, - tôi ngăn Mục Lôi - chúng tôi chỉ chuyển lời nhắn thôi ạ. - Trưởng thôn bảo, năm hôm nữa lên kiểm tra, bờ ruộng còn chưa xây xong thì khoản tiền cứu tế vụ xuân sẽ hoàn toàn không có.

Ông lão buột mồm chửi toáng lên:

- Không có nữa à? Tiền cứu tế của nhà nước cho tôi không có nữa à? Thằng Lưu Thiên Thủy chó chết, nó bảo đưa ngọc kim hương cho nó, nó phát tiền cứu tế cho tôi, bây giờ nó lại bảo không có nữa ư? Chẳng phải nó hiềm tôi vì không cho nó sói con ư?

- Sói con, sói con nào vậy?

- Tôi không cho nó đấy! Mùa thu năm kia, con thứ hai nhà họ Trương ở Tây Lâm Oa bắt được một con ba ba già, tôi xin định đem đi phóng sinh thì nó bảo để nó thả, kết quả nó đem về nhà luộc ăn. Tôi định thả sói con, nó biết, nó lại xin sói con. Tôi đã đi guốc trong bụng nó, nó không những không thả sói con, mà còn dùng sói con để làm mồi bắt sói! Tâm địa nó độc ác lắm, cho gì ăn nấy, không cho là xị mặt ra.

- Sói con ở đâu ra vậy?

- Vị đạo sĩ già cho mà lại.

- Sói con hiện giờ ở đâu?

- Theo sói đi rồi.

- Ở đây có sói ư?

Tôi nhìn cậu, cậu quay đi chỗ khác. Tôi chợt hiểu, cậu bỏ chúng tôi ra đi, hẳn nhiên là xuất phát từ lòng hối hận và khó xử, nhưng cậu đã mang sói con đến đền Đá Đỏ, gặp đạo sĩ già không chỉ là để xin ngọc kim hương, mà còn là vì sói con. Bỗng dưng trong đầu tôi hiện lên một bức tranh: Ở đền Đá Đỏ có một nơi bí mật, có thể là một bãi quây bằng gỗ, cũng có thể là một cái hang, ở đó nuôi các loại động vật hoang dã còn bé, một khi những con vật bé nhỏ này có khả năng sinh tồn, thì đạo sĩ già sẽ thả chúng ra. Thế là cậu đem sói con đi, nhưng đạo sĩ già ốm nặng, liền giao phó sói con cho ông lão miền núi nghèo khổ này. Ông lão nuôi sói con được vài ngày, sau đó để nó đi theo con sói khác. Tôi tin linh cảm của mình đúng. Nghiêng đầu nhìn ra ngoài cửa, tôi thấy bên cạnh chỗ vệ sinh lợp cỏ tranh dựng ở ngoài nhà đất có một con dê cái già buộc ở cái cọc gỗ, dê cái già có cái vú dài ngoẵng, chắc hẳn sữa dê dành cho hai ông bà già uống cũng đã từng nuôi sói con. Tôi rời bếp lửa, đến thẳng chỗ cậu. Cậu ngồi ở đó hút thuốc bằng cái tẩu tre dài của ông lão, tôi cầm tẩu hút một hơi, rồi nói:

- Cậu ơi, cậu vĩ đại đấy!

- Vĩ đại à?

Hình như cậu chưa hiểu, ánh mắt hơi bối rối.

- Cháu cứ tưởng cậu đập chết sói con rồi, thì ra cậu đã đem nó đến đền Đá Đỏ. Đền Đá Đỏ nên xây dựng một cơ sở, chuyên môn nuôi dưỡng dã thú nhỏ mất năng lực sinh tồn.

- Anh nói những gì vậy, Tử Minh? Tôi không hiểu.

- Đạo sĩ già là người bảo vệ động vật hoang dã, phải không cậu?

- Điều ấy tôi không biết.

- Cậu đã cho đạo sĩ già sói con phải không?

- Chuyện này... làm gì có chuyện này? Nói thế chẳng phải hại tôi ư?

Cậu đứng dậy đi ra ngoài.

Mục Lôi từ đầu đến giờ nghệch mặt nghe chúng tôi nói chuyện, thấy cậu ra khỏi nhà liền nói to:

- Không có chuyện ấy đâu, đội trưởng là thợ săn, sao lại nuôi sói con kia chứ? Có phải thế không, Phú Quí?

Con Phú Quí sủa một tiếng gâu. Mục Lôi nói tiếp:

- Người văn hóa các anh chẳng bằng một con chó, thông minh thì cũng thông minh ra trò, mà ngu dốt thì cũng không ai sánh kịp!

