CHƯƠNG III - (3) Chưa hết hy vọng-
Một hôm, tôi cưỡi xe đạp rong chơi trong Ngự Hoa viên, đạp đến một khúc queo hầu như đụng phải một người. Sự việc như thế xảy ra ở trong cung cần phải bị coi là tội thất lễ trước vua, song tôi cũng chẳng để ý. Xe của tôi quành một vòng chuẩn bị quay đi. Không ngờ người đó quỳ xuống không đi, miệng còn nói.
- Kẻ mọn này thỉnh an vạn tuế.
Người này mặc áo khoác màu tím giống như áo thái giám. Nhìn thấy trên mép anh ta có râu lún phún tôi biết không phải là thái giám. Tôi quay một vòng xe hỏi:
- Làm gì?
- Kẻ mọn trông nom đèn điện ạ.
- À, mi làm cái nghề đó, vừa rồi may ta không ngã, coi như mi gặp may, tại sao lại vẫn quỳ đó?
- Kẻ mọn này vận thật may, hôm nay được thấy dung nhan thiên tử. Xin Hoàng thượng mở ơn trời ban cho kẻ mọn này một chút quan tước!
Nghe lời ngu ngốc của hắn tôi cũng vui. Tôi nhớ các thái giám nói với tôi: trên đường phố Bắc Kinh người ta đặt tên đùa cho ăn mày ở đầu Đôn Kiều liền nói:
- Được, phong ngươi là “Trấn Kiều Hầu” (dùng chữ hầu là con khỉ - ND) ha ha...!
Tôi đùa xong trò này cũng không nghĩ rằng con người mơ quan tước này sau đó quả thật đã tìm Phụ nội vụ đòi “báo quan”. Người Phủ nội vụ nói: “Đây là một câu nói đùa, tại sao anh cho là thật?” Anh ta bẳn lên:
- Lời Hoàng thượng là lời vàng ngọc, các ông tại sao dám nói là nói đùa, không được!...
Việc này về sau kết thúc ra sao tôi cũng không biết nữa.
Khi đó, tôi thường nghe thấy các thầy và các thái giám nói: các nơi ở trong nước thường có người hỏi: “Hoàng đế Tuyên Thống ra sao?”. “Hiện nay ai ngồi ở triều đình?”, “Chân long thiên tử ngồi trên ngai, thiên hạ sẽ hưởng thái bình”. Căn cứ một bài trên báo, thầy dạy tiếng Anh của tôi nói: Ngay những người rất phản đối đế chế cùng cảm thấy thất vọng đối với Cộng hòa, có thể thấy những người phản đối đế chế cũng đã thay đổi ý kiến. Thực ra người ta nhớ một chút “thời nhà Thanh trước” chẳng qua là tỏ ý căm thù tai hoạ quân phiệt mà thôi. Các thầy của tôi thu thập những câu nguyền rủa đó làm chứng cho việc lòng người nhớ thủa trước, cũng trở thành tài liệu giáo khoa sử dụng đối với tôi.
Tuy nhiên, trong cuối thời đại Từ Thế Xương cũng thường có thể thấy những người bị mê hoặc. Có một nhà buôn tên là Vương Cửu Thành, phát tài vì may quân trang cho quân đội, ông ta muốn được ban thưởng mặc áo chẽn vàng (áo chẽn ngắn ngoài áo thụng của dân tộc Mãn - ND) đã từng tốn khá nhiều công phu, chi khá nhiều tiền. Các thái giám đặt vụng cho ông ta một biệt hiệu là “tán tài đồng tử”. Không rõ ông ta qua móc ngoặc như thế nào mà dịp tết, ông ta lẫn vào trong các di lão khấu đầu tiến cống. Khi tới mang khá nhiều tiền, đi tới đâu vung tiền tới đấy. Các thái giám rất thích ông ta tới vì dù là dẫn đường hay chuyền gặp, vén rèm pha trà cho đến không có việc gì chỉ đến nói với ông ta vài câu đều có thể nhận được hàng cuộn tiền của ông ta. Còn như việc chi tiền vào các khâu móc nối thì khỏi phải nói. Cuối cùng ông ta thật sự đạt được mục đích, được ban thưởng “vinh dự” mặc áo chẽn màu vàng.
