PHẦN XXXII
Rời khỏi đền Đá Đỏ, bước tới nên đi đâu, chúng tôi suy tính mãi. Theo tình hình cậu tôi nắm được khi đi tổng điều tra, thì ở Lý Gia Trạt, huyện Trấn An, có con sói số bốn; ở vùng Hoàng Bách Ô, huyện Sơn Dương, có con sói số mười và mười lăm; còn ở Hùng Nhĩ Xuyên có hai con sói nữa. Tuy sói có khu vực hoạt động khá cố định, nhưng chúng cũng thường di chuyển, nhất là ở phố huyện cũ chúng tôi đã thấy con sói ở vùng núi Đại Thuận, còn ở đền Đá Đỏ lại gặp con sói ở vùng núi Nhị Long. Phạm vi di chuyển lớn, số lượng nhiều, ngay đến cậu tôi cũng cảm thấy ngạc nhiên. Rốt cuộc thì đi Hoàng Bách Ô hay đến Lý Gia Trại, chẳng ai dám chắc đi đến đó liệu có gặp sói không. Hùng Nhĩ Xuyên là nơi gần nhất trong ba nơi đó, thôi thì cứ đến Hùng Nhĩ Xuyên trước đã.
Hùng Nhĩ Xuyên là quê hương của cậu tôi, dân vùng này nguyên từ phố huyện cũ dời đến, dân bản dường như có quan hệ thần bí với sói từ khi mới đẻ ra. Cậu tôi giới thiệu, khi dân bản sống ở phố huyện cũ, thì phố huyện cũ là khu vực sói tàn phá nặng nề nhất, nên đã di chuyển đến Hùng Nhĩ Xuyên dưới núi. Hùng Nhĩ Xuyên lại trở thành nơi sói sinh sống. Càng ở nơi có sói, càng sinh ra những cao thủ săn sói, mà càng có cao thủ săn sói, thì sói càng con trước ngã con sau xông lên. Tôi cười bảo:- Đấy là tương sinh tương khắc. Mục Lôi bảo: -Theo anh nói thì dường như hiện nay không còn sói nữa, những cao thủ săn sói chúng tôi nên chết hết phải không? Tôi nói:- Ồ, anh mà cũng được coi là cao thủ sao? Mục Lôi hỏi:- Cho đến bây giờ, anh vẫn không coi tôi là cao thủ ư? Tôi bảo:- Trên đời, thường là trong lĩnh vực không thể khám chữa được bệnh, thì có nhiều thầy thuốc nổi tiếng nhất. Mục Lôi bĩu môi phớt bơ tôi. Khi chúng tôi đi đến một thị trấn nhỏ có tên là Thạch Môn, đó là nơi sản xuất ngọc thạch môn có tiếng tăm ở Thương Châu, trên phố có mấy xưởng gia công đồ ngọc, Mục Lôi đã không quên chuyện xẻ viên ngọc kim hương, thế là chia đôi, mỗi anh đeo một dây vào cổ. Tôi tủm tỉm cười, bảo Mục Lôi:
- Anh đừng đem nó cho gái đấy nhé!
Vào quán cơm ăn xong, Mục Lôi lại một mình đi lung tung trên phố, cậu tôi bực dọc chửi một thôi một hồi. Hai cậu cháu chia nhau mỗi người tìm một ngả, quả nhiên thấy anh ta đang ngồi nói cười toe toét với ba cô gái ở một cửa hiệu làm đầu, lại còn nắm tay một cô béo hú xem đường vân. Cậu tôi sa sầm nét mặt hỏi:
- Anh làm gì vậy?
Mục Lôi đáp:
- Xem chỉ tay, cô này lẽ ra giàu sang phú quí, chỉ tiếc sinh không gặp thời, nếu là vào đời Đường sẽ được tiến cung làm hoàng hậu.
Tôi chộp cánh tay anh ta kéo đi. Anh ta bảo:
- Thưa bí thư, xem tướng tay là làm công tác dân vận, các cô ấy nói đến sói đấy!
Tôi bảo:
- Gặp sói gái hả?
Anh ta nói:
- Nói đến sói thật mà, anh trai cô béo này hôm qua mới từ Lý Gia Trại về nhà, nói là ở Lý Gia Trại có người bắt giết sói, khi lột da sói, còn lột ra một con sói con cơ mà!
Mục Lôi nói thật giả thế nào không biết, nhưng cậu tôi đã thay đổi kế hoạch hành động. Chúng tôi liền tới thẳng Lý Gia Trại. Đến Lý Gia Trại, hỏi thăm một thành viên đội săn bắt sói, thì có chuyện này thật, do một đội viên họ Thái làm. Sau khi giải tán đội săn bắt sói, anh chàng họ Thái này đã lén lút buôn bán da sói, tệ hơn là có lần buôn bán cả người bị công an bắt, đến khám nhà, thì phát hiện ra một tấm da sói mới nguyên, anh ta thú nhận đã bắt giết một con sói mẹ đang mang thai. Cậu tôi không muốn đi gặp anh chàng họ Thái, chỉ xem tấm ảnh da sói ấy trong hồ sơ phạm tội của anh ta ở đồn công an, cậu nhận ra chính là con sói số bốn, liền vội vàng dẫn chúng tôi đi Hùng Nhĩ Xuyên.
