← Quay lại trang sách

CHƯƠNG III - (11) Từ “khu sứ quán” đến “Tô giới”

Ở thời đại ấy, “khu sứ quán” và “tô giới” đúng là nơi rất “hiếu khách”. Vào sứ quán Nhật Bản rồi tôi mới hay mình không phải là khách duy nhất ở đây. Lúc ấy còn có một nhân vật tên gọi Trương Dực Chi, mưu sĩ tâm phúc của Tào Côn, đại tổng thống trong cuộc bầu cử mua phiếu. Tào Côn không kịp trốn vào sứ quán, bị quân Dân quốc giam lỏng. Còn Trương Dực Chi nhanh chân hơn nên đã chạy được vào đây làm khách trọ. Còn nhớ, khi tôi lên làm vua lần thứ hai hồi bảy năm trước, Lê Nguyên Hồng bị Trương Huân đuổi gấp cũng đã ở nơi này. Sau khi tôi thoái vị lần thứ hai, Trương Huân bị Đoàn Kỳ Thụy rượt theo cũng làm khách trọ ở sứ quán Hà Lan. Mỗi khi công sứ quán phải tiếp đón khách đến thì khách sạn và bệnh viện trong khu sứ quán cũng tưng bừng, náo nhiệt lên bởi vì mỗi lần như thế, dù sao cũng có những người yếu bóng vía mà giá trị con người ấy lại không thuộc loại đủ tiêu chuẩn để vào ở. sứ quán mới đổ dồn đến đây làm cho nơi này đông như nêm cối, thậm chí đến cả gầm cầu thang cũng có người tình nguyện bỏ tiền và thuê. Trong các vụ Đinh Hợi, Đinh Tỵ và đến lượt tôi bị đuổi ra khỏi Tử Cấm Thành lần này, có rất nhiều quý tộc Mãn Châu tranh nhau, xô lấn nhau đến đây ở trọ. Đã có lần chủ khách sạn dám ra một bản yết thị láo xược thế này.

- Xét rằng người trọ trong khách sạn tới quá đông, gầm cần thang cũng ở chật ních, tình trạng vệ sinh rất kém, có lắm người còn khạc nhổ bừa bãi rất không văn minh. Nay quy định ai khạc nhổ xuống đất phải phạt 10 đồng bạc, nhất quyết không tha!

Mặc dù chủ quán vô lễ như vậy, thế mà bao nhiêu người vẫn đổ đến đây như thiêu thân say lửa, lưu luyến đến quên cả đường về.

Nhiệt tình ở đây đối với tôi thật thắm thiết chưa từng có mà có lẽ sau này cũng không bao giờ có nữa. Khi tôi cho người trở lại Bắc Kinh đón Uyển Dung, Văn Tú bọn cảnh sát ở đấy không chịu để cho họ đi. Sứ quán đã cử một viên bí thư đặc cách đi can thiệp việc này nhưng cũng không thành công. Cuối cùng công sứ Yoshizawa thân hành đến tìm Đoàn Kỳ Thụy nói chuyện thì Uyển Dung, Văn Tú mới được thái giám và cung nữ của họ đưa đến nơi tôi ở.

Chủ nhân sứ quán thấy xung quanh tôi có một đám đông người như vậy rõ ràng là ba gian nhà không thể chứa xuể nên đã dành riêng một tòa nhà lầu để tôi sử dụng. Thế là toàn bộ quân tướng của tôi - quan hành tẩu Nam thư giám, cung nữ, nữ tỳ, đầu bếp… ai nấy có nơi ăn, chốn ở của mình. Trong công sứ quán Nhật Bản, Phòng tâu việc và phòng trực ban của “Hoàng đế Đại Thanh” lại được phục hồi toàn bộ.

Điều quan trọng là công sứ Yoshizawa đã tranh thủ được sự hiểu biết và thông cảm của phủ chấp chính đối với tôi. Ngoài việc biểu thị rõ ràng với công sứ Yoshizawa Phủ chấp chính còn phái trung tướng lục quân Khúc Hồng Phong thân hành đến tận nơi đại tá Takemoto ở doanh trại quân đội Nhật Bản một lần nữa xác định.