Có áo chẽn vàng ấy để sau này trong gia phả ghi một quan hàm triều Thanh, sau khi chết có một tên hiệu, khi đó hàng ngày đều có người chạy đến Tử Cấm Thành hoặc là từ nơi xa xôi gửi tấu tới Lương Cự Xuyên, biệt hiệu là Lương Phong Tử (thằng Lương điên) không tiếc tính mạng, nhảy xuống hầm nước ở Tích Thuỷ Đàm để đổi lấy một tên hiệu là “Trịnh Thụỵ”. Sau đó, số người xin tên hiệu quá nhiều, không tránh khỏi tổn hại đến sự tôn nghiêm của triều đình nhỏ. Do đó đã quy định hạn chế từ quan tam phẩm trở xuống không ban tên hiệu. Còn như việc ban thưởng cưỡi ngựa trong Tử Cấm Thành, ngồi kiệu hai người khiêng, thưởng viết chữ phúc thọ, câu đối v.v... việc hạn chế càng nghiêm ngặt hơn. Khi đó, không những là vương công đại thần, ngay đến các tướng lĩnh Dân quốc nếu được một trong những loại ban thưởng đó cũng coi là “vinh dự đặc biệt”. Một số quan chức tương đối thấp hoặc chưa có “tiến trình” thời nhà Thanh lại không có nhiều tiền như Vương Cửu Thành không vào được Tử Cấm Thành như loại “thân sĩ” khi ấy ở các nơi, cũng có thể theo đuổi mục tiêu đó là xin các di lão “điểm chủ” vào bài vị khi chết, khắc bia trên núi, là người làm chứng trong hôn lễ của con cái. Tại Thượng Hải, một bà người dân tộc Mãn, lấy chồng người Do Thái quốc tịch Anh, với lễ nghi long trọng đã mời Lưu Xuân Lâm, vị trạng nguyên cuối triều Thanh tới Thượng Hải, đặc biệt làm cho ông ta một chiếc kiệu lớn 8 người khiêng, đề nghị ông ta mặc triều phục nhà Thanh để điểm chủ cho bài vị của ông chồng đã mất. Khi đó, một số người gọi là văn nhân mới như Hồ Thích, Giang Khang Hổ... cũng có những hành động tương tự.
Năm tôi mười lăm tuổi, qua nói chuyện với Johnston, biết rằng có ông tiến sĩ Hồ Thích để xướng văn chương bạch thoại. Vì tính hiếu kỳ muốn tìm hiểu suy nghĩ của ông này, tôi gọi điện thoại cho ông. Không ngờ ông ta đến ngay. Về cuộc gặp gỡ này, tôi sẽ nói sau. Ở đây tôi chỉ nói đến việc sau cuộc gặp gỡ vô bổ đó, qua bức thư Hồ Thích gửi Johnston, tôi phát hiện vị tiến sĩ Tây này cũng có tâm tình như các vị di lão. Thư của ông ta có đoạn viết:
“Tôi không thể không thừa nhận, tôi rất cảm động trước cuộc triệu kiến này. Khi đó, tôi đã có thể giữ một vị trí trước một vị hoàng đế cuối cùng của nước ta - vị đại biểu cuối cùng của nền quân chủ qua các triều đại”.