Trong tưởng tượng của tôi, thì Hùng Nhĩ Xuyên cũng như những bản làng nhỏ chúng tôi đã đi qua, là nơi đất hẹp, núi mù, cây tạp, nhưng nào ngờ Hùng Nhĩ Xuyên lại là một lòng chảo khá lớn. Sông Ngân Hoa chảy từ Tây sang Đông qua một nơi gọi là đèo Trăng Sáng, rồi đột ngột ngoặt về hướng Nam, lượn thành một hình cánh cung lớn đầy đặn, lại từ chân trái núi Phong Hỏa Đài chảy về hướng Tây. Còn đường cái thì ở chính giữa lòng chảo, vắt ngang qua chỗ giao nhau của một nửa là đồng bằng và một nửa là cao nguyên. Các thôn bản giống như cánh hoa đào mà trung tâm là một thôn lớn ở cạnh đường cái. Trên cao nguyên có hai bản nhỏ nằm phân tán, trên đồng bằng cũng nằm phân tán hai bản nhỏ. Nhà cậu ở thôn Đoài trên cao nguyên.
Thôn Đoài và thôn Đông cách nhau một khe núi, thật ra là một con sông, ngày mưa sông mới có nước, ngày thường thì khô cạn. Trên bờ sông có một gác chuông dạng nhà để pháo. Sau này, tôi mới biết, người trong thôn khi chuyển từ phố huyện cũ đến đây, đã khiêng cả cái chuông trên gác chuông ở phố huyện cũ và xây một gác chuông ở đây theo kiểu thiết kế cũ để chứng tỏ mình là người đã từng ở phố huyện. Nhưng mười năm trước, gác chuông sập, chuông bị vùi trong đất đã vài năm. Sau khi ban bố điều luật cấm bắt giết sói, ở đây đã xây ra nhiều chuyện lạ. Trong một đêm, đột nhiên xuất hiện nhiều giày dép, quần áo trẻ con ở dưới gác chuông, còn có cả đồ chơi và đầu vú cao su. Tất cả thứ này đều là đồ dùng của trẻ em thành phố, thị trấn. Người ta xôn xao bàn tán, có kẻ nói đây là việc sói làm, nhưng không một ai phát hiện có sói ra vào ở chung quanh. Sau đó vài tháng, mới đầu xảy ra dịch lợn và trâu bò lở mồm long móng, chết hàng loạt rất nhanh, về sau, một số đội viên đội săn bắt sói và một số người không thuộc đội săn bắt sói nhưng vẫn săn sói bỗng mắc phải các chứng bệnh lạ lùng. Tiếp đến nữa là ở thôn Đông trên đồng bằng có ba gia đình cháy nhà, ở thôn giữa có lò gạch ngói bị sập. Dân bản ầm ĩ lên đòi xây gác chuông đè phong thủy. Nhưng trong thôn không có thợ mộc, thợ đá, họ đã dựng lên ngôi nhà dạng để pháo này bằng tay nghề vốn quen làm lầu cổng và lầu bia, rồi treo chuông lên đánh suốt ba ngày ba đêm. Cậu tôi dẫn chúng tôi đến lòng chảo, không về thẳng nhà, mà từ dưới gác chuông đi qua con sông cạn, lên phía Bắc. Trên khoảnh núi đất ở đó mồ mả dày đặc, cậu tôi bảo phải đến cúi đầu vái lạy phần mộ ông ngoại trước đã.
Mộ ông ngoại được xây trên đỉnh núi nhỏ. Mộ của người ta chung quanh đều là cây bách ngàn cành, mộ ông ngoại mọc đầy cây gai răng sói. Cậu đứng ở đầu mộ nói:
- Bố ơi, con dẫn về cho bố một người thành phố!
Sau đó, cậu cứ đứng trơ trơ tại chỗ, không quì lạy, cũng không cầu khấn. Tôi cúi lạy ba cái, ngồi xuống đám cỏ dại trước mộ, câu chuyện về ông ngoại lướt qua trong đầu: Một thế hệ anh hùng giờ sống chung với đất như thế này sao? Phải chăng cây gai răng sói từng là biểu tượng duy nhất, của người thợ săn? Trong bờ Cam Câu có người đang bắt gà rừng, gà rừng béo mũm mĩm, trên thân toàn chấm rỗ đen, ngu ngốc đần độn hết chỗ nói. Chúng đậu ở bờ bắc khe núi, bị người ta xua đuổi, bay đỗ ở bờ nam; bị người xua đuổi tiếp, lại bay sang bờ bắc, cứ bay đi bay lại không nghỉ. Một bầy mười con gà rừng có bốn con cứ bay mãi bay hoài trên không trung, đứt hơi mà chết, rơi thẳng xuống như một hòn đá. Một tiếng gọi the thé vọng đến:
- Anh Phó Sơn, anh Phó Sơn, đã về chưa? Tối sang nhà ăn gà rừng hầm đậu phụ nhé!
