CHƯƠNG III - (2) Phục tích Đinh Tỵ-
Ngày Viên Thế Khải qua đời, tin vừa chuyển đến Tử Cấm Thành, mọi người đều vui mừng, các thái giám chạy đi thông báo. Các thái phi đến thắp hương trước hộ quốc “Hiệp thiên đại đế quan thánh đề quân”. Cung Dục Khánh vô hình chung nghỉ học một ngày.
Tiếp đó, trong Tử Cấm Thành nghe thấy một tiếng vang thành mới:
“Viên Thế Khải thất bại vì chó nhảy bàn độc”.
“Không thể thực hành đế chế, trăm họ trái lại mong chủ cũ”.
“Viên Thế Khải và Napoleon III khác nhau, hắn không như Napoleon có phúc tổ phù hộ”.
“Lấy họ Viên làm hoàng đế chẳng bằng vật hoàn chủ cũ”.
Những thanh âm đó cùng hoạ với các thầy “ân sâu nghĩa nặng bản triều, lòng người cả nước còn nhớ?
Khi đó, tư tưởng tình cảm của tôi rất khác với mấy năm trước, lại cảm thấy hứng thú đối với báo chí.
Sau khi Viên Thế Khải chết được ít ngày, báo chí đăng tin “Đảng tôn xã khởi sự chưa thành” “thế lực thổ phỉ Mãn - Mông điên cuồng”. Tôi biết đó là những hoạt động của vương công đại thần - Thiện Kỳ, Phổ Vĩ, Thăng Sung, Thiết Lương đang vì tôi công khai chống cộng hoà. Lúc mới đầu, bốn người này bị gọi là Thân Bao Tế, khóc triều Tần đều không thành công. Sau đó Thiết Lương đến Thiên Tân trốn ở tô giới nước ngoài, số còn lại ở đất thuê của Nhật Bản ở Lữ Thuận và Đại Liên, thông qua bọn lưu manh Nhật Bản, cấu kết với quân phiệt - tài phiệt Nhật Bản hoạt động vũ trang phục tích. Trong số bốn người, hăng hái nhất là Thiện Kỳ. Khi ông ta giữ chức thượng thư Bộ Dân chính đã thuê cố vấn cảnh sát chính trị Nhật bản Kawashima Naniwa luôn luôn cùng ở một nơi. Nam tước Ohira Kihachiro, tài chủ Nhật bản cho ông ta một triệu yên hoạt động phí.
Các quân nhân Nhật bản Omari, Tori... đã chiêu mộ bọn thổ phỉ Mông Mãn cho ông ta tổ chức và huấn luyện thành quân đội có tới mấy nghìn người. Viên Thế Khải vừa chết là gây rối ngay. Trong số đó có một đội do Babojab quý tộc Mông Cổ chỉ huy một dạo đã tiến gần đến Trương Gia Khẩu, khí thế vô cùng điên cuồng. Cho đến sau này, Babojab bị bộ hạ giết trong một cuộc binh biến, hoạt động của chúng mới kết thúc. Trong những ngày hoạt động hung hăng nhất xuất hiện một hiện tượng rất ly kỳ; một mật “quân cần vương” và quân đội Dân quốc bắn nhau đùng đùng rất ác liệt ở mấy vùng Mông Mãn, mặt khác chính phủ Dân quốc và triều đình nhỏ của nhà Thanh ở Bắc Kinh qua lại chúc mừng nhau như trước, thù tạc không ngớt. Từ hôm Viên Thế Khải chết Tử Cấm Thành bắt đầu không khí hưng vượng, đã không bị ảnh hưởng về sự nổi loạn của hưng binh Thiện Kỳ và Babojab cũng không bị liên luỵ về sự thất bại của họ.
Sau khi Viên Thế Khải chết, Lê Nguyên Hồng kế nhiệm Tổng thống. Đoàn Kỳ Thụy làm thủ tướng quốc vụ. Tử Cấm Thành cử Phổ Du - người đã từng khích lệ Viên Thế Khải đến chúc mừng. Lê Nguyên Hồng cũng cử đại biểu đến cảm ơn đồng thời trả lại Tử Cấm Thành nghi trượng hoàng đế mà Viên Thế Khải đã lấy đi. Một số vương công đại thần còn được Dân quốc thưởng huân chương. Một số vương công đại thần trong thời đại Viên Thế Khải cũng đã xuất hiện ở các nơi giao tế. Ngày tết nguyên đán và ngày sinh của tôi, đại tổng thống cử lễ quan đến chúc mừng, cha tôi cũng biếu Lê tổng thống và Đoàn thủ tướng những đặc sản. Khi đó, Phủ nội vụ bận rộn nhiều so với trước còn giấu giếm tuyển thêm thái giám mới mà điều kiện ưu đãi đã cấm. Đương nhiên, còn có những thủ tục giao tế tôi chưa từng biết, từ tiệc riêng cá biệt đến công yến của các nghị sĩ quốc hội.