Phủ chấp chính hết sức tôn trọng ý chí tự do của vua thoái vị và trong phạm vi có thể làm được tình nguyện giữ gìn an toàn về tính mạng, tài sản của nhà vua thoái vị cùng những người có liên quan với nhà vua.

Các vương công đại thần do cha tôi đứng đầu khuyên tôi trở về, nói rằng hiện nay Bắc Phủ đã an toàn. Đoàn Kỳ Thụy và Trương Tác Lâm có mặt ở đây nhất định quân quốc dân không dám giở trò bậy bạ và còn nói Đoàn Kỳ Thụy và Trương Tác Lâm đã đảm bảo với họ như vậy. Nhưng tôi tin lời bọn La Chấn Ngọc nói: Đoàn Kỳ Thụy và Trương Tác Lâm phải đảm bảo thế vì tôi đã vào ở trong sứ quán nên mới nói đãi bôi. Nếu tôi còn ở Bắc Phủ, quân Dân quốc còn ở Bắc Kinh thì đảm bảo gì cũng không chắc. Tôi từ chối, sự thật thì các vương công cũng đang tìm nhà ở khu sứ quán, và sau có người vào doanh trại quân đội Đức, có người vào Lục Quốc phạn điếm. Cha tôi thì một mặt khuyên tôi, mặt khác lại thuê các kho hàng ở nhà thờ Tây Thập Khố để cất dấu của cải, châu báu của mình. Về sau, các em trai, em gái tôi ở Bắc Phủ cũng chạy vào ở Tây Thập Khố.

Thấy sứ quán Nhật Bản ân cần chăm sóc tôi ngay những di lão không có tên tuổi gì cũng hoạt động hẳn lên. Họ từ các nơi điện cho Đoàn Kỳ Thụy yêu cầu phục hồi chế độ ưu đãi; họ gửi tiền đến (gọi là “tiền phụng”) cho tôi chi dùng. Có người từ tỉnh ngoài lặn lội tới Bắc Kinh để thỉnh an tôi, để bí mật trình bày kế lớn. Như được uống thang thuốc kích thích, các vương công Mông Cổ gửi điện, đưa đơn chất vấn Phủ chấp chính định giải quyết chế độ ưu đãi ra sao. Phủ chấp chính phải vội vã trả lời là vẫn theo như tục lệ cũ, không thay đổi gì hết. Thái độ của các vương công đại thần cũng cứng rắn lên, từ chối không dự “Ủy ban giải quyết những việc của nhà Thanh”.

Các di lão, quan lại cũ hết tỏ lòng khí khái, thỉnh an lại đưa “tiền phụng” bí mật trình bày các loại “kế hoạch trung hưng to lớn”. Thậm chí còn chất vấn Phủ chấp chính, tấp nập ra vào sứ quán Nhật Bản ngày một dông. Đến ngày tết nguyên đán âm lịch, trong căn phòng nhỏ của tôi bỗng nhiên mọc lên chi chít những bím tóc đuôi sam. Thay cho ngai vàng, tôi ngồi trên chiếc ghế kiểu Tây lưng quay về phía Bắc, mặt hướng về phía Nam tiếp nhận lễ mừng của quần thần.

Rất nhiều di lão lòng tràn ngập cảm kích đối với chủ nhân của sứ quán. Qua sự chiêu đãi của sứ quán, họ đã thấy có hy vọng hay ít nhất về tâm lý cũng được thoả mãn nào đó. Trong sớ tâu Vương Quốc Duy nói:

- Công sứ Nhật.Bản... không phải chỉ vì sự tôn nghiêm của hoàng thượng mà còn vì coi Hoàng thượng là vị chủ chung của Trung Quốc sau này. Như vậy, phàm là kẻ bề tôi, ai mà không vui mừng, sung sướng.

Qua tết nguyên đán âm lịch lại sắp đến ngày sinh của tôi thọ lần thứ 22. Tôi vốn không muốn làm tiệc thọ ở nhà người ta, không ngờ chủ nhân nằng nặc đòi chiều bằng được ý tôi mới nghe, đòi để cả gian lễ đường của sứ quán để tôi làm nơi tiếp nhận lễ mừng. Lễ đường đã bày biện xong, mặt đất trải thảm lộng lẫy, trên chiếc ghế bành dùng làm ngai vàng phủ đệm gấm vàng, bức bình phong sau ghế dán giấy vàng, những người hầu đều đội mũ loe ngũ đỏ của triều Thanh. Đến hôm sinh nhật, những di lão của các tỉnh, thành phố Thiên Tân, Thượng Hải, Quảng Đông, Phúc Kiến v.v.. kéo về tới hơn một trăm người. Nhân viên các sứ quán ở Đông Giao cũng có người tới dự, cộng với vương công đại thần, di lão các địa phương nhiều tới năm, sáu trăm người. Vì đông người quá đành phải theo thể lệ cũ, viết ra chương trình thứ tự chia ban mà lần lượt làm lễ mừng.