Từ nghĩa địa về đến thôn Đoài trên cao nguyên, đường bùn lầy lội trong mùa mưa nay đã khô cứng đầy ổ gà, chân chúng tôi bước trật trưỡng. Cậu không dẫn tôi và Mục Lôi đi mở cổng nhà cậu, có lẽ gia đình độc thân nồi bếp lạnh tanh, chẳng có thứ gì, cậu chỉ giơ tay chỉ chỗ rồi dẫn chúng tôi sang nhà anh họ. Bây giờ, tôi mới biết cậu còn có một người anh họ mà tôi phải gọi là cậu lớn. Cổng nhà cậu lớn đóng im ỉm, nhưng là khóa giả, cậu chỉ ngoáy một cái là khóa mở, còn cửa ra vào nhà hoàn toàn không có khóa, chỉ xỏ một cái chổi lông gà vào vòng cửa. Tôi đứng ở cửa chính đã mở toang hai cánh, nhìn bao quát khắp lượt: chuồng gà, lán cối xay ở trong sân, cây đào cây lê, làn khoai lang thái phơi khô để trên giá đầu tường sân, những dây thép rỉ, giày rách, búi tóc nhét trong khe tường nhà, rồi nhìn đến tủ bức bàn, ghế dài, bàn bát tiên, giường lò ở trong nhà, và hộp thuốc lào, dây mồi lửa bện bằng vỏ ngô để ở trên bờ tường đất. Tôi ngồi trên chiếc ghế gỗ đào hạch kiểu cũ, thầm nghĩ biết bao nhiêu lớp người đã từng kéo lúa giã gạo ở đây. Cậu hỏi:
- Anh thấy ở đây lạ lắm nhỉ?
Tôi đáp:
- Cháu chưa bao giờ đến đây, thưa cậu!
- Anh chưa bao giờ đến đây, nhưng anh đã bao giờ nằm chiêm bao một nơi tương tự thế này không?
Tôi lắc đầu.
- Ồ! - Cậu khẽ thở dài, ánh mắt hơi tối lại.
Tôi hoàn toàn hiểu ý cậu. Chắc chắn cậu cho rằng gốc gác tôi không ở đây, cháu ngoại rút cuộc vẫn là cháu ngoại.
Chúng tôi đun nước pha trà, đang uống thì cậu lớn về. Cậu lớn đi đào xương rồng ở khe núi trước thôn. Lúc đầu, tôi cứ tưởng ở khe eo núi có xương rồng thật, nghe cậu lớn nói mới vỡ lẽ, thì ra ở bờ đất hai bên eo khe núi có nhiều sinh vật cổ hóa thạch, như xương voi lớn, xương bò rừng, xương cá, xương hươu... Những hóa thạch này chưa hóa thành đá thật, nên có thể lấy dao cạo ra bột. Trong thôn, có người thỉnh thoảng cắt cỏ bị liềm bập vào tay, lấy thứ bột này rắc vào, thấy đỡ đau, cầm máu rất nhanh. Vậy là mấy chục năm nay, dân làng đi đào hóa thạch về làm thuốc, đau ở ngoài thì bôi, đau ở trong thì uống. Họ đã gọi tất tần tật các hóa thạch bằng cái tên chung là xương rồng. Xương rồng có giá trị chữa bệnh, tôi có thêm một chút kiến thức, nhưng thú vị hơn, những hóa thạch này là hóa thạch sinh vật cổ, từ đó có thể tưởng tượng suy rộng ra cả vùng Thương Châu rộng lớn trong thời kỳ xa xưa không phải là nơi rừng thiêng nước độc, có lẽ là biển cả, là đầm lầy, là vùng núi có nhiều động thực vật các loại sinh sống, mà con người cũng chỉ là một thành phần trong đó. Nhưng, bây giờ, voi lớn không còn, bò rừng không còn, hươu cũng không còn, chỉ còn lại con người. Mục Lôi bảo:
- Vẫn còn có một thứ đi theo người.
- Thứ gì?
- Chấy rận! - Mục Lôi cười khì khì - Thời cổ xưa, nhất định trên thân người cũng có chấy rận.
Tay cậu lớn đang thò vào bụng gãi, chợt dừng lại, cậu cười ngượng ngịu.