Ồ, tôi chợt tỉnh, vỗ vỗ vào trán mình.

Tôi bước ra ngoài, mặt trời treo lơ lửng trên đầu, tôi vung chân múa tay cho giãn gân cốt, nói với cậu, mùi dưa chua ở trong nhà nặng quá, hun cháu sắp ngạt thở đến nơi. Cậu bảo, đấy là nơi nghèo nhất Thương Châu, để anh đến đấy thật là xấu hổ. Tôi nói, cũng xấu hổ thật, vậy thì sống thế nào? Cậu bảo, cũng chính nơi này mới có sói. Tôi kể lại chuyện con sói gặp ở giữa đường; cậu nhìn thẳng vào tôi, hỏi tỉ mỉ con sói béo hay gầy, to hay nhỏ, lông màu gì, rồi cậu bảo, đó là con sói số chín, vùng này còn bốn con nữa.

Chính vì để chụp ảnh cho bốn con sói ấy, chúng tôi đã quyết định ở lại vùng này. Nhưng tôi và Mục Lôi không chịu ở nhà ông lão, trước hết khó mà chấp nhận điều kiện vệ sinh, hơn nữa, ông bà lão nghèo như thế, lấy thứ gì cho chúng tôi ăn uống đấy? Cậu liền đề nghị đến chỗ đạo sĩ già, trên đền Đá Đỏ ăn ở vẫn tốt hơn. Thế là sau khi đưa cho ông bà lão một trăm hai mươi đồng, chúng tôi rời khỏi nhà. Tự nhiên Mục Lôi lại đưa ra luận điệu quái gở. Anh ta bảo, phàm những ai đốt nhang niệm Phật, chẳng người nào phát đạt nổi; những người một lòng hướng thiện phóng sinh cũng đều nghèo kiết xác. Ông lão này, trông cái dáng đã biết số kiếp không ra gì... Đang thao thao bất tuyệt thì trên trời có con chim bay qua, thế quái nào, một cục phân rơi đâu không rơi, lại rơi trúng sóng mũi Mục Lôi, anh ta liền ngưng bặt, không dám hó hé gì nữa. Lại đi già nửa ngày, chúng tôi đến dưới một vách núi, vách núi cát đỏ, không có chỗ nào đặc biệt mới lạ. Chúng tôi đi theo đường mòn chữ chi đến một bãi phẵng có nhiều lớp đá đỏ xếp lên nhau, ở phía Bắc bãi phẳng lại là một vách núi mọc chi chít những cây bách, chui vào rừng cây bách đi theo đường hình xoắn ốc lên núi là đến đền Đá Đỏ. Đền Đá Đỏ thật ra là một hang đá nhỏ, nhỏ đến đáng thương. Hang đá không sâu lắm, một cái miếu đất nho nhỏ xây tựa vào miệng hang, một cây bách cổ ở cửa miếu già tới mức thân cây rỗng toác, gần như là một tấm gỗ dựng ở đó, song lá bách ở ngọn cây thì vẫn xanh biếc. Trên tấm bia đá ở dưới cây có khắc một câu: Ngươi chặt cây ta, ta không nói. Ta đòi mạng ngươi, mạng đi đời. Đạo sĩ già đã già yếu lắm rồi, ông ngồi trên hòn đá vuông xanh, thân hình chỉ còn da bọc xương, mặt nhợt nhạt, cặp lông mày trắng xóa nằm treo trên mặt, còn mái tóc buộc lại thì sao mà thưa đến thế, khô héo và bẩn thỉu, tóc buộc vấn lên đỉnh đầu, cài bằng cái que củi. Trong cái đền lạnh lẽo vắng lặng này không có tượng, cũng không có khách hành hương. Trên bàn thờ đang thắp một nén nhang, không biết đạo sĩ già đang tôn kính thần tiên, hay là ông đang tự tôn kính bản thân mình? Dưới bàn thờ xếp một đống khoai tây củ chỉ to bằng chuỗi hạt bàn tính, màu đã xanh lè lè. Nói thật tình, tôi đến đây với tấm lòng hết sức chân thành và trang nghiêm, trước khung cảnh này, hình dáng của dạo sĩ đã khiến tôi cảm thấy ông già này sống ở đây dường như không phải là để truyền đạo hay tu luyện, mà rất giống ông bà lão gặp ở dọc đường, chỉ là để đầy đọa sống nốt những ngày tàn trong khốn khổ mà thôi.