Hôm ấy tôi mặc áo thụng lụa nâu hoa tím, ngoài phủ áo chẽn đoạn đen, vương công đại thần và di lão ở các nơi cũng mặc tương tự như thế. Ngoài điểm đó ra, về nghi lễ không có gì khác trong cung. Không khí của màu vàng chói, bím tóc và lễ “ba quỳ, chín lạy” làm cho tôi bỗng vô cùng buồn đau, sầu não. Sau khi làm xong mọi nghi thức, do sự thúc đẩy nào đó, tôi ứng khẩu đọc bài diễn văn trước năm sáu trăm người ngay ở trong sân. Bài diễn văn đó được các báo ở Thượng Hải đăng lên. Không hoàn toàn đúng nhưng đoạn này thì những nét lớn không sai:

“Ta năm nay hai mươi hai tuổi, còn non trẻ, không đủ để nói là thọ. Huống chi, hiện giờ là lúc lâm nan phải ăn đậu nằm nhờ, thì lại càng không có lòng nào bày vẽ tiệc thọ. Nhưng các khanh từ xa tới đây, ta rất muốn nhân dịp này gặp các khanh, và càng muốn nhân dịp này, nói chuyện với các khanh. Theo thế lớn của thế giới, đế vương là không thể tồn tại được nữa, ta rất biết rõ, nhất quyết không phiêu lưu theo sự nguy hiểm đó. Hàng ngày ở sâu trong đại nội, khác nào kẻ bị tù đồ, bao nhiêu cái ràng buộc mất hết tự do, đó là điều ta không muốn chút nào. Từ lâu ta đã có ý định xuất dương du học, nên hàng ngày chuyên tâm nghiên cứu Anh văn, vốn là để chuẩn bị cho việc xuất dương. Song vì trong đó có nhiều cái gò bó nên không thể thực hiện ngay được. Còn điều kiện ưu đãi có tồn tại hay không, đối với ta thật không đáng kể. Nhưng việc đó phải do ta tự động xoá bỏ mới được, nhất định không được do người khác cưỡng bức. Điều kiện ưu đãi do hai bên ký kết với nhau khác nào điều ước quốc tế, tuyệt nhiên không phải một bên ra mệnh lệnh mà đổi thay đi được. Lần này, Phùng Ngọc Tường phái quân đội vào cung quá ư cưỡng bức, quả thật không hợp lý, hợp tình. Nếu việc này đưa ra bàn bạc tử tế, thiết nghĩ cũng có thể làm được đến nơi đến chốn. Ta không muốn bo bo giữ danh hiệu hão ấy, đó là thành tâm thiện ý của ta từ lâu, nếu dùng uy lực quân đội bức hiếp, ta cảm thấy không vui lòng chút nào. Đối với Dân quốc hành động dã man ấy cũng làm nhà nước mất thể diện không ít, mất uy tín không ít, huống hồ đuổi ta ra khỏi cung cấm là có tác dụng khác. Không cần ta nói rõ chắc các khanh cũng biết cả rồi. Lần này ta là người không có chút thế lực nào, Phùng Ngọc Tường dùng thủ đoạn ấy với ta, thắng đã không vinh dự, huống chi tình hình bức hiếp lúc rời khỏi cung, khác nào một sự lăng nhục, một đôi lời khó mà nói hết được. Đuổi ta ra khỏi cung còn lý mà nói được nhưng tại sao lại giữ cả quần áo, đồ dùng, giấy tờ của bao đời tiên tổ ta để lại, thậm chí đến cả chén cốc bát đĩa và đồ dùng thổi nấu trong bếp cũng không cho mang đi. Đó cũng là vật đáng tiền ư. Hành động như thế e rằng so với lũ giặc cướp tội tù cũng chưa chắc đã đến nỗi phải khe khắt đâu vậy. Chỉ riêng phía họ nói rằng việc phục tích năm Đinh Tỵ là phá vỡ điều kiện ưu đãi, cần phải hiểu rằng năm Đinh Tỵ ta mới 12 tuổi có năng lực tự động phục tích hay không, không cần rườm lời bàn cãi. Nhưng từ khi thành lập điều kiện ưu đãi đến nay, cái gọi là khoản tiêu phí hàng năm đã từng được phát đúng hẹn lần nào chưa? Rõ ràng chịu trách nhiệm phá vỡ đó trước tiên là Dân quốc. Thế mà nay họ lờ tất không đả động đến, chỉ một mực đổ tội cho việc phục tích năm Đinh Tỵ. Như vậy là không công bằng. Hôm nay ta nói đây không phải là vì bực dọc mà vì trong lòng uất ức, không thể không nhân cơ hội này nói hết ra. Được cái may là có quốc hội phát hiện, nếu như lòng người còn chưa hẳn đen tối, chắc là phải có sự giải quyết công bằng, ta chỉ bình tĩnh chờ đợi mà thôi. Ta còn trịnh trọng thanh minh rằng, có người đưa ra kiến nghị khuyên ta vận động ngoại giao đứng ra can thiệp hộ. Ta đến chết cũng không nghe theo, nhất quyết không bao giờ mượn thế lực người nước ngoài can thiệp vào nội chính của Trung Quốc”...