Tôi cáu tiết bởi lời nói bông đùa của Mục Lôi. Tôi đẩy anh ta ra cửa và bảo:
- Anh đi tắm cho con Phú Quí đi, tắm rửa cho lông đen của nó trắng ra.
Rồi tôi quay sang cậu lớn:
- Cháu nghe bà nội kể, - tôi nói - từ khi thôn này ở phố huyện cũ dời về đây, sói cũng kéo về theo, phải không ạ?
- Lại còn không ư! - Cậu lớn nói - Sau khi bỏ phố huyện cũ thì nơi nhiều sói nhất Thương Châu là huyện Trấn An, mà chỗ chúng ta đây là nơi nhiều sói nhất của huyện Trấn An. Anh vào thôn mà xem, hầu như nhà nào cũng bị sói phá hại. Hiện nay có năm gia đình tuổi bốn mươi trở lên bị sói ăn thịt trẻ con, có sáu bảy người bị sói cắn mất cánh tay, còn có mười bốn mười lăm gia đình bị sói cào cấu trên người. Trong vòng trăm dặm vuông, hễ nhắc đến Hùng Nhĩ Xuyên mình, cứ tưởng Hùng Nhĩ Xuyên mình có oán thù với sói. Nhưng sói nhiều thì nhiều đấy, dân số của Hùng Nhĩ Xuyên vẫn không ngừng tăng lên. Các cụ già kể rằng, lúc từ phố huyện cũ chuyển về đây, chỉ có mỗi một thôn ở giữa lòng chảo, bây giờ thôn này phát triển thành một thị trấn, chung quanh lại có thêm bốn thôn nữa. Chỉ có người càng ngày càng đông, còn đất càng ngày càng ít đi, bình quân đầu người không đến tám sào ruộng.
- Ở nước Mỹ có bộ phim “Khiêu vũ với bầy sói”, nhưng đây mới chính là nơi người cùng nhảy múa với sói.
- Nhảy múa với sói ư? - Cậu lớn lắc đầu, có lẽ cậu lớn chưa xem bộ phim này, cứ tưởng tôi trêu chọc. Người nhảy múa gì với sói hả? Bà anh biết rõ cuộc sống như thế nào! Tử Minh, anh là người thành phố, hiểu biết nhiều, anh bảo có lạ không, đời đời kiếp kiếp sói hại người, nay nói không có nữa là tự nhiên không có nữa! Ngày trước, không có gia đình nào đi săn, nhưng ai ai cũng có thể nói mình là người thợ săn bắn, sau đó mới có thợ săn, như cậu anh đây. Bây giờ, đội săn bắt sói của Thương Châu cũng không còn, chỉ còn lại một mình cậu anh. Anh xem, thay đổi nhanh thế đấy.
- Tôi cũng chẳng còn là thợ săn! - Cậu tôi bảo.
- Chú vẫn còn cây súng săn và bộ quần áo đi săn cơ mà! - Cậu lớn nói - Bọn trẻ con bây giờ đêm có tối đến mấy đi chăng nữa, thích đi ra ngoài, phủi đít một cái là đi luôn. Chỉ có lớp tuổi chúng tôi, ai đi ra ngoài cũng còn quen cầm trong tay cái xẻng hay cây gậy.
Ngay tối hôm đó, hai ông cậu tôi đã bày cỗ đón nhận tẩy trần cho đứa cháu ngoại của mình. Nói một cách nghiêm túc, cậu lớn tôi đã từng làm trưởng thôn mấy năm, sau đó lại trải qua trồng nấm hương, người trẻ trung hoạt bát hơn cậu tôi. Cậu lớn đứng ra đăng cai, bày hẳn một mâm bốn món mặn, bốn món chay đầy ú ụ, có cả quả khô, thập cẩm, mời hơn mười vị trong thôn ngồi tiếp. Cậu lớn giới thiệu với tôi từng người, bỗng chốc bề bậc tôi tụt hẳn xuống, không gọi người kia là ông ngoại, thì gọi người này là ông cậu. Nhắc đến bà nội tôi thì ai ai cũng gọi tên cúng cơm của bà, cứ nói bà nội tôi là người già có phúc nhất ở Hùng Nhĩ Xuyên, ngày xưa suýt nữa bị sói ăn thịt. Các vị này nói, bà nội tôi gặp nạn lớn mà không chết là thế nào về già cũng sung sướng. Họ còn bảo nom tôi có dáng dấp của ông ngoại, khi còn sống, ông ngoại tôi cũng cao cao xương xương thế này, tròng mắt hơi hum húp.
- Nhưng anh này không có râu! - Cậu tôi nói.
