← Quay lại trang sách

CHƯƠNG III - (5) Xung đột nội bộ -

Từ sau khi Johnston vào cung, đối với các vương công, đại thần, tôi trở thành vị hoàng đế rất khó ứng phó. Cho tới trước khi tôi cưới vợ, những ước mơ và hành động của tôi càng khiến họ cảm thấy kỳ lạ và lo lắng kinh hãi.

Hôm nay tôi gọi phủ Nội vụ mua một viên kim cương 3 vạn đồng, ngày mai lại mắng phủ Nội phủ chả biết làm việc gì, chỉ biết tham ô lãng phí. Buổi sáng tôi triệu tập đại thần, ra lệnh cho họ thanh tra tranh cổ, đồ cổ và tâu lên trong ngày, buổi chiều lại gọi chuẩn bị xe đi chơi Hương Sơn. Tôi tỏ ý chán ghét cảnh xếp hàng nghi trượng thậm chí không muốn ngồi kiệu vàng. Để dễ dàng phóng xe đạp tôi gọi người dỡ bỏ bậu cửa, khung cửa mà từ mấy trăm năm qua tổ tiên tôi không cảm thấy bất tiện. Chỉ vì một việc nhỏ, tôi có thể kết tội thái giám bất trung, tuỳ tiện gọi Phòng tâu việc đánh đập, thay đuổi họ. Thần kinh của các vương công, đại thần căng thẳng nhất là tôi lúc thì đòi chỉnh đốn nội bộ cung đình, lúc thì tuyên bố sẽ rời Tử Cấm Thành ra nước ngoài du học.

Về vấn đề ra nước ngoài du học, có một số vương công đại thần còn nghĩ sớm hơn tôi, đó vốn là một trong những động cơ mời thầy nước ngoài dạy tôi. Sau khi tôi tự đưa ra chủ trương này thì hầu như mọi người đều phản đối. Trong các lý do của những người phản đối, tôi thường nghe nhất là câu này: “chỉ cần Hoàng thượng rời Tử Cấm Thành, coi như từ bỏ sự ưu đãi của Dân quốc. Dân quốc đã không thủ tiêu quyền ưu đãi tại sao mình lại tự bỏ trước”.

Dù là đồng tình hay phản đối việc tôi ra nước ngoài dù là đã tuyệt vọng trong việc “khôi phục sự nghiệp tổ tiên” hay vẫn còn hy vọng, đều không thể tách rời điều kiện ưu đãi đó. Mặc dù “4 triệu lạng bạc chi tiêu” quy định trong điều khoản ưu đãi biến thành lời hứa suông nhưng vẫn có điều “tôn hiệu đế vương vẫn giữ mà không phải huỷ bỏ” chỉ cần tôi ở lại Tử Cấm Thành, giữ được triều đình nhỏ này là rất quan trọng đối với những người chưa hết niềm tin khôi phục sự nghiệp của tổ tiên; đối với những người đã tuyệt vọng vẫn có thể giữ được bát cơm và địa vị đã có.

Cách nghĩ của tôi khác họ. Trước hết tôi không tin rằng điều kiện ưu đãi có thể giữ được mãi mãi. Không những thế, so với bất cứ ai khác, tôi càng cảm thấy rõ mối nguy hiểm đối với mình, từ sau khi nội chiến mới lại nổ ra, Trương Tác Lâm thất bại rút ra ngoài, Từ Thế Xương sụp đổ, Lê Nguyên Hồng lại nắm quyền tôi cảm thấy mối nguy hiểm bỗng nhiên tới gần. Tôi chỉ nghĩ đến nhà cầm quyền mới có thể hại tôi hay không chứ không phải nghĩ vấn đề ưu đãi hay không ưu đãi. Huống chi, khi đó lại lan truyền tin một số nghi sĩ quốc hội chủ trương thủ tiêu quyền ưu đãi. Trong chính cuộc hỗn loạn, ai biết rằng ngày mai quân nhân nào nắm quyền, ngày kia chính khách nào lập nội các. Từ nhiều mặt, đặc biệt là từ miệng thầy Johnston tôi đã hiểu rõ mọi sự thay đổi chính cuộc đó không lần nào không có tác động trực tiếp của các cường quốc ở phía sau. Vậy tại sao không trực tiếp đi tìm người nước ngoài mà cứ ngồi đợi ưu đãi của nhà cầm quyền mới? Nếu như nhân vật thù địch tôi lên cầm quyền mới tìm cách đối phó thì có kịp không?