Quan trọng hơn là Tử Cấm Thành đã được cổ vũ qua dư luận của người nước ngoài. Johnston đã thông báo cho tôi nhiều tin tức về mặt này. Theo ông, rất nhiều người nước ngoài cho rằng phục tích là nguyện vọng của người Trung Quốc nói chung. Có lúc ông mang báo chí ngoại văn đến đọc cho tôi nghe. Sau đó ông chép một đoạn đưa vào tác phẩm “Hoàng hôn ở Tử Cấm Thành”. Đây là một đoạn xã luận nhan đề “Phải chăng một cuộc phục tích mới lại sắp xảy ra” của tờ “Bưu điện Hoa Bắc hàng ngày” ở Thiên Tân số ra ngày 19 tháng 9 năm 1919:
“Quá trình trải qua của Chính phủ cộng hoà là bi thảm và đau xót. Ngày nay chúng ta thấy, Nam Bắc đang diễu võ dương oai, tình hình đó chỉ có thể dẫn đến kết luận: Ở Trung Quốc, qua thực nghiệm đã phát hiện chính thể cộng hoà có khuyết điểm. Những phần tử trung kiên của đất nước này - tầng lớp thương nhân và thân sĩ - rất căm ghét chiến tranh nồi da nấu thịt. Chúng ta tin rằng, chúng ta nhất định sẽ hết lòng ủng hộ bất cứ hình thức chính phủ nào, chỉ cần chính phủ đó đảm bảo thái bình cho 18 tỉnh là được.
Không nên quên rằng, đảng Bảo hoàng là đảng có thế trận vững mạnh. Từ trước tới nay họ bất mãn với chính thể cộng hoà. Song do nguyên nhân này khác, mấy năm gần đây họ giữ im lặng. Rõ ràng là, họ đồng tình hành động của quân phiệt, họ có một số nhân sĩ vẫn từng lui tới những nơi quân nhân hội họp, điều đó không phải không có ý nghĩa.
Luận điểm của những người ngầm tán đồng và hy vọng cựu hoàng đế phục tích thành công là những người cộng hoà đang phá hoại đất nước này. Vì vậy cần tiến hành những biện pháp - thậm chí những biện pháp mạnh mẽ để khôi phục cảnh tượng phồn vinh của ngày trước. Phục tích đế chế quyết không được hoan nghênh về nhiều mặt, trái lại còn có thể gặp sự chống đối tương đối lớn về mặt ngoại giao, không chỉ là một công sứ quán phản đối. Tuy nhiên chỉ cần Chính phủ thành công sẽ khiến sự chống đối đó mất đi, vì chúng ta biết rằng: được làm vua, thua làm giặc.
Đương nhiên, dù báo chí của người nước ngoài có biết bao lời cổ vũ như thế, trực tiếp quyết định an nguy và hoạ phúc tiền đồ của triều đình nhỏ vẫn là những quân nhân cầm súng. Đúng như tờ “Bưu điện Hoa Bắc hàng ngày” đã nói: “Lui tới những nơi quân nhân tập hội, điều đó không phải là không có ý nghĩa”. Tôi nhớ cuối năm đó (năm 1919) sự giao thiệp giữa triều đình nhỏ ở Tử Cấm Thành với các quân nhân ngoài hệ Bắc Dương cũ càng thêm mật thiết. Đối tượng thứ nhất là sứ giả của Trương Tác Lâm, thủ lĩnh hệ Phụng Thiên.