Nói chung, Tử Cấm Thành lại nhộn nhịp như trước kia, đến năm Đinh Tỵ (năm thứ sáu Dân quốc) Trương Huân vào cung thỉnh an, bắt đầu xuất hiện cao trào phục tích.
Trước khi đó, số người tôi tự triệu kiến thỉnh an không nhiều mà chỉ giới hạn trong tộc Mãn. Hoạt động hàng ngày của tôi, ngoài việc đến học ở cung Dục Khánh, xem báo ở điện Dưỡng Tâm, phần lớn thời gian còn lại vẫn là rong chơi. Tôi cảm thấy vui mừng thấy mũ lông công, áo thụng ngày càng nhiều ở cửa Thần vũ. Tôi đặc biệt phấn khởi nghe nói quân cần vương đã được phát động và cũng cảm thấy chán nản khi quân cần vương bị tiêu diệt. Song nói chung, tôi cũng rất dễ quên những chuyện đó. Túc thân vương trốn đi Lữ Thuận, tin tức không rõ, tôi cũng không quan tâm. Đã có cha tôi và các thầy, các đại thần, tôi việc gì phải lo lắng nhiều? Khi sự việc do các thầy báo cho tôi thì đúng là mọi thứ đều đã được bàn bạc, sắp xếp rồi. Tình hình ngày 27 tháng 9 âm lịch là như thế.
Ngày hôm đó, Trần Bảo Thám, vị thái bảo mới nhận chức và Lương Đỉnh Phần, quan hành tẩu cung Dục Khánh mới tới Tử Cấm Thành không lâu, cả hai thầy tiến vào cung Dục Khánh. Chưa đợi ngồi yên, thầy Trần mở miệng trước.
- Hôm nay hoàng thượng không phải học. Có đại thần đến thỉnh an hoàng thượng, lát nữa thái giám Phòng tâu việc sẽ đến báo cáo.
- Ai vậy?
- Nguyên tổng đốc Lưỡng Giang (Chiết Giang và Giang Tây) kiêm Tuần vũ Giang Tô Trương Huân.
- Trương Huân? có phải là Định vũ quán Trương Huân, người không cắt bím tóc đuôi sam không?
- Đúng là ông ta, - Lương Đỉnh Phần gật đầu tán đồng. - Trí nhớ của hoàng thượng thật tốt, đúng là Trương Huân ấy.
Thầy Lương vốn không bao giờ bỏ lỡ dịp tán dương, chính vì mục đích đó, ông đang viết về sinh hoạt hàng ngày của tôi.
Thực ra tôi cũng chẳng có trí nhớ tốt, chẳng qua là trước đó không lâu, tôi đã nghe các thầy kể câu chuyện về Trương Huân. Từ năm đầu Dân quốc đến nay, ông ta và quân đội của ông ta vẫn giữ các bím tóc đuôi sam. Năm thứ hai Dân quốc, Viên Thế Khải dập tắt “cuộc cách mạng lần thứ hai” là do dùng quân bím tóc của ông tấn công vây hãm Nam Kinh mà thành công. Quân bím tóc đốt nhà cướp của ở Nam Kinh, làm bị thương nhân viên lãnh sự quán Nhật Bản dẫn tới việc Nhật Bản phản kháng, thủ lĩnh quân tóc đuôi sam phải vội vã đến trước lãnh sự quán Nhật Bản xin lỗi nhận bồi thường mọi thiệt hại mới xong việc. Sau khi Long Dụ chết, Trương Huân gửi điện viếng gọi là “quốc tang”, còn nói “phàm là quan lại Dân quốc đều là thần dân đại Thanh”.