Tôi tranh luận với các vương công, đại thần:

“Tôi không cần ưu đãi, tôi muốn để dân trăm họ và các nước trên thế giới đều biết, tôi không muốn dân quốc ưu đãi tôi, tốt hơn là để họ thủ tiêu trước quyền ưu đãi”.

“Điều kiện ưu đãi treo ở phủ, các nước công nhận Dân quốc chưa thủ tiêu, nước ngoài nhất định giúp chúng ta nói chuyện”.

“Người nước ngoài giúp chúng ta, tại sao các người không để tôi ra nước ngoài?”.

Mặc dù tôi nói rất có lý, họ vẫn không đồng ý. Đã mấy lần tôi tranh luận với cha tôi, thầy dạy tôi và các vương công, chỉ đạt hiệu quả là: họ gấp rút tổ chức “đám cưới lớn”.

Sở dĩ tôi gấp rút muốn ra nước ngoài, ngoài những lý do đã nói với các vương công, đại thần, còn có một điều tôi không hề nói với họ, đặc biệt là không dám nói với cha tôi, đó là tôi càng ngày càng chán ghét mọi thứ xung quanh tôi kể cả bản thân ông.

Điều này nảy sinh từ trước khi tôi có ý định ra nước ngoài. Từ khi Johnston vào cung, do ông ta truyền bá trí thức và văn minh phương Tây cho tôi, do tâm lý hiếu kỳ của tuổi trẻ phát triển, tôi ngày càng không hài lòng với hoàn cảnh của tôi, cảm thấy mình bị trói buộc. Tôi rất đồng ý với phân tích của Johnston: đó là do các vương công, đại thần lạc hậu thủ cựu.

Dưới con mắt của các vương công, đại thần, mọi thứ mới mẻ đều đáng sợ. Năm tôi 15 tuổi, Johnston phát hiện mắt tôi có khả năng cận thị, đề nghị mời bác sĩ mắt nước ngoài tới khám mắt cho tôi, nếu đúng như thế sẽ mua kính cận. Không ngờ đề nghị đó như đổ nước vào thùng dầu sôi, Tử Cấm Thành như muốn nổ tung ra. Không thể được! Tại sao có thể gọi người nước ngoài khám mắt của hoàng đế? Hoàng thượng đang tuổi thanh xuân, tại sao có thể đeo kính như ông già? Từ thái phi đến mọi người đều không đồng ý. Sau đó, Johnston phải tốn công giải thích, thêm vào đó là tôi kiên trì đòi thực hiện mới được giải quyết.

Mọi thứ tôi muốn, dù là thứ mà các vương công đại thần đã có từ lâu, họ vẫn cứ phản đối, điều đó càng khiến tôi tức giận; ví dụ như đặt máy điện thoại.

Năm tôi mười lăm tuổi, có lần nghe Johnston nói về,tác dụng của điện thoại, đã kích động tính hiếu kỳ của tôi. Sau đó, nghe Phổ Kiệt nói: Bắc phủ (nơi ở của cha tôi khi đó) cũng có thứ đồ chơi này, tôi liền gọi Phủ nội vụ đặt cho tôi một máy ở điện Dưỡng Tâm. Nghe tôi giao nhiệm vụ, Thiệu Anh, đại thần Phủ Nội vụ mặt biến sắc. Tuy nhiên trước mặt tôi, ông ta không dám từ chối, chỉ “vâng” một tiếng rồi đi. Ngày hôm sau, các thầy dạy đều kéo đến can:

- Đặt máy điện thoại, ai cũng có thể nói chuyện với Hoàng thượng, tổ tiên chưa làm thế bao giờ... tổ tiên không dùng những thứ kỳ quái phóng đãng ấy của phương Tây.

Tôi cũng có lý lẽ của tôi: “Đồng hồ chuông, dương cầm, đèn điện trong cung đều của phương Tây, tổ tiên chưa hề có, chẳng phải là tổ tiên cũng dùng đó sao?”

“Bên ngoài tuỳ tiện gọi điện thoại, mạo phạm thiên nhan, há chẳng làm mất sự tôn nghiêm sao?”