Khoảng thời gian trước và sau khi tôi làm sinh nhật, trên nhiều báo đã xuất hiện dư luận công kích nhóm người chúng tôi, phản ảnh sự công phẫn của nhiều người trong xã hội do việc tôi bán mình cho người Nhật, do hành động láo xược của tiểu triều đình được nhà cầm quyền nuông chiều dung túng và được người ngoài bao che, nâng đỡ. Ngay lúc ấy, khi “Uỷ ban giải quyết các việc tồn tại của nhà Thanh” kiểm điểm tài sản ở trong cung tìm thấy một số tài liệu như lời bạt của Viên Thế Khải lúc làm vua đã tự tay viết ra điều kiện ưu đãi; các văn bản, chứng từ của Phủ nội vụ về việc cầm cố, bán hạ giá, chuyên chở đồ cổ ra nước ngoài v.v.. đều được cộng bố rộng rãi. Thế là dư luận sôi sục lên. Cố nhiên, điều làm người ta căm phẫn hơn cả là mối quan hệ của triều đình với người Nhật cùng cuộc vận động “yêu cầu phục hồi điều kiện ưu đãi” do các di lão khuấy lên. (Khi tôi làm sinh nhật, trên báo đăng là có trên 300 người ở 15 tỉnh; chia làm 13 nhóm ký tên chung vào đơn thỉnh nguyện). Để đối phó lại tiểu triều đình, ở Bắc Kinh xuất hiện một đoàn thể gọi là “Đại đồng minh phản đối ưu đãi nhà Thanh” tiến hành những hoạt động chống đối gay gắt. Sự công phẫn đó của xã hội biểu hiện trên báo chí bằng những tiểu phẩm châm biếm, cũng có những bài lên án chính diện một cách nghiêm túc; có bài khuyên can tôi một cách đầy thiện ý. Cũng có bài viết theo kiểu cảnh cáo đối với công sứ quán Nhật Bản và nhà cầm quyền Dân quốc. Ngày nay mới thấy việc tôi chỉ tiếp thu một ý kiến trong số những bài đó thôi cũng không đến nỗi làm cho nửa đời trước của tôi sa đọa đến vậy. Còn nhớ mấy bài tố cáo âm mưu đen tối của người Nhật Bản mà nay tôi đã tìm thấy. Đó là một tin của “Tân văn phiên dịnh xã” đăng trên tờ Kính báo trong đó có một đoạn nói rõ dự định của người Nhật đối với tôi. Bài đó sao mà khớp với những việc xảy ra sau này đến thế khiến tôi vô cùng kinh ngạc.