Viên Thế Khải chết không lâu, báo chí đăng một thông điện của Trương Huân bày tỏ thái độ của hội nghị đốc quân ở Từ Châu đối với thời cuộc sau khi Viên Thế Khải chết, điều đầu tiên là “tôn trọng các điều kiện ưu đãi nhà Thanh”. Tóm lại, tôi tin rằng ông ta là trung thần, mong muốn nhìn thấy ông ta như thế nào.
Căn cứ quy tắc của triều Thanh, khi hoàng đế triệu kiến đại thần, những người không có liên quan đều không được dự. Vì vậy trước mỗi lần triệu kiến những người không thường gặp, các thầy học đều chỉ dẫn trước, nói rõ tôi cần nói gì. Lần này thầy Trần, với thần khí đặc biệt cẩn thận nói với tôi: cần biểu dương lòng trung thành của Trương Huân, bảo ông ta cần nhớ mình hiện nay là Tuần duyệt sứ Trường Giang, có 60 tiểu đoàn quân ở vùng Từ Châu, Ngạc Châu, có thể thăm hỏi về quân đội và hai nơi của ông ta, khiến ông ta biết, hoàng thượng rất quan tâm đối với ông ta. Cuối cùng thầy Trần dặn đi dặn lại:
“Trương Huân thế nào cũng ca ngợi hoàng thượng, hoàng thượng hãy nhớ: “nhất định phải đáp lại một cách khiêm tốn, đó tức là biểu thị thánh đức”.
Thầy Lương vội vã bổ sung nói: “càng khiêm tốn càng là thánh thinh. Lần trước Lục Vinh Đình được thấy thiên nhan, đến nay gửi thư tới vẫn không quên ca ngợi thánh đức...”.
Lục Vinh Đình là Thần duyệt sứ Lưỡng Quảng (Quảng Đông - Quảng Tây). Ông ta là viên tướng Dân quốc đầu tiên được ban thưởng cưỡi ngựa trong Tử Cấm Thành. Hai tháng trước, ông ta đến Bắc Kinh gặp gỡ Đoàn Kỳ Thụy không biết tại sao đã vào cung thỉnh an tôi, còn báo giúp một vạn đồng để trồng thông ở Sùng Lăng. Ngồi kiệu về điện Dưỡng Tâm, tôi bỗng nhớ ra, khi gặp Lục Vinh Đình lần đó, thần sắc và sự căn dặn của các thầy cũng giống như lần này. Sự xuất hiện của Lục Vinh Đình lần đó, giống như một sự kiện lớn trong Tử Cấm Thành. Phủ nội vụ và các thầy sắp đặt sự ban thưởng khác thường, có câu đối và chữ Phúc - Thọ do vua viết, một đài thờ phật bằng vàng, một thanh ngọc như ý nạm vàng, ba thứ trần thiết bằng ngọc. Lục Vinh Đình sau khi về đã gửi một bức thư đề nghị Thế Tục “thay mặt tâu tạ ơn trời”. Bắt đầu từ đó “Nam Lục, Bắc Trương (Lục Vinh Đình ở phía nam, Trương Huân ở phía Bắc) thành câu chuyện hàng đầu của trên thì thầy dạy học, dưới đến thái giám. Trương Khiếm Hoà đã nói với tôi: “Có hai vị trung thần Nam Lục - Bắc Trương, Đại Thanh có hy vọng”.
Căn cứ một số hoạ báo do các thái giám mua cho tôi, tôi đã tưởng tượng ra bộ dạng của Trương Huân, cho tới khi tôi xuống kiệu ông ta vẫn chưa thành hình trong đầu óc tôi. Tôi vào điện Dưỡng Tâm không lâu, ông ta tới. Tôi ngồi trên ngai, ông ta khấu đầu trước mặt tôi.
- Thần Trương Huân quỳ xin thánh an...
Tôi chỉ vào chiếc ghế đặt bên cạnh bảo ông ta ngồi. (Khi đó trong cung cũng không để các đại thần quỳ nói nữa), ông ta lại rập đầu cảm ơn sau đó ngồi xuống. Theo lời chỉ dẫn của các thầy, tôi hỏi về tình hình quân đội ở hai vùng Từ -Ngạc. Ông ta nói những gì tôi cũng không để ý nghe. Tôi có chút thất vọng về tướng mạo của vị “trung thần” này. Ông ta mặc triều phục, da nâu, mi rậm, phục phịch. Nhìn dáng thấp lùn của ông ta, tôi cảm thấy không lý tưởng. Nếu như ông ta không có râu thì thật giống một thái giám phòng ăn. Tôi chú ý cái bím tóc đuôi sam của ông ta rõ ràng có một sợi màu hoa trắng. (ý nói bím tóc giả).