“Mạo phạm cửa bên ngoài, tôi đã đọc nhiều báo, mắt thấy và tai nghe chẳng phải như nhau sao?

Khi đó, ngay các thầy dạy cũng không hiểu rõ Phủ nội vụ mời họ đến can vua là có ý gì. Phủ nội vụ sợ nhất không phải là “mạo phạm thiên nhan” mà sợ qua điện thoại, tôi sẽ càng tiếp xúc nhiều hơn với bên ngoài. Bên cạnh tôi là một Johnston hay nói đặc biệt là 12 loại báo chí đã quá sức chịu đựng của họ rồi. Đọc báo chí Bắc Kinh khi đó, hầu như mỗi tháng ít nhất có một lần tuyên bố của Phủ nội vụ bác bỏ tin bịa đặt, không phải là phủ nhận nhà Thanh giao thiệp với một nhà đương cục tỉnh nào đó cũng là phủ nhận nhà Thanh gần đây gán nợ hoặc bán vụng cổ vật nào đó. Trong 10 điều đồn đại bị phủ nhận đó có 9 điều là sự thật, ít nhất có một nửa họ không muốn để tôi biết. Có những báo chí ấy, lại thêm một Johnston từ lâu đã khiến họ bối rối nay lại thêm một máy diện thoại làm nhịp cầu thứ ba giữa tôi và bên ngoài há chẳng khiến họ lúng túng hơn sao? Vì vậy họ kịch liệt phản đối thấy các thầy không thuyết phục được tôi, họ mời cha tôi tới.

Khi đó cha tôi đã trở thành phái triệt để duy trì hiện trạng, chỉ cần tôi cứ ở yên trong Tử Cấm Thành, mỗi năm ông được lĩnh 42.480 lạng bạc, mọi thứ đều đầy đủ. Vì vậy ông là người dễ bị Phủ nội vụ lôi kéo nhất. Song người ủng hộ Phủ nội vụ lại không có tài nói mà họ mong đợi. Ngoài việc nhắc lại những lời các thầy dạy, ông không có lý lẽ nào mới để thuyết phục tôi và khi tôi hỏi lại một câu thì ông không trả lời được.

- Vương phủ của cha chẳng dùng một máy điện thoại đó sao?

- Là, là, nhưng mà, nhưng mà hoàng đế khác, việc này hai ngày nữa lại lại nói....

Nghĩ đến việc ông cắt bím tóc sớm hơn tôi, đặt máy điện thoại trước tôi, không cho tôi mua xe ô tô nhưng ông lại mua, tôi rất bực bội trong lòng.

- Tại sao hoàng đế lại khác? Ngay điều tự do ấy tôi cũng không có. Không được, tôi cần có máy điện thoại. Tôi quay gọi thái giám: “truyền Phủ nội vụ hôm nay đặt máy điện thoại cho ta”.

- Vâng, vâng, - cha tôi gật đầu lia lịa; - vâng vâng sẽ đặt.

Điện thoại được đặt lại xảy ra rắc rối mới.

Cùng với máy điện thoại, cục điện thoại gửi đến một danh bạ điện thoại. Tôi cứ theo danh bạ, gọi đến khắp nơi để đùa chơi; có lần bịa địa chỉ gọi một khách sạn đặt tiệc... cũng quá vui đùa trên điện thoại, tôi đã nói chuyện với Hồ Thích (41) và sau đó đã mời Hồ Thích vào cung, tiếp chuyện 20 phút. Buổi tiếp “nhân vật mới” này gây náo động, tranh cãi trong cung đình. Tuy nhiên đỉnh cao của cuộc xung đột giữa tôi với vương công đại thần là khi chính thức đòi đi học ở nước Anh.

Việc này khác với đặt máy điện thoại. Vương công đại thần quyết không nhượng bộ. Cuối cùng, những người rất đồng tình với tôi là chú bảy Tải Đào cũng chỉ đồng ý chuẩn bị một nơi ở cho tôi trong tô giới Anh ở Thiên Tân làm nơi vạn nhất khi cần có thể đến lánh mình. Do không có khả năng công khai rời khỏi Tử Cấm Thành, tôi bèn tìm sự giúp đỡ của Johnston. Ông cho rằng thời cơ chưa thích hợp, không đồng ý tôi hành động lúc đó.