Mới đầu, Tử Cấm Thành nhận được một khoản tiền bán giúp trang viên tài sản hoàng gia do cha tôi nhận và chuyển vào. Cha tôi viết thư cảm ơn, sau đó Phủ nội vụ chọn hai loại đồ cổ một là bức tranh “Ngự chế đề vịnh Đổng Bang Đạt đạm nguyệt hàn lâm đồ” (bức tranh Rừng lạnh trăng suông của Đổng Bang Đạt có chữ đề của vua), một vật khác là một đôi lọ sứ Càn Long, lấy danh nghĩa cha tôi tặng Trương Tác Lâm và do Đường Danh Thịnh, chuyên sai hàng tam phẩm trực tiếp đưa tới Phụng Thiên. Trương Tác Lâm cử Trương Cảnh Huệ, người anh em kết nghĩa lúc đó là phó tổng tư lệnh quân Phụng Thiên, sau này là thủ tướng quốc vụ ngụy quyền Mãn Châu đi cùng Đường Danh Thịnh về Bắc Kinh cảm ơn cha tôi. Từ đó thay mặt triều đình nhỏ, Thuần Vương phủ và quân Phụng Thiên có sự qua lại ngấm ngầm khi Trương Huân phục tích, có 3 tướng lĩnh quân Phụng Thiên (Trương Hải Bằng, Phùng Lâm Các, Dương Ngọc Lâm) thân tín đến Bắc Kinh tham gia phục tích nay lại có Trương Cảnh Huệ, Trương Tôn Xương được ban thưởng cưỡi ngựa trong Tử Cấm Thành. Khi đó Trương Tôn Xương là Sư trưởng quân Phụng Thiên, khi cha ông ta làm lễ đại thọ 80 tuổi ở Bắc Kinh, cha tôi đã đích thân tới chúc mừng. Năm thứ 9 Dân quốc trong cuộc chiến tranh Trực - Hoản, quân Trực liên hợp với quân Phụng đánh bại quân Hoản, thủ lĩnh quân Trực (Phùng Quốc Chương đã chết) Tào Côn và thủ lĩnh quân Phụng Trương Tác Lâm sau khi vào Bắc Kinh, Thiệu Anh, đại thần Phủ nội vụ đi đón. Thuần Vương Phủ cũng bận rộn về giao thiệp vì một dạo nghe nói Trương Tác Lâm muốn vào cung thỉnh an. Để chuẩn bị đồ ban thưởng, đại thần Phủ nội vụ đặc biệt đến Thuần Vương Phủ họp bàn kết quả quyết định: ngoài những thứ đã định, thêm vào một thanh đao cổ. Tôi nhớ Trương Tác Lâm không đến lại quay về Phụng Thiên. Hai tháng sau, một Bối lặc trẻ nhất Thuần Vương Phủ được làm cố vấn của Trương Tác Lâm theo ông ta đến Phụng Thiên. Quân Hoản thất bại, thời kỳ quân Phụng-Trực hợp tác, Hội quán Phụng Thiên ở Bắc Kinh thành nội tụ họp của tướng lĩnh quân Phụng. Ngay Trương Văn Trị, tổng quản Thuần Vương Phủ cũng là khách thường xuyên của nơi này và ở đó đã kết nghĩa anh em với Trương Cảnh Huệ.
Trong hai năm đó, tình hình cũng giống như thời kỳ trước khi Trương Huân phục tích. Lời đồn về phục tích lan truyền khắp nơi. Dưới đây là một tin phát từ Phụng Thiên trên tờ “Đạo báo” tiếng Anh ngày 27 tháng 12 năm thứ tám Dân quốc (cũng tức là sau hai tháng người Thuần Vương Phủ đến Phụng Thiên trao tặng phẩm và cùng Trương Cảnh Huệ về Bắc Kinh):
“Mấy ngày gần đây, trong các giới nhân sĩ ở Thẩm Dương đặc biệt là trong đám tay chân của tướng Trương Tác Lâm, loan truyền một loại tin đồn, nói sẽ khôi phục đế chế ở Bắc Kinh thay chính phủ Dân quốc. Căn cứ các kiểu dự đoán hiện nay lần đế chế này do Trương tướng quân phát động, có sự hợp tác của hoàng tộc và những người lãnh đạo quân sự của Tây Bắc, tướng Trương Huân trước cũng có tác dụng quan trọng... tức là thậm chí đến tổng thống Từ Thế Xương và nguyên tổng thống Phùng Quốc Chương trước nguy hiểm của tình hình đất nước và từ bên ngoài hiện nay cũng đều đồng ý khôi phục đế chế. Còn như Tào Côn, Lý Thuần cũng như những quân nhân thứ yếu khác, để họ giữ địa vị hiện có và thêm tước vương công cũng sẽ thoả mãn...”