Đứng trước ngôi đền và đạo sĩ như thế này, tôi không hiểu sao cậu tôi lại có duyên phận tìm được ngọc kim hương, hơn nữa còn nuôi dưỡng và phóng sinh dã thú non nớt. Mục Lôi tỏ ra không kính nể chút nào. Khi cậu và tôi chào hỏi đạo sĩ già, thì anh ta ngồi bệt dưới bàn thờ, tháo giày nắn bóp chân, vừa bóp vừa hỏi chuyện ngọc kim hương. Đạo sĩ già chỉ nói một câu:

- Tôi không còn ngọc kim hương nữa, tôi cũng không biết ở đâu có ngọc kim hương.

Mục Lôi tức tối hừ một tiếng, tựa vào chân bàn thờ gục đầu ngáy khò khò, ngay lập tức nước dãi chảy nhễu ra làm ướt cả một mảng áo trước ngực!

Nước nấu cơm chúng tôi phải đích thân xuống múc ở suối sau vách núi, củi thì nhặt ở trước cửa miếu, cơm cũng tự nấu; cháo bột ngô, khoai tây luộc, không có dấm ớt, chỉ có muối không. Mục Lôi hậm hực bất mãn ra mặt.

Sau bữa cơm, trăng thanh gió mát hiếm có, đạo sĩ lại thắp nhang trên bát hương bàn thờ, còn Mục Lôi ngả người tựa vào bàn thờ hút thuốc, anh ta hút hết điếu này đến điếu khác. Tôi ra hiệu cho anh ta không nên hút thuốc trước bàn thờ, song anh ta cứ đòi tôi chụp cho anh ta một kiểu ảnh. Anh ta bảo, đốt hương cúng thần, hút thưốc kính mình mà! May mà anh ta còn nói được một câu như thế! Nhưng đạo sĩ già lại sa sầm nét mặt, ngồi tại chỗ lạnh lùng chớp chớp mắt. Cậu tôi tìm cách lảng sang chuyện khác, nhưng rút cuộc hỏi mười câu, đạo sĩ già thường chỉ trả lời được một câu. Mục Lôi thì cứ luôn mồm kêu buồn ngủ, mọi người liền bảo đi ngủ thôi, rồi nằm cả trên giường lò.

Trong đền chỉ có một giường đất, vốn nằm theo hướng đông tây, bây giờ chúng tôi nằm một dãy theo hướng nam bắc, đầu đều gối lên thành giường. Tôi đặt lưng xuống là ngủ ngay, nhưng chẳng bao lâu lại thức giấc, bởi toàn thân ngứa ngáy, có con gì đó đang bò ở lưng. Tôi khe khẽ thò tay vào, cảm thấy tóm được một cái gì, liền vo viên bóp chặt, hé mắt nhìn, trong đền tối như bưng, nhưng cửa sổ thì có ánh sáng mờ mờ, tôi để con vật bé nhỏ lên bệ cửa sổ, lấy móng tay miết một cái kêu đánh bép.

- Rận phải không? - Một tiếng hỏi - Rận cắn anh phải không? Anh cứ vo viên nó rồi ném đi thôi mà.

Tôi giật mình, ngẩng đầu lên, trong ánh sáng lờ mờ, đạo sĩ già đang ngồi dựa vào góc tường giường lò.

- Ngài không ngủ ư, thưa đạo sĩ?

- Đang ngủ mà!

- Chúng tôi chiếm hết chỗ, để tôi ngồi, ngài nằm xuống ngủ đi!

- Tôi ngồi ngủ được mà!

Đạo sĩ già cũng ngồi ngủ ư? Tôi nhìn cậu mình đang nằm ở đầu kia giường lò, ở dưới người cậu trải tấm da sói, cậu cũng vừa thức dậy, ngồi xếp bằng chắp tay. Mục Lôi đang ngủ say, mồm há hốc, nom cái dáng rất đáng sợ!

- Ngủ đi, ngủ đi, dáng ngủ của anh tốt đấy.

- Cả đời đạo sĩ đều ngủ như thế, tôi lên đây gặp đạo sĩ, đã học được tư thế ngủ của ngài. - Cậu khẽ nói - Không hiểu sao tôi cứ thấy hoang hoảng trong lòng, tấm da sói này cứ xù lông đâm vào người. Thưa đạo sĩ, ở chung quạnh đây có sói không?

- Khi mong ngóng nó đến nhận sói con, nó không đến, bây giờ nó đến làm gì?

Tôi lập tức bước đi, đánh thức con Phú Quí đang nằm ngủ ở dưới giường lò. Tôi tin ở linh cảm của cậu mình, nhưng đạo sĩ lại nói:

- Đến thì cứ đến, ở đây ngoài ma quỉ ra, thì có sói và hổ báo, anh đừng đánh thức con chó.