Sau đó, lời lẽ của ông ta không ngoài dự đoán của thầy Trần, quả là cung kính.
Ông ta nói: “Hoàng thượng thật thông minh tính trời”.
Tôi nói: “Tôi còn kém xa, tuổi còn trẻ, biết việc chưa nhiều”.
Ông ta nói: “Thánh tổ nhân hoàng đế bản triều cũng thông linh mẫn tuệ, sáu tuổi đã lên ngôi”.
Tôi vội vàng nói: “Tôi làm sau so sánh được với tổ tông, đó là tổ tông…”.
Lần triệu kiến này thời gian không lâu hơn các lần khác; ông ta ngồi đó năm, sáu phút là đi. Tôi cảm thấy ông ta nói thô lỗ, đại thể không thể so với Tăng Quốc Phiên, cũng cảm thấy không thật phấn khởi. Tuy nhiên, ngày hôm sau Trần Bảo Thám, Lương Đỉnh Phần gặp tôi cười hì hì nói: Trương Huân khen tôi thông minh, khiêm tốn, tôi lại hài lòng. Còn như vì sao Trương Huân đến thỉnh an, các thầy vì sao rõ ràng phấn khởi hơn so với lần Lục Vinh Đình, Phủ nội vụ vì sao chuẩn bị ban thưởng càng phong phú hơn so với Lục Vinh Đình, các thái phi vì sao còn ban thưởng yến tiệc v.v... tôi nghĩ cũng không ra.
Qua nửa tháng, ngày 13 tháng 5 âm lịch, vẫn tại cung Dục Khánh, ba thầy Trần Bảo Thám, Lương Đỉnh Phần, Chu Ích Phan cùng xuất hiện, nét mặt vô cùng trang nghiêm, vẫn là thầy Trần mở miệng trước:
- Trương Huân sắp đến rồi!
- Ông ta lại thỉnh an ư?
- Không phải thỉnh an, vạn sự đã chuẩn bị, tất cả đã đâu vào đấy, đến giúp Hoàng thượng phục vị thinh chính, phục tích Đại Thanh!
Thấy tôi hoảng hốt, ông vội nói: “Hoàng thượng cần đáp ứng Trương Huân. Đấy là vì lòng dân mong đợi”.
Tôi bàng hoàng mê mẩn vì sự việc vui mừng bất ngờ này. Tôi ngây ngô nhìn thầy Trần, mong ông nói nhiều hơn một chút để tôi hiểu rõ cần làm một “hoàng đế thật” như thế nào.
“Không cần phải nói gì nhiều với Trương Huân, đáp ứng ông ta là được rồi”. Thầy Trần đã có chủ kiến nói: “Tuy nhiên không nên đáp ứng ngay, trước hết hãy từ chối, cuối cùng mới nói đã như thế thì đành vậy”.
Tôi về điện Dưỡng Tâm lại triệu kiến Trương Huân. Lần này Trương Huân nói cũng giống như bản tấu viết của ông ta về phục tích.
“Long Dụ thái hậu không nỡ để vì tôn vinh một họ mà trăm họ bị tai hoạ mới xuống chiếu lập cộng hoà. Ai ngờ lập cộng hòa dân không sống nổi... Cộng hoà không phù hợp với tình hình nước ta, chỉ có Hoàng thượng trở lại ngôi, mới cứu được muôn dân…”
Nghe ông ta đọc xong, tôi nói: “Tôi tuổi quá nhỏ, vô tài vô đức, không làm nổi trách nhiệm lớn đó”. Ông ta tán dương tôi một hồi, lại nhắc chuyện vua Khang Hy tám tuổi làm hoàng đế. Nghe ông ta lẩm bẩm, tôi bỗng nhớ lại một vấn đề:
- “Làm thế nào với ông đại tổng thống? Ưu đãi ông ta hay là làm gì?”
- “Lê Nguyên Hồng tâu xin để ông ta tự thoái vị. Hoàng thượng chuẩn y lời tâu của ông ta là được”.