Biết tin này Johnston, thời gian hơi muộn. Tôi vẫn còn nhớ ông ta đồng thời còn nói về những truyền thuyết về hoạt động phục tích của Trương Tác Lâm, đại thể những loại tin này được truyền bá đến năm thứ 11 Dân quốc, tức là đến khi Trương Tác Lâm thất bại quay về Đông Bắc mới thôi. Đối với loại tin tức nới trên, ấn tượng của tôi rất sâu sắc khiến tôi từ đáy lòng cảm thấy vui mừng, qua đó tôi cũng hiểu rõ vì sao thủ lĩnh quân Phụng nhiệt thành với Tử Cấm Thành đến thế, vì sao khi Đoan Khang mất, Trương Cảnh Huệ đứng cúi đầu trong hàng ngũ các đại thần, vì sao người ta nói Hội quán Phụng Thiên vô cùng nhộn nhịp, một số vương công hăng hái phấn chấn như thế. Tuy nhiên, sự vui mừng của chúng tôi không giữ được lâu. Những việc không vui kéo tới: sự hợp tác của quân Trực - Phụng đột nhiên tuyên cáo tan vỡ, hai bên nổ súng bắn nhau, kết quả quân Phụng thất bại, chạy khỏi Sơn Hải Quan.
Những tin tức khiến người ta lo lắng liên tiếp đến. Từ Thế Xương bỗng nhiên sụp đổ, quân Trực thống trị Bắc Kinh, Lê Nguyên Hồng bị hạ bệ thời kỳ Trương Huân phục tích làm tổng thống lần thứ hai. Trong Tử Cấm Thành xảy ra những kinh hãi mới. Các vương công đại thần yêu cầu Johnston mang tôi đến tỵ nạn ở sứ quán Anh thu xếp một số phòng ở công sứ quán Anh để khi cần tôi có thể là khách riêng của Johnston đến ở nơi đó. Đồng thời cùng còn thương lượng với Công sứ quán Bồ Đào Nha và Hà Lan có thể dung nạp những người khác trong hoàng thất đến tỵ nạn. Cách suy nghĩ của tôi khác với họ. Tôi cho rằng trốn tránh trong sứ quán nước ngoài chẳng bằng đi ra nước ngoài. Tôi nêu ra với Johnston, yêu cầu ông lập tức mang tôi ra nước ngoài. Vì tôi đột nhiên tìm ông ta đến và nêu ra cho nên ông thầy người Anh này sững người, hầu như không kịp suy nghĩ đã trả lời tôi: “Như vậy không nên, xin bệ hạ hẵng bình tĩnh suy xét. Từ Tổng thống vừa chạy khỏi Bắc Kinh, hoàng đế bệ hạ lập tức biến mất khỏi Tử Cấm Thành, điều đó có thể dẫn tới sự liên tưởng nói rằng Từ Thế Xương có âm mưu gì với nhà Thanh. Lại nói, trong tình hình đó nước Anh cũng không thể đón tiếp bệ hạ”.
Khi đó tôi cũng không đủ trình độ liên tưởng như vậy, vì mọi người chưa hề nói với tôi về quan hệ giữa Trương Tác Lâm và Từ Thế Xương cũng như những việc xảy ra trong quan hệ bí mật giữa hai người và triều đình nhỏ, đương nhiên càng không thể nghĩ tới cuộc chiến tranh Trực-Phụng nổ ra và mối quan hệ thắng bại của cuộc chiến tranh này với khu sứ quán nước ngoài. Khi đó, vừa nghe thấy yêu cầu của tôi không thể thực hiện được chỉ còn biết bỏ qua. Sau đó, thời cuộc ổn định lại, không có ai còn nêu ra việc ra nước ngoài, ngay vấn đề tỵ nạn cũng không nêu ra nữa.