Tôi ngượng ngịu sờ lên má lên cằm mình. Họ liền bảo, thật đáng tiếc, nếu có một bộ râu quai nón thì tuyệt biết mấy. Các bậc trưởng lão bên ngoại bắn đại bác mấy ngày mới tới này tiếp đãi tôi hết sức nhiệt tình, nhưng không ai khôi ngô tuân tú như hai ông cậu tôi. Hình dáng của họ khiến tôi không thể nể trọng, nếu không đầu trọc lóc thì cũng mặt lưỡi cày, lại còn cụt tay chân thọt, thậm chí có một người đầu cứ lắc quầy quậy, lúc ăn thịt uống rượu thì còn bình thường, một khi không nhai nữa, thì mồm chảy nước dãi. Bữa cỗ này ăn lâu lắm. Tôi không uống được nhiều rượu, các vị cứ tìm hết lý do này đến lý do khác ép tôi uống, mặt tôi đỏ phừng phừng, tôi phải cởi cúc áo ra để họ nhìn thấy những nốt sần đỏ khắp người, lúc này họ mới bảo:
- Xét cho cùng đã là người thành phố rồi mà!
Họ không ép tôi uống nữa, sau đó họ bắt cái chơi lẩy cỏ, đánh oản tù tì. Bà mợ cứ từng gáo từng gáo múc rượu quả thị tự nấu ở chum lớn trong nhà đem ra. Gần đến nửa đêm mà xem ra chưa có dấu hiệu tan bữa chén. Tôi ngồi một bên cứ phụ họa cười theo và nô đùa với con Phú Quí con Thúy Hoa chui ở gầm bàn. Tôi đưa một cốc rượu cho Phú Quí uống, cái lưỡi dài của nó đớp đớp hết nửa cốc, rồi hắt xì hơi mấy cái liền. Giữa lúc này, từ ngoài cổng có một người bịch bịch đi vào, cổng vẫn. mở, trong sân không có đèn, tối mò mò, không nhìn rõ mặt người đi vào. Cậu lớn không quay ra nhìn, vừa rót rượu vừa bảo:
- Hỉ Sình đến hả? Vào bếp lấy đôi đũa ra đây.
Quả nhiên người có tên Hỉ Sinh huỳnh huỵch bước vào bếp ở bên trái sân lấy đôi đũa đi vào nhà, còn cầm một củ hành đã bóc, cắn một miếng và nói:
- Phó Lai, Phó Sơn bày tiệc rượu cũng không bảo tôi một tiếng, hết rượu thì sang nhà tôi lấy! Cái lão Thuyên này, anh đâu có chui vào lỗ chuột, bảo anh ở bên Phó Lai, quả nhiên ở đây thật.
Con người béo ục ịch kia nói:
- Anh là đồ mũi chó, đánh hơi giỏi thế, tìm tớ có việc gì?
Hỉ Sinh đáp:
- Đức Thuận bảo tôi tìm anh, anh tự biết.
Thuyên nói:
- Chuyện của tôi với Đức Thuận cứ để bọn tôi tự giải quyết, anh chõ vào làm gì!
Hỉ Sinh nói:
- Tôi cầm tiền của người ta, lẽ nào tôi không quản. Đòi nợ cũng có đạo đức nghề nghiệp của đòi nợ chứ!
Cậu lớn chen vào:
- Đến nhà tôi ăn cỗ chỉ nói chuyện ăn cỗ thôi đấy nhé!
Hai người không nói nữa, mọi người lại tiếp tục thay nhau uống rượu. Người nào người nấy uống tới mức nóng ran lên, cởi phăng áo ra, trông vào hoặc là một bộ da bụng lợn, hoặc là gầy giơ xương, đếm được từng dẻ xương sườn, nhưng thắt lưng của ai cũng cuốn một dải vải đỏ. Hỉ Sinh uống ba cốc rượu, hỏi cậu chuyện này chuyện kia, sau đó nâng cốc chúc rượu từng người, riêng Thuyên thì không chúc, sắc mặt tai tái, anh ta cúi đầu lấy ngón tay chấm rượu viết viết lên bàn. Hỉ Sinh nói:
- Biết không, bố Cẩu Hưng lại ốm, tôi đã đi thăm, người đã biến dạng, không đi đêm nay thì sáng mai cũng đi thôi, vừa chuyển đến thôn Đoài các anh, nhoáng một cái lại sang thôn Đông. Bố Cẩu Hưng ngã xuống một cái, không biết lại đến lượt ai khiêng ra cổng đây!
Mọi người lập tức im lặng. Cậu lớn lên tiếng:
- Hỉ Sinh này, anh làm sao vậy, đang vui vẻ đánh chén, thì rặt nói đến chuyện buồn. Chính quyền xã cứ phê bình thôn Đoài yếu kém, thôn Đoài không tích cực quán triệt chỉ thị của chính quyền, thế lệnh gọi của ông Diêm vương cũng không tích cực thực hiện ư!