- “À…” - tôi vẫn chưa rõ, bụng nghĩ phải chăng các thầy đã bàn bạc xong rồi, hôm nay tôi phải kết thúc cuộc triệu kiến, liền nói “đã như vậy tôi biết làm thế nào!”. Do đó tôi lại là hoàng đế đế quốc đại Thanh.
Sau khi Trương Huân lui ra, có hàng loạt, người lục tục kéo đến, người thỉnh an, người cảm tạ. Sau đó thái giám phòng tâu việc đưa tới một đống “Thượng dụ”. Một ngày đầu, một lúc sau ra 9 bản “Thượng dụ”.
Chiếu lên ngôi:
Lê Nguyên Hồng xin trả lại chính quyền đất nước, phong Lê công nhất đẳng để tỏ phép nước.
Đặc biệt lập ra nội các nghị chính đại thần, chế độ quan hàm khác tạm theo năm đầu Tuyên Thống, các quan văn võ lớn nhỏ hiện nay vẫn giữ chức như thường.
Phong bảy đại thần nghị chính (Trương Huân, Vương Sĩ Trân, Lương Đôn Ngạn, Lưu Đình Thám, Viên Đại Hoá, Trương Chấn Phương) và hai vị thừa các nội các (Vạn Thang Thức, tham mưu trưởng của Trương Huân và Hồ Tự Viên tham mưu của Phùng Quốc Chương).
Phong thượng thư các Bộ (Lương Đôn Ngạn Bộ ngoại vụ; Trương Chấn Phương Bộ Tài chính; Vương Sĩ Trân Bộ tham mưu, Lôi Chấn Xuân Bộ lục quân; Chu Gia Bảo Bộ Dân chính).
Phong Từ Thế Xương, Khang Hữu Vi làm chánh phó Viện trưởng Viện Bật Đức.
Phong nguyên đốc quân các tỉnh làm Tổng đốc, Tuần vũ và Đô thống (Trương Huân kiêm nhiệm tổng đốc Trực Khang, đại thần Bắc Dương).
Theo hồi ức của những người Bắc Kinh cũ nói chung về tình hình đường phố Bắc Kinh khi đó: sáng sớm hôm đó, cảnh sát bỗng nhiên gọi các nhà dân treo cờ rồng, cư dân không có cách nào thì còn cách dùng cờ giấy để ứng phó. Tiếp đó áo thụng áo chẽn triều Thanh mấy năm không trông thấy lại xuất hiện, từng nhân vật hình như từ trong quan tài nhảy ra. Các báo ra phụ trương về tin tức phục tích, bán còn đắt hơn báo hàng ngày, trong cảnh tượng kì lạ đó, khắp nơi có thể nghe thấy tiếng rao bán báo “Tuyên Thống thượng dụ”.
Khi đó, ngoài tiền môn có một số cửa hàng buôn bán cũng rất phát đạt. Một loại là cửa hàng may sẵn gấp rút may cờ rồng để bán; một loại là cửa hàng quần áo cũ, bào phục triều Thanh trở thành món hàng mà các di lão mới được phong quan tranh nhau mua. Một loại khác là làm các đạo cụ rạp hát, tới tấp có người đi tìm mua đuôi ngựa làm bím tóc giả. Tôi còn nhớ, trong những ngày đó, trong Tử Cấm Thành là áo thụng, áo chẽn, mũ lông công, sau gáy mọi người là bím tóc dài. Sau này, quân thảo nghịch tiến vào thành Bắc Kinh khắp nơi lại có thể đụng những bím tóc thật. Nghe nói đó là đội quân bím tóc của Trương Huân chạy thục mạng cắt vứt lại.
Nếu như những người ra vào Tử Cấm Thành có một chút nhãn quan của trẻ bán báo có thể dự tính đến số phận các bím tóc và đạo dụ của vua; họ sẽ không khoái chí như mấy ngày đầu tiên.
Trong mấy ngày đó, người Phủ nội vụ ăn mặc đặc biệt chỉnh tề, số người cũng rất đông. Đại thần tổng quản Phủ nội vụ đã đặc biệt ra lệnh: vì số người vẫn lo chưa đủ, tạm thời điều động mấy người từ trong các nhân viên hầu sai. Có một người nay vẫn còn sống khoẻ mạnh, ông ta nhớ lại nói: “Trong hai ngày đó, những người viết chữ trong bọn chúng tôi nghỉ rất muộn. Nói chung là viết không xuể. Mỗi ngày các thái phi đều ban cho cơm. Khi ban cơm cũng không quên bảo: không phải tạ ơn, nói rằng các ông rất vất vả, bề trên bốn cung đều biết rõ.”. Ông ta không biết rằng, bốn bà Thái phi đang vui đến mức không biết làm thế nào cho phải, hầu như hàng ngày đến thấp hương trước thần phật, hoàn toàn không có thì giờ tiếp họ.