Do đó tôi đành nén lòng chờ đợi thời cơ đồng thời bí mật tiến hành chuẩn bị cho việc trốn đi. Khi đó, tôi có một người hết lòng sẵn sàng giúp đỡ, đó là Phổ Kiệt, em trai tôi.

Tôi và Phổ Kiệt khi đó là một đôi anh em tâm đắc, tính tình và ước vọng của chúng tôi còn giống hơn diện mạo của chúng tôi. Em tôi cũng một lòng một dạ sẵn sàng rời bỏ gia đình của mình, cao chạy xa bay tìm lối thoát cho mình, cho rằng mọi mong muốn của mình, đến nước ngoài đều có thể thoả mãn. Dưới đây là một đoạn em tôi ghi chép về bản thân:

“Năm tôi mười hai tuổi, gia đình tôi là Vương Phủ có mấy trăm gian nhà, một vườn hoa lớn từ 70 đến 80 người hầu hạ. Trong nhà luôn luôn sử dụng niên hiệu Tuyên Thống, vào ngày lễ tết vẫn công nhiên mặc triều phục nhà Thanh... Nước Anh diệt Ấn Độ, vương hầu Ấn Độ đến nay vẫn đời đời thế tập. Nhật Bản thôn tính Triều Tiên, một nhà Lý Vương hiện vẫn là điện hạ…” cha tôi thường nói với tôi như thế. Trước khi chết mẹ tôi thường bảo tôi: “sau khi lớn lên, con hãy hết sức giúp đỡ anh con, dù thế nào cũng đừng quên mình là con cháu Ái Tân Giác La, như thế mới là phải đạo với mẹ”...

Phổ Kiệt kém tôi một tuổi, hiểu biết xã hội bên ngoài phong phú hơn tôi, quan trọng nhất là hắn hoạt động bên ngoài, chỉ cần vin cớ vào cung là có thể che dấu người nhà. Bước hành động đầu tiên là chúng tôi chuẩn bị kinh phí. Phương pháp là lấy danh nghĩa thưởng cho Phổ Kiệt, mang những tranh cổ, đồ cổ, sách cổ đáng giá nhất trong cung chuyển ra ngoài, cất tại nơi ở trong tô giới Anh ở Thiên Tân. Mỗi ngày đi học về Phổ Kiệt mang đi một bao lớn. Liên tục trong nửa năm, Phổ Kiệt đã chuyển ra ngoài 1000 tranh cổ, hơn 200 loại đồ cổ, trên dưới 200 quyển sách đời Tống trong đó có những thứ cực kỳ quý giá như bức tranh “Bia Tào Nga” của hai cha con Vương Nghị Chi và Vương Hiến Chi; tranh “Trường Giang vạn lý đồ” của Tống Mã Viễn, Hạ Khuê và Mã Lân. Sách có các tác phẩm của Diêm Lập Bản, Tống Huy Tôn và toàn bộ sách đời Tống ở Cung Cấm Thanh.

Năm 13 Dân quốc, tôi ra khỏi cung “uỷ ban xử lý công việc nhà Thanh”, khi kiểm tra cung Dục Khánh phát hiện việc “Thưởng Phổ Kiệt” in ra và công bố, trong đó nói khá đầy đủ những thứ đã được đưa ra ngoài cung. Những thứ này chuyển đến Thiên Tân, sau đó bán đi mấy chục cái. Sau khi thành lập Ngụy-Mãn, Yoshioka, tham mưu quân Quan Đông lại chuyển toàn bộ những thứ quý giá đó đến Đông Bắc. Sau khi Nhật Bản đầu hàng, không rõ những thứ đó ở đâu nữa.