“Sự ám muội cực lớn là đặc cách nuôi dưỡng hắn, đợi đến khi tỉnh X xảy ra sự đột biến gì là lập tức dùng sức mạnh hộ tống hắn đến đó khôi phục lại địa vị, tôn hiệu xa xưa của tổ tiên hắn, tách rời khỏi Dân quốc, chịu sự bảo hộ của nước X. Bước thứ hai là cũng thực hiện cùng một biện pháp ấy để X và hắn gộp hai nước làm một”.

Đoạn sau bài báo do còn nói: “Sự hoảng sợ và việc đi trốn của Phổ Nghi lần này vì có người cố tâm doạ nạt mà rơi vào cạm bẫy ắt hẳn là có kế hoạch từ lâu... Người ta vung tiền bạc, cung cấp đầy đủ mọi thứ ưu đãi hiện nay nên bao nhiêu nhân viên tùy tùng đều được nước X mua chuộc cả. Những người này không biết rằng họ đã rơi vào vòng lung lạc của người ta mà sau này trở thành con rối”. Lúc đó có nhiều bài rõ ràng tác giả không phải là đảng viên Cộng sản mà cũng không phải là đảng viên Quốc Dân đảng, ví dụ như bài bình luận ngắn của “Kinh báo”, có lẽ còn là tay người một lòng trung nghĩa với phong kiến mà viết ra biểu hiện sự quan tâm đến quyền lợi của tôi, sự việc nói đến cũng là thật

“Di lão có hận thù gì với họ Ái Tân Giác La cớ sao phải làm cho của hết, nhà tan mới hả dạ?

Kết quả cuộc kiểm kê tài sản trong cung cấm nhà Thánh mới biết rằng một phần rất lớn trong số những đồ cổ đó đã bị cầm cố, bán chác ngay cả Kim bảo, Kim sách của các đời vua cũng đều ở trong kỳ hạn cầm cố. Dù những dân thường đến lúc khốn khó, cùng cực cũng không đến nỗi bán đá bia trên mộ, hoành phi nhà thờ tổ tiên, tại sao Kim sách chói lọi của bao đời Hoàng hậu cũng đều lọt vào tay con buôn bụng phệ, áo dài…

Tôi kính xin bày đặt kế hoạch cho lớp trung thần, hãy dấy lên lòng trung nghĩa, mưu đồ an ninh cho con côi của chủ cũ, chớ có khoe khoang ầm ỹ suông mà để bọn con buôn trục lợi, vớ bẫm những món hàng lời. Khiến những vật trần thiết lý lịch không rõ ràng được bày đầy các phòng, các sảnh”.

Đọc bài báo như vậy, tôi không còn cảm thấy người ở Phủ nội vụ là không đáng tín nhiệm như hồi tôi còn ở cung cấm đối với tờ Kinh báo và tác giả bài bình luận ngắn ấy tôi dứt khoát coi là kẻ thù của mình. Còn với các bài chỉ trích khác, phản ứng của tôi chỉ là thù hận.

Ở sứ quán Nhật Bản, vì tính hiếu kỳ mà tôi cùng mấy người hầu cưỡi xe đạp nửa đêm ra ngoài chơi (về sau sứ quán Nhật khoá cổng chính không để cho tôi ra nữa), có một lần tôi cưỡi xe đạp đến sông Ông ở ngoài Tử Cấm Thành mà tôi mới rời khỏi không bao lâu, nhớ đến ngai vàng và các thứ đồ vật của tôi đều một màu vàng chói, ý chí phục thù và phục tích dã tràn ngập tim tôi, bất giác người tôi nóng ran như lửa đốt, mắt rưng rưng lệ. Tôi ngầm thề rằng sau này tôi nhất định phải trở lại đây với tư thế một ông vua chiến thắng như tổ tiên đời thứ nhất của tôi.

- Tạm biệt!

Tôi khe khẽ nói lên hai tiếng mang hai ý nghĩa đó rồi nhảy lên xe đạp phóng đi.

Ba tháng ở sứ quán, cái mà tôi tiếp xúc hàng ngày là sự chăm sóc ân cần của chủ nhân Nhật Bản, lời thề thốt trung thành của các di lão và sự phản kháng gay gắt ở ngoài xã hội dội đến. Tham vọng và hận thù của tôi ngày đêm không ngừng phát triển dưới ba loại ảnh hưởng khác nhau ấy. Tôi nghĩ cứ nằm khàn thế này là không được, đã đến lúc tôi cần phải tiến hành chuẩn bị cho tương lai của tôi, sự dự tính từ hồi trước kia nay lại trở lại đầu óc tôi - tôi cần phải xuất dương sang Nhật Bản.