Trong những ngày đó, các vương công chưa đạt được dục vọng chính trị rất không vui. Ngày thứ hai sau khi phát động phục tích, Trương Huân công bố một đạo dụ cấm chỉ các thân vương quý tộc không được can dự công việc chính quyền khiến họ vô cùng phẫn nộ. Thuần Thân Vương lại trở thành trung tâm của một đám bối tặc, bối tử, muốn tranh luận với Trương Huân, lại còn muốn đích thân tìm tôi làm chủ. Nghe tin đó, Trần Bảo Thám vội vã đến dặn tôi.
“Triều ta nhường nước năm Tân Hợi, chính là do các vương công, quý tộc can dự công việc chính quyền gây ra, hiện nay vẫn còn muốn gây chuyện thật quá hồ đồ! Hoàng thượng muôn vàn không thể đáp ứng họ!”
Tôi đương nhiên tin theo thầy dạy. Các vương công tự biết là cô lập nhưng vẫn chưa chịu, suốt ngày tụ tập với nhau tìm đối sách. Đối sách vẫn chưa nghĩ ra thì quân trừng phạt đã tiến vào thành, điều đó đổi thành sự an toàn cho họ, khiến họ tránh được trách nhiệm về lần phục tích này.
Trần Bảo Thám vẫn là người cẩn thận nhất, rất có kiến thức. Qua sự việc xảy ra năm đó tôi vẫn thấy ông như vậy. Lúc đó, Lao Nãi Tuyên lặng lẽ từ Thanh Đảo mang về một bức thư. Tên người gửi thư nay không nhớ rõ, chỉ biết rằng đó là một người Đức, thay mặt hoàng thất nước Đức tỏ ý sẵn sàng ủng hộ nhà Thanh phục tích. Lao Nãi Tuyên cho rằng, đó là cơ hội rất tốt, nếu như thêm vào sự kết thân giữa hai hoàng thất Thanh - Đức thì càng có điều kiện. Đối với việc đó thầy Trần tỏ ý phản đối kịch liệt, nói rằng Lao Nãi Tuyên quá hoang đường, đó là con người thất bại nhiều hơn thành công. Ai ngờ bắt đầu từ ngày phục tích, ông già họ Trần cẩn thận ấy lại hoàn toàn thay đổi.
Ngày đầu tiên phục tích, tôi nhận được hàng đoàn cô thần nghiệt tử chúc mừng, về đến cung Dục Khánh, liền nghe thấy lời ca tụng của thầy Trần. Ông vuốt chòm râu bạc, sau cặp kính lão ánh lên vệt sáng lấp lánh thể hiện sự hưng phấn khác thường.
Tuy vậy điều khiến tôi kinh ngạc nhất lại không phải là sự hưng phấn của ông, cũng không phải việc ông tỏ ra đối lập với các vương công trong vấn đề “thân vương quý tộc can dự chính quyền” (Tuy nhiên trực tiếp mạo phạm là cha tôi) mà là sự thể hiện thái độ quyết liệt trong vấn đề xử lý Lê Nguyên Hồng. Trước hết là Lương Đỉnh Phần tự bảo hăng hái đi gặp Lê Nguyên Hồng khuyên ông ta thoái vị (Lương Đỉnh Phần và Lê Nguyên Hồng là thông gia). Không ngờ bị cự tuyệt. Khi trở về, Lương Đỉnh Phần giận dữ báo tin cho Trần Bảo Thám và Chu Ích Phan. Nghe tin này, Trần Bảo Thám cùng Lương Đỉnh Phần và Chu Ích Phan đến cung Dục Khánh, vẻ tươi cười trên nét mặt hoàn toàn biến mất, tím mặt nói với tôi với vẻ mất tự chủ.
- Lê Nguyên Hồng dám cự tuyệt, cự không vâng mệnh, xin hoàng thượng ban cho hắn tự vẫn đi!
Tôi giật mình cảm thấy quá đáng:
- Tôi vừa phục vị đã bắt Lê Nguyên Hồng chết, như vậy chẳng ra sao cả. Dân quốc chẳng phải cũng đã ưu đãi tôi sao?