Kế hoạch bước hai của chúng tôi là bí mật chuồn ra khỏi Tử Cấm Thành. Chỉ cần bản thân tôi ra khỏi thành, vào công sứ quán nước ngoài thì coi như ván đã đóng thuyền, dù vương công đại thần hay nhà đương cục Dân quốc đều sẽ không có cách gì nữa. Đây là sự hiểu biết cần thiết mà lịch sử Dân quốc mấy năm qua đã cho tôi; càng quan trọng hơn là thầy Johnston đã bày cách cho tôi một cách cụ thể. Ông bảo tôi trước hết hãy liên hệ tốt với công sứ Hà Lan W. J. Oudendijk, trưởng đoàn công sứ để họ có sự chuẩn bị trước. Thầy Johnston gợi cho tôi ý này đã là tháng ba năm thứ 12 Dân quốc. Chín tháng trước đó ông ta từng phản đối tôi ra nước ngoài, cho rằng chưa đúng thời cơ. Nay vì sao ông ta cho rằng thời cơ đã đến cũng như ông đã thương lượng với các công sứ quán ở Đông Giao Dân cảng như thế nào, tôi hoàn toàn không biết. Từ sự chỉ dẫn của ông, tôi rất tin tưởng. Trước hết tôi đề nghị ông thay tôi đến thông tin với chỗ công sứ. Sau đó tôi sẽ trực tiếp gọi điện thoại cho công sứ Oudendijk. Để công việc được sắp xếp thoả đáng, tôi lại cử Phổ Kiệt đích thân đến công sứ quán Hà Lan một chuyến. Kết quả mọi việc đều hài lòng. Oudendijk qua điện thoại nhận lời tôi và đích thân sắp đặt cùng Phổ Kiệt. Tuy ông không thể lái xe ô tô tiến vào cung nhưng sẽ đợi ở cửa ngoài Thần Vũ. Chỉ cần tôi có thể lọt qua cửa lớn này thì mọi việc tôi sẽ xong, từ việc ăn ở ngày đầu tiên đến việc tôi đặt chân lên đất Anh, vào cửa lớn trường học nước Anh ông cũng có thể hoàn toàn phụ trách. Khi đó, chúng tôi đã quy định ngày giờ cụ thể tôi ra khỏi cung.

Cho đến ngày 25 tháng hai năm thứ 12 Dân quốc (1923) chỉ còn một vấn đề là làm thế nào ra khỏi cửa Thần Vũ. Tình hình Tử Cấm Thành là như sau: bên cạnh tôi luôn có một đám thái giám; các cửa cung cũng có thái giám, bên ngoài cung đình có các vọng gác của quân bảo vệ, ngoài cửa Thần Vũ còn có “Đội bảo vệ nội thành” do bộ binh Dân quốc chỉ huy. Tôi cho rằng: quan trọng nhất là đám thái giám chúng luôn bên cạnh tôi, chỉ cần cho ít tiền là xong. Nào ngờ, trước thời gian dự định một giờ đồng hồ, một thái giám nhận tiền đã bí mật báo Phủ nội vụ. Tôi chưa ra khỏi điện Dưỡng Tâm đã nghe cha tôi ra lệnh: cấm không cho một ai ra, vào các cửa cung, toàn bộ Tử Cấm Thành ở trong tình trạng giới nghiêm. Nghe tin này, tôi và Phổ Kiệt ngồi thừ ra trong điện Dưỡng Tâm.

Một lát sau, cha tôi bực bội bước vào nói:

- Nghe, nghe, nghe nói hoàng thượng muốn, muốn, muốn đi?

- Làm gì có chuyện đó!

- Như vậy không được, không được!

Từ đó về sau, tôi sợ nhất. là nhìn thấy những bức tường cao.

Ngày hôm sau gặp Johnston, tôi mắng ông ta một trận. Ông an ủi tôi mấy câu, nói tạm thời hãy gác chuyện đó, trước hết hãy chỉnh đốn lại Tử Cấm Thành, ông nói:

- Trịnh Hiếu Tế mới tới là người rất có tài có chí lớn, hãy nghe cách chỉnh đốn của ông ta.

Trong lòng tôi bỗng loé sáng một hy vọng mới - chưa khôi phục được sự nghiệp của tổ tiên ở trong và ngoài Tử Cấm Thành, hãy chỉnh đốn trước tài sản trong thành. Tôi rất hài lòng về đề nghị của Johnston.. Khi đó tôi không hề nghĩ rằng, sau này khi viết về cuộc chạy trốn không thành đó trong cuốn sách, ông ngang nhiên nói mình không hề can dự mà là người phản đối.

Chú thích:

(41) Hồ Thích (1891-1962) quê An Huy, là nhà văn hoá nổi tiếng của Trung Quốc. Lúc đó là giáo sư triết học, văn học Anh của trường Đại học Bắc Kinh - ND