Đó là việc giữa mùa xuân và mùa hè năm thứ 11 Dân quốc. Năm sau, thủ lĩnh quân Trực Tào Côn dùng biện pháp chi 5.000 đồng mua một lá phiếu bầu, lôi kéo được các nghị viên bầu ông ta làm tổng thống. Sự khiếp sợ của triều đình nhỏ đến với vị thủ lĩnh phái Trực này vừa tiêu tan lại nảy sinh sự thích thú đối với một vị thủ lĩnh khác danh vọng ngày càng cao của phái Trực là Ngô Bội Phu. Sau đó, Trịnh Hiếu Tế đến cạnh tôi, đã có lúc hiến kế sách cho tôi nói rằng Ngô Bội Phu là quân nhân rất có hy vọng. Ông ta tự cho mình là Quan Vũ (Quan Vân Trường - ND), có lòng với xã tắc đại Thanh, rất có khả năng đi du thuyết. Năm đó, Ngô Bội Phu mừng thọ 50 tuổi ở Lạc Dương. Được sự đồng ý của tôi, Trịnh Hiếu Tế mang một lễ hậu hĩnh đến mừng thọ. Song thái độ của Ngô Bội Phu lấp lửng, không biểu thị rõ ràng. Sau đó Khang Hữu Vi lại đến thuyết phục ông ta cũng không nhận được sự trả lời khẳng định. Sự thật là thời kỳ đắc ý của Ngô Bội Phu cũng quá ngắn ngủi, tức là sau một năm ông ta mừng thọ đã nổ ra chiến tranh giữa hai phái Trực-Phụng, Phùng Ngọc Tường, bộ hạ của Ngô Bội phu đã “quay giáo” tuyên bố hoà bình, kết quả Ngô Bội Phu thất bại đổ sụp; tôi cũng ngồi không vững trong Tử Cấm Thành, bị quân Quốc dân của Phùng Ngọc Tường đuổi đi.
Trong mấy năm dâu biển trước khi tôi kết hôn, sự thay đổi tâm tư của các vương công đại thần trong triều đình nhỏ hoàn toàn không giống nhau. Biểu hiện tiêu cực nhất là Thế Tục, đại thần Phủ nội vụ. Bắt đầu từ phục tích Đinh Tỵ, ông ta ngày càng mất tinh thần, sau đó trở thành người hoàn toàn bi quan chán nản. Thậm chí ông ta đã nói với người khác rằng dù phục tích có thành công, đối với tôi cũng chẳng hay ho gì vì những vương công trẻ tuổi ngu ngốc nhất định lại gây rối loạn còn lớn hơn nam Tân Hợi. Ông ta lại nói: “Dù cho vương công không gây loạn, vị hoàng đế này cũng không tự bảo vệ được mình”. Chủ trương của ông ta là để tôi kết thân với vương công Mông Cổ để khi cần thiết chạy đến sống ở nhà bố vợ. Thế Tục chết khoảng một năm trước khi tôi kết hôn. Một năm trước khi chết, do ốm đau nên không làm việc nữa. Thay ông ta là Thiệu Anh, kiến thức Thiệu Anh không bằng người tiền nhiệm của ông ta. Cẩn thận, nhút nhát sợ việc sẽ có sai lầm. Tư tưởng Thiệu Anh chỉ có lùi để giữ chứ không có mưu toan tiến thủ. Ông ta muốn giữ “điều kiện ưu đãi” vì giữ vững được điều này tức là giữ vững được mọi thứ của ông ta từ tài sản tính mạng đến quan tước. Ông ta trước hết từ con người Johnston thấy được tác dụng bảo hiểm này, ông ta cho người nước ngoài ở những nhà bỏ không của mình không lấy tiền, chứ không cho người Trung Quốc thuê với giá cao.
Ở giữa các vương công trẻ tuổi và các dại thần già nua của Phủ Nội vụ là thầy Trần Bảo Thám. Ông không bi quan như Thế Tục, cũng không như Thiệu Anh, ngoài giữ vững điều kiện ưu đãi không còn nghĩ đến việc gì khác; cũng không cảm thấy thích thú đám quân nhân như các vương công trẻ. Ông cũng không phản đối việc liên hệ với đám quân nhân, thậm chí tự đến thăm hỏi Phùng Ngọc Tường. Điều mà ông hy vọng là đám quân nhân đánh nhau, cuối cùng Dân quốc sụp đổ, xuất hiện cục diện “Trời và người cùng quay về”.
Vì vậy sau thất bại của Trương Huân, ông luôn luôn giảng cho tôi câu nói của Mạnh tử: “Trời đã trao nhiệm vụ lớn lao cho người thì trước hết phải lao tâm khổ chí, suy vi thân thể, việc làm không rối loạn, sao cho chuyển động tâm tư, nhẫn nại tính tình, tăng cường khả năng thực hiện những điều khó thực hiện.
Trần Bảo Thám vốn là linh hồn duy nhất của tôi, song từ khi Johnston đến, tôi lại thêm một linh hồn nữa.