Ai nấy cười rộ lên. Cậu bảo tôi và Mục Lôi bưng cốc rượu chạm chén với Hỉ Sinh, hai bên giới thiệu nhau xong, Hỉ Sinh ngồi xuống bên tôi, nói:
- Tôi bảo nhé, chỉ tiêu vừa đến thôn Đoài, tại sao lại sang thôn Đông nhanh thế? Thì ra thôn Đoài có người thành phố về, chó cắn kẻ ăn xin, ma sợ người có tiền mà!
Anh ta lại bảo tôi chơi lẩy cỏ, tôi giải thích mình không biết uống rượu, không uống được nữa. Anh ta hỏi:
- Hay là trán tôi không đẹp như trán Thuyên?
Trên trán Thuyên có một vết sẹo dài. Tôi hỏi:
- Vết sẹo ấy va vào đâu thế?
Hỉ Sinh đáp:
- Sói cào đấy! Anh ta vin vào vết sẹo ấy dây dưa không trả tiền, vậy thì tôi cũng làm một cái.
Lời nói vừa dứt, anh ta cầm luôn chai rượu đập vào trán mình đánh bốp một tiếng, chai rượu vỡ tan, máu chảy ròng ròng. Mọi người đứng ráo cả lên mắng nhiếc:
- Liều thế! Liều thế!
Họ khuyên Thuyên về nhà đã, rồi mới dìu Hỉ Sinh vào buồng ngủ, đốt vỏ gối bông lấy tro rịt vào vết thương.
Xong đâu đấy lại tiếp tục uống rượu, uống đến lúc gà gáy canh hai. Khi mọi người ra về, hai ông cậu tôi cũng đã say nhứ nhừ, lăn ra ngủ. Nhưng Mục Lôi kêu đau đầu, con Thúy Hoa vuốt chải cho một lúc lâu, lại uống thuốc giảm đau, vẫn không đỡ. Tôi giúp anh ta giơ nắm tay đấm vào đầu, anh ta nôn thốc nôn tháo, ăn vào bao nhiêu mửa hết ra ngần ấy, sau đó năm sóng xoài một chỗ y như con chó chết, khe khẽ rên. Gà gáy canh tư, tôi mới đi ngủ; lúc thức giấc thì đã là trưa hôm sau. Cậu tôi đã đậy từ bao giờ, đang quét sân, còn Mục Lôi thì vẫn đang ngủ ngon. Cậu tôi hỏi:
- Anh ta hành hạ đến già nửa đêm phải không?
- Các cậu đều say đi ngủ cả, chỉ có một mình cháu.
- Bệnh của anh ta...
Cậu không muốn nói tiếp, tôi cũng không nhiều lời, xin được dẫn đi xem thôn. Cậu đồng ý, lại khoác bộ quần áo săn lên người, cầm cả khẩu súng đi.
- Cứ về đến nhà là cậu cảm thấy chỗ này đau đau, chỗ kia khó chịu, không mặc bộ này vào, có lẽ cậu cũng đổ mất.
Chúng tôi đi một vòng thôn Đoài, lại quanh vào thôn giữa và ba thôn nhỏ khác, lũ trẻ con cứ lẽo đẽo đi theo sau chúng tôi. Trong túi em nào cũng có cái nỏ thun, hễ trông thấy chim bay qua là bắn, không con nào là không bắn trúng. Đến bờ sông phía Nam lòng chảo, mặt trời nắng gay gắt, trên các mỏm đá ở bờ sông thỉnh thoảng có con cò đậu, bọn trẻ thúc cậu nổ súng, dĩ nhiên cậu không bắn, bọn chúng giơ nỏ thun bắn trúng một con, lại chờ con khác xuất hiện, bắn liền một lúc năm con. Một con ba ba bò lên khỏi mặt nước nằm phơi mai trên hòn đá, những hòn sỏi từ nỏ bắn ra đều tập trung bắn vào mai, mai ba ba không vỡ, nhưng con ba ba tung lên, rơi tõm xuống nước. Lúc này, cậu mới giơ súng lên, cũng chỉ giơ lên một cái, mặt nước bắn lên tung tóe.
- Không trúng ba ba, không trúng ba ba!
Bọn trẻ nhao nhao. Nhưng một con rắn màu xanh phơi bụng trôi trên mặt nước, đang từ từ trôi dạt vào bãi nước cạn. Tôi trông thấy con rắn dài hơn hai thước, chưa chết hẳn, nó vặn mình co dúm lại, màu xanh thân rắn trộn lẫn màu đỏ, rợn cả người. Vậy mà bọn trẻ lại khoái chí, chạy xuống cầm con rắn bị thương, dùng vỏ cây buộc đuôi rắn vào cành cây, con rắn còn hơi giẫy giụa, bọn chúng đứng cách khoảng mười mét thi nhau bắn, con rắn cứ ngắn dẫn ngắn dần.