Đây là lần đầu tiên Trần Bảo Thám bị tôi công khai bác bỏ, trong sự giận dữ đối với kẻ thù khiến ông quên tất cả. Ông hổn hển nói: “Lê Nguyên Hồng không chịu rút lui, còn ở lỳ trong Phủ Thủ tướng, loạn thần tặc tử, nguyên hung đại ác, làm sao có thể hàng ngày sống với Hoàng thượng?”.
Sau đó, thấy tôi tỏ ý kiên quyết, ông không dám kiên trì, đồng ý để Lương Đỉnh Phần lại đến phủ tổng thống tìm cách khuyên ông thông gia rời đi. Lương Đỉnh Phần chưa đi, Lê Nguyên Hồng đã ôm ấn tín tổng thống chạy đến công sứ quán Nhật Bản.
Quân trừng phạt tiến gần thành Bắc Kinh, phục tích đã trở thành thời kỳ giãy giụa.Trần Bảo Thám cùng Vương Sĩ Trân, Trương Huân bàn bạc một biện pháp cuối cùng, quyết định viết một đạo dụ của hoàng đế gửi Trương Tác Lâm, phong ông ta làm tổng đốc Đông tam tỉnh, hạ lệnh cho ông ta hoả tốc tiến về Bắc Kinh cứu vua. Khi đó Trương Tác Lâm là đốc quân Phụng-Thiên, đối với việc Trương Huân cử ông ta một chức Tuần vũ Phụng Thiên là không đủ. Thầy Trần khi đó gửi gắm hy vọng rất lớn đối với Trương Tác Lâm. Đạo dụ viết xong, khi dùng “ấn vua” thì xảy ra vấn đề. Vốn là chìa khoá hòm ấn ở trong tay cha tôi. Nếu cử người đi lấy thì quá mất thời gian. Do đó thầy Trần quyết đoán gọi người đập khoá lấy ra chiếc “ấn khắc “Pháp thiên lập đạo” (đạo dụ cũng chưa gửi đến tay Trương Tác Lâm vì Trương Hải Bằng là người mang thư ra khỏi thành đã bị quân trừng phạt bắt giữ). Tôi có ấn tượng sâu sắc về việc thầy Trần bỗng nhiên biến thành bạo gan quyết đoán như vậy.
Phục tích bắt đầu mấy ngày, mỗi ngày tôi ở cung Dục Khánh một nửa thời gian. Nghỉ học nhưng các thầy nhất định phải gặp vì mỗi việc đều phải nghe theo sự chỉ đạo của các thầy. Thời gian còn lại là xem các đạo dụ đợi phát và “Nội các quan báo”, tiếp nhận mọi người đến lễ bái, hoặc là đi xem kiến thay tổ như trước, gọi thái giám viện Thượng Tứ (40) thả lạc đà ra chơi đùa. Cuộc sống như thế kéo dài bốn, năm ngày thì bom của máy bay quân trừng phạt rơi xuống cung điện, tình thế hoàn toàn thay đổi. Người quỳ lạy không đến nữa, các đạo dụ không có nữa, không thấy bóng dáng phần lớn các đại thần nghị chính, họ vội chạy trốn khắp nơi, chỉ còn lại có Vương Sĩ Trân và Trần Bảo Thám. Hôm máy bay ném bom, tôi đang ngồi nói chuyện với các thầy trong thư phòng, nghe thấy tiếng máy bay và tiếng bom nổ xưa nay chưa từng nghe thấy tôi sợ run bắn người, mặt các thầy cũng không còn hạt máu. Trong một đám hỗn loạn, các thái giám vây quanh tôi gấp rút chạy về điện Dưỡng Tâm, có vẻ như chỉ có nơi đó mới an toàn nhất. Tình hình các thái phi càng tệ hại, có bà trốn vào góc giường nằm, có bà chui vào gầm bàn. Lúc đó tiếng các cung nhân huyên náo, rối loạn. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc xảy ra trận ném bom, lần đầu tiên trong lịch sử nội chiến dùng không quân Trung Quốc. Nếu như đáng nói một chút về tình hình lần đầu tiên phòng không thì đó là: mọi người nấp vào các phòng ngủ của mình, buông hết mành xuống - theo hiểu biết của các thái giám và quân hộ vệ thì đó là biện pháp thông minh nhất. May mắn là lần này, máy bay của quân trừng phạt không phải thực sự tấn công mà chỉ là doạ một chút, chỉ ném ba quả bom nhỏ dài một mét, một quả rơi ngoài của Long Tôn làm bị thương một phu kiệu, một quả rơi trong hồ nước Ngự Hoa viên phá vỡ một góc hồ, quả thứ ba rơi ở mái ngói cửa Long Phúc đường Tây trường không nổ làm cho các thái giám đáng tụ tập đánh bạc ở đó sợ gần chết.