Đối với ý định của tôi, sứ quán đều tỏ ý ủng hộ, công sứ quán không chính thức bày tỏ ý gì nhưng viên bí thư thì công khai tỏ ý nhiệt tình.

Sau sinh nhật tôi không lâu, La Chấn Ngọc đến nói với tôi: ông ta cùng Jkebe bàn bạc xong xuôi. Việc xuất dương phải đến Thiên Tân làm công việc chuẩn bị, ở đây không được tiện lắm. Đến Thiên Tân, tốt nhất tìm một ngôi nhà trong tô giới Nhật Bản để ở, toà nhà tậu trước kia trong tô giới Anh, địa điểm không thích hợp. Thấy ông ta nói có lý và bản thân tôi cũng muốn xem cái thành phố to lớn ấy nên đã đồng ý ngay. Tôi phái “Nam thư phòng hành tẩu” tìm nhà ở tô giới Nhật Bản, kết quả đã chọn được biệt thự “Trương Viên”.

Mấy hôm sau La Chấn Ngọc lại đến nói “Trương Viên đã chuẩn bị tươm tất, hiện nay quân Quốc Dân đảng đang dời đến, trên đường sắt chỉ có lèo tèo một ít quân đội Phụng Thiên, chính là cơ hội tốt, có thể khởi hành ngay”. Tôi đem việc này nói với công sứ Yoshizawa, ông ta tỏ ý tán thành tôi đi Thiên Tân. Về việc di chuyển của tôi, công sứ nhật Bản đã cho người đến báo cho Đoàn Kỳ Thụy biết. Đoàn Kỳ Thụy cũng tỏ ý bằng lòng và còn muốn cho quân đội hộ tống nữa. Nhưng công sứ Yoshizawa đã từ chối sự quan tâm ấy. Ông ta quyết định cho viên trưởng ty cảnh sát và cảnh sát mặc thường phục của sứ quán Nhật ở Thiên Tân đến Bắc Kinh để hộ tống tôi đi, còn Uyển Dung và những người khác đi sau. Như vậy là công việc đã bàn xong.

Bảy giờ tối ngày 23 tháng 2 năm thứ 14 Dân quốc, tôi từ biệt vợ chồng công sứ Yoshizawa. Chúng tôi chụp ảnh chung, tôi ngỏ lời cảm ơn họ. Họ chúc tôi đi đường bình yên rồi dưới sự che chở của Jkebe Masatoba và cảnh sát Nhật, tôi ra cổng sau sứ quán Nhật Bản đi bộ đến ga Tiền Môn Bắc Kinh. Trên xe tôi đã thấy cha con La Chấn Ngọc. Suốt con đường xe chạy, mỗi khi đến ga đỗ lại, lại có vài tên cảnh sát Nhật Bản mặc thường phục lên xe. Lúc đến Thiên Tân, quá nửa xe là những người như thế. Viên tổng lãnh sự Yoshida Shigera của Nhật Bản ở Thiên Tân cùng sĩ quan binh lính đồn trú chừng mấy chục người đã đến đón tôi xuống xe.

Ba hôm sau, lời tuyên bố của sứ quán Nhật Bản xuất hiện trên “Thiên Tân nhật báo”:

“Trong lúc vua Tuyên Thống triều Thanh tạm trú ở sứ quán chúng tôi, đêm 23 đột nhiên khởi hành đi Thiên Tân. Ngay chiều 24 sứ quán chúng tôi đã thông báo cho Đoàn chấp chính cùng tổng trưởng ngoại giao biết sự việc. Vua Tuyên Thống vốn có ý định rời Bắc Kinh từ lâu. Chính phủ chấp chính đã sớm biết rõ nhưng không hề có ý cản trở. Đó là điều mà sứ quán chúng tôi cũng hiểu biết nhưng đinh ninh là từ dự định đến ngày thực hành chắc còn phải một thời gian lâu. Không ngờ lại rời Bắc Kinh nhanh chóng như vậy. Ý hẳn là vì mấy hôm nay báo chí luôn luôn đăng những tin tình hình không ổn định nên nhà vua phải đi gấp v.v…”