Tôi thấy ác cảm đối với hành vi của bọn trẻ. Tôi không để cậu tiếp tục ngắm bắn vào các con vật nhỏ khác, cũng không cho bọn nhóc bám theo nữa. Tôi hỏi cậu những việc đã chứng kiến trong bữa cỗ đêm qua. Có nhiều chuyện tôi không hiểu, ví dụ, tại sao người nào cũng quấn dải vải đỏ ở thắt lưng? Tại sao Hỉ Sinh bảo vừa chuyển đến thôn Đoài lại chuyển sang thôn Đông? Cái gì chuyển? Hỉ Sinh đòi nợ thì có gì quá quắt với Thuyên? Cậu tôi bảo:
- Ấm nào không mở thì anh xách ấm ấy! Năm năm trước, có một thầy địa lý đến xem địa hình ở đây, ông ta bảo trên cao nguyên có một cái huyệt tốt, thế là mấy họ lớn đều định chiếm cái huyệt này. Sau đó biến thành cuộc đấu tranh giữa các thế lực bè phái, anh nghi kỵ tôi, tôi thù hận anh, bên nào cũng mời thầy mo bà đồng ở ngoài về vẽ bùa niệm chú. Một đêm nọ, có người lấy thuốc nổ phá huyệt, ai phá thì không rõ. Không còn huyệt, người trong thôn cứ thay nhau lần lượt qua đời, lại thường xảy ra ở thôn này sau đó chuyển sang thôn khác, ai ai cũng hoang mang sợ hãi, không biết người chết tiếp theo sẽ lần đến nhà nào. Cũng vì vậy mà đã xây lại gác chuông, nhưng bỗng có lời lan truyền, rằng buộc dải vải đỏ vào thắt lưng có thể tránh được tai họa. Thế là già trẻ trai gái ai ai cũng buộc dải vải đỏ, số vải đỏ nằm chết gí bao năm ở cửa hàng trong phút chốc bị tranh nhau mua hết sạch. Vợ Thuyên mua từ chỗ Đức Thuận một lô vải đỏ, mà tiền thì dây dưa mãi không trả. Đức Thuận đã thuê Hỉ Sinh đến đòi nợ. Nếu không phải trong bữa cỗ đêm qua, thì thế nào Thuyên cũng bị Hỉ Sinh đánh cho một trận no đòn.
- Rối bung bét như vậy, - tôi hỏi - mà ủy ban xã không can thiệp hay sao?
- Can thiệp cái gì? Ủy ban xã có vài mống, chỉ riêng việc thúc nộp thuế, thúc nộp tiền nạo thai sảy thai... đã đủ bấn bíu mệt nhoài! Nếu ông ngoại anh còn sống, còn có thể nói lời hòa giải công bằng đúng đắn, ông ngoại anh chết đi một cái, chẳng còn ai đủ đức tài dẹp yên.
- Cháu thấy cậu lớn nhà mình được đấy chứ!
- Ông ấy ư? Nói thì được nhưng nhút nhát lắm. Ngày trước, khi sói còn nhiều, ông ấy và Nhị cẩu đi Bắc Sơn đuổi sói, sói chẳng xua được thì chớ, lại còn bị sói đuổi ngược, cả hai trèo lên cây, hơn mười con sói cứ xúm quanh gốc cây không đi. Cậu đến giải vây, từ đó Nhị cẩu khiếp sợ đến nỗi cứ lắc đầu nhỏ dãi. Còn cậu lớn anh cũng sợ phát ốm mười ngày, sau đó nói thế nào cũng không vào đội săn bắt sói nữa. Bây giờ không nhìn thấy sói nữa, ông ấy vẫn còn bảo ra cổng phải mang gậy cơ mà. Anh không trông thấy tường trước tường sau nhà ông ấy còn dùng vôi vẽ những vòng tròn trắng để dọa sói đó sao? Việc này...
Cậu tôi bỗng dưng nhớ đến điều gì đó, không nói tiếp nữa mà gọi tôi một tiếng:
- Tử Minh!
- Dạ. - Tôi đáp.
- Anh có nằm chiêm bao không?
- Sao lại không, cháu thường hay nằm mơ lắm.
Ban ngày nghĩ cái gì, ban đêm nằm mơ cái đó, cậu biết điều này, nhưng khốn nỗi chuyện ban ngày mình nghĩ, ban đêm lại không mơ thấy, rặt mơ những điều mình chẳng nghĩ đến bao giờ. Anh thử giải thích cho cậu xem nào.
Tôi hỏi cậu nằm mơ cái gì. Cậu bảo, đêm qua cậu mơ lạ lắm. Cậu đi săn mấy chục năm, chưa bao giờ nằm mơ thấy sói, nhưng đêm qua đã nằm mơ thấy con sói tha cậu thời còn nhỏ. Con sói ấy đã già lắm, cậu đang ngồi ở cửa, vừa ngẩng lên, nó đã đứng ở trước mặt, lại còn gọi tên cậu: Phó Sơn, phó Sơn! Cậu không sợ, chỉ hỏi: Ngươi là sói ở đâu? Có nằm trong số mười lăm con sói không? Sói đáp: Trong số mười lăm con sói, nhưng anh không nhận ra tôi, tôi đã tha anh mà! Cậu nhìn kỹ thì đúng là con sói đã từng tha mình! Cậu hỏi; Ngươi còn sống à? Sói đáp: Tôi vẫn còn sống, tôi đã một trăm năm mươi tuổi! Lúc này cậu tỉnh giấc.