Tôi bỗng chốc dựng hết tóc gáy, vỗ vỗ ru con Phú Quí ngủ tiếp, nhưng nó không chịu ngủ, hai tai giỏng hẳn lên. Cậu liền bế Phú Quí lên giường, bóp một cái vào cằm nó, lập tức Phú Quí nằm xuống ngủ tiếp, còn ngáy khe khẽ. Tất cả lại yên ắng, ai cũng nhắm mắt ngủ. Khoảng một tiếng đồng hồ sau, khi tôi len lén cố giữ mình tỉnh táo, song bất tri bất giác lại mơ mơ màng màng thiếp đi, thì loáng thoáng nghe có tiếng cào cấu ở cửa, tôi vội vàng ngồi dậy, nhìn thấy đạo sĩ đang bám cửa sổ nhìn ra ngoài, cậu cũng bám theo. Đạo sĩ khe khẽ nói:

- Đến rồi.

- Ai đấy? - Đạo sĩ cất tiếng hỏi.

- Rào? - Một nắm đất cát ném vào cửa miếu.

- Sói phải không?

Rào! Rào! - Hai nắm đất cát ném tiếp vào cửa miếu.

Đạo sĩ già đứng dậy, xuống giường đi ra mở cửa. Kẹt một tiếng, cửa mở ra một nửa, một vệt ánh sáng hình tam giác lọt vào. Hai con sói, một to một nhỏ, xuất hiện trong vệt ánh sáng hình tam giác ấy. Tôi lập tức nhận ra chú sói con chính là con sói bé bỏng mình đã từng bế, nó khỏe mạnh ra nhiều, song hơi bẽn lẽn, đầu tiên nó đứng ở trước mặt sói to, sau đó nấp đằng sau thân sói to, đuôi vẫy rối rít. Đạo sĩ già đang nói:

- Mi là con sói mà ta đã chữa bệnh cho phải không?

Sói lớn tru lên hai tiếng, tiếng tru rất giống giọng nói lắp. Đạo sĩ già nói:

- Không phải à? Ô, ồ, sói con, mi dẫn đến hả? Tìm ta có việc gì?

Sói to quay mình lại, cái đuôi như cán chổi lúc đầu kẹp ở mông đít, từ từ duỗi cong lên, trên nửa mông đít không có lông có một cái nhọt to sưng tẩy.

- Ồ, mi cùng xin khám bệnh hả? Cái nhọt to thế này, ta chữa sao được chứ?

Sói to quay đầu lại nhìn đạo sĩ già, nó lại tru lên giống như khóc. Đạo sĩ già sờ sờ trên đất, không tìm được gì, ngài liền rút cái que gỗ cài mớ tóc trên đầu, bất ngờ chọc mạnh vào cái nhọt, con sói thét lên một tiếng, chân sau nó ngã quị xuống đất, một dòng máu mủ phun ra, mùi hôi thối xộc vào mũi, tới mức tôi phải nín thở. Gần một phút sau, sói to mới bò dậy, nó quay lại quì hai chân trước rồi tru lên ba tiếng, sau đó hai con sói mất hút khỏi quầng sáng hình tam giác. Đạo sĩ già đóng cửa, trở về ngồi ở góc tường giường lò, nhắm mắt ngủ lại.

Cảnh diễn ra vừa rồi như một chuyện thần thoại, kể với ai cũng không chịu tin, nhưng đúng là tôi đã nhìn thấy tận mắt. Lúc ấy, tôi cứ há hốc mồm mà nhìn nên đã quên khuấy không lấy máy ảnh ra chụp. Sau khi sói mất hút dưới ánh trăng trên bãi cỏ trước cửa đền, tôi cứ ân hận tát bép bép vào mặt mình. Cậu tôi hỏi:

- Đạo sĩ còn là thầy lang ư?

- Lang băm ấy mà! - Ngài vẫn nhắm mắt - Sói tìm đến tôi, nhọt trên người nó đã mưng mủ. Chuyện này thế nào nhỉ? Chả là trước đây không lâu, có một con sói đến đây ốm yếu phờ phạc, con sói này cũng lên nhọt như con vừa rồi. Bây giờ các anh không săn sói, không bắn sói nữa, song bản thân sói lại suy sụp hay sao ấy!

- Thưa đạo sĩ, - tôi nói - liệu sói còn đến nữa không?

- Việc ấy phải hỏi sói chứ!

- Nếu sói đến nữa, tôi có thể chụp ảnh nó được không?

- Việc ấy càng phải hỏi sói.

- Đạo sĩ hiểu được tiếng sói, sói cũng hiểu được tiếng ngài ư?

- Sói thông tính người mà!