Ngày thứ hai sau khi gửi dụ cho Trương Tác Lâm, trong Tử Cấm Thành nghe thấy tiếng súng đại bác, Vương Sĩ Trân và Trần Bảo Thám đều không đến, trong và ngoài cung mất liên hệ. Sau đó tiếng súng thưa thớt, thái giám phòng tâu việc chuyển đến tin tức báo cáo của Dục Địch Bầm “Hộ quân thống lĩnh”: “quân đội Trương Huân thắng trận, quân đội Đoàn Kỳ Thụy hoàn toàn thất bại rồi! Tin tức này cũng chuyển đến nơi các thái phi. Trong khi nói chuyện, bên ngoài hoàn toàn không còn tiếng súng nữa. Từ lúc đó, mọi người lại tươi tỉnh, những chuyện ma quỷ của các thái giám lại tuôn đổ ra, nào là đức Quan thánh cưỡi ngựa xích thố đẫm mồ hôi, nào là Quan đế hiển thánh cưỡi ngựa xích thố hộ giá Trương Huân mới đánh bại Đoàn Kỳ Thụy... Tôi nghe thấy, vội đến nơi thờ Quan thánh (Quan Công) vuốt ve bức tượng gỗ điêu khắc đó, trái lại thấy sạch bóng. Lúc có thái giám nói, sáng sớm nay, hắn nghe thấy tiếng mũ giáp tinh tinh tang tang ở sân Tây noãn các diện Dưỡng tâm, chắc là Quan thánh đền đó lấy thanh long yển nguyệt đao. Nghe những câu nói đó, các thái phi và tôi đều đến khấu đầu trước điện Khâm An. Tối hôm đó đại gia đình ngủ một giấc yên ổn. Sáng sớm hôm sau, Phủ nội vụ báo đến tin thật: “Trương Huân đã chạy vào sứ quán Hà Lan rồi!”.
Khi đó cha tôi và thầy Trần xuất hiện. Nét mặt các ông xám lại, bơ phờ thất vọng. Tôi nhìn các ông thảo xong chiếu thoái vị, vừa sợ lại vừa đau xót, không nín được tiếng khóc lớn. Dưới đây là nội dung tờ chiếu thoái vị:
“Ngày 20 tháng 5 năm thứ 9 Tuyên Thống:
Kính gửi nội các:
Thượng dụ: trước đây nghe lời tâu của Trương Huân và một số người khác, đất nước xáo động lòng người nhớ cũ, khẩn thiết xin nghe triều chính. Trẫm còn nhỏ, ở lâu trong cung cấm, từ lâu không hiểu quốc kế dân sinh.
Trẫm:
“…Luôn nhớ di huấn, vốn không hề có ý mưu tính thiên. hạ, duy căn cứ lời nói để cứu dân, cứu nước đã nhận lời yêu cầu, tạm thời nghe chính sự, cũng lại do nghe lời tâu trình của Trương Huân, các tỉnh tới tấp ra quân và do tranh giành quyền chính đã dẫn đến binh lửa. Những năm qua, dân ta đau khổ, đã như trong nước bỏng dầu sôi há lại muốn khốn khổ vì lại lâm vào cảnh can qua. Tâm niệm như vậy, trăn trở không yên. Trẫm quyết không muốn cướp chính quyền này khiến cho sinh linh lầm than.
Hiếu định đức dày của Cảnh hoàng hậu giao Vương Sĩ Trân gặp Từ Thế Xương nhanh chóng thông điệp Đoàn Kỳ Thụy, thương lượng làm mọi việc giao tiếp để yên lòng người, tránh nạn binh đao.
Khâm thử.”
Chú thích:
(40) Thượng Tứ là một trong 3 viện của Phủ nội vụ quản lý việc nuôi ngựa, lạc đà... Nguyên chú.