Cậu hỏi:
- Tại sao cậu lại mơ thấy nó nhỉ?
- Có lẽ tối qua cậu uống nhiều rượu quá, cái sẹo sưng lên đau đớn, trong tiềm thức lại nhớ đến việc bị sói tha hồi còn bé!
Dường như cậu vẫn bán tin bán nghi trước sự giải thích của tôi. Cậu hỏi:
- Theo anh, chắc không có chuyện gì đâu nhỉ?
Tôi đáp:
- Cho dù con sói ấy đã sống một trăm năm mươi tuổi thật, thì hiện giờ còn đến tha cậu được không?
- Cũng phải đấy.
Từ bờ sông, chúng tôi trở về. Tôi để ý tường bao quanh nhà cậu lớn đúng là có vẽ nhiều vòng tròn nước vôi, còn cạm sói ở góc tường thì đang kẹp chặt chân trước con mèo Thúy Hoa. Bà mợ vừa tháo cạm cho con mèo, vừa mắng chồng:
- Bây giờ làm gì còn sói nữa, ông còn đặt cạm để kẹp cu ông à?
- Cẩn thận vẫn hơn chứ! Càng khi không có sói, càng phải đề phòng sói. - Cậu lớn tôi đáp lại. Thấy chúng tôi đi vào sân, ông thôi nói, chỉ cười hỏi - Cảnh đẹp chứ, cảnh đẹp chứ?
Tôi nói:
- Táo bị sâu cắn là quả táo ngon nhất, nơi sói đến thăm hỏi đương nhiên là có phong cảnh đẹp.
- Không thể nói thế đâu nhé! - Cậu lớn bảo - Anh là quí nhân, mồm quí nhân độc lắm, nói cái gì cái đó đến!
Cậu lớn nhìn tôi có vẻ đắn đo, khẽ hỏi:
- Tôi có chuyện muốn hỏi anh, hơn mười ngày trước, trước cửa thôn Đoài Nam có phân sói, trong bãi sông cũng có dấu chân sói, sao lại có sói nhỉ? Có người tuyên truyền sau khi chính quyền Thương Châu ban bố chỉ thị cấm giết sói, đã nhập vào Thương Châu một loạt giống sói mới của nước ngoài, có phải thế không anh?
Tôi cười lắc đầu, thầm nghĩ: ‘‘Người Hùng Nhĩ Xuyên làm sao cũng có suy nghĩ này nhỉ?’’
- Phân sói trước kia cứ từng hòn từng hòn, còn phân sói ở đầu thôn Đoài Nam lại từng đống từng đống, to bằng cái bát gỗ.
- Anh chớ có thấy gió tưởng mưa, ngay đến tôi cũng không biết, thì bác ấy biết sao được. - Cậu tôi nói - Thì cứ cho là nhập thả sói mới, thì sói mới lại đến chỗ mình sao? Hão!
Hai ông cậu nói chuyện ngoài sân, tôi vào trong nhà. Mục Lôi mặt mũi hốc hác đang ngồi ở mép giường lò, đầu đã thôi đau, nhưng người thì phờ phạc. Tôi khẽ hỏi: - Anh có đi lại được không? Mục Lôi hỏi làm gì vậy. Tôi đáp đã phát hiện có sói ở thôn Đoài Nam, không biết thật hay giả, phải đi xem thử.
Tôi và Mục Lôi mang máy ảnh đi đến thôn Đoài Nam, làm gì có phân sói. Một bà già nói, ông già Mê Hồ nhặt phân chăm chỉ lắm, hay là ông ấy hốt phân sói đi rồi! Tìm đến ông già có tên là Mê Hồ, thì ông đang tán gẫu với mấy phụ nữ trẻ. Họ nói đến con trai nhà ai đó đã làm lãnh đạo ở tỉnh thành, ông già tỏ ra hết sức xúc động và khẳng khái, ông không biết làm lãnh đạo to như thế thì được hưởng bao nhiêu lợi lộc.
- Tôi mà được làm quan - ông già nói - thì chẳng đứa nào được hốt phân của Hùng Nhĩ Xuyên.
Chúng tôi liền hỏi ông già đã từng hốt phân sói bao giờ chưa. Ông già bảo:
- Phân sói màu trắng, bên trong có lông, hình như đã hốt, mà hình như cũng chưa từng hốt. Ông dẫn chúng tôi ra bể chứa phân xem, kết quả chẳng thu hoạch được gì.