← Quay lại trang sách

CHƯƠNG IV - HOẠT ĐỘNG Ở THIÊN TÂN Cố gắng của La Chấn Ngọc

Đến Thiên Tân mới biết không phải như La Chấn Ngọc nói “nơi ở đã chuẩn bị thỏa đáng”. Vì đầu tiên tôi ở một ngày trong khách sạn Đại Hòa. Ngày hôm sau, Uyển Dung, Văn Tú và những người của sứ quán Nhật Bản đều tới mới chuyển đến Trương Viên, nơi bố trí một cách vội vã.

Trương Viên là một khu vườn rộng khoảng hơn một hecta trong đó có một ngôi nhà mà người Thiên Tân gọi là lầu Bát giác. Đây là nơi vui chơi của Trương Bưu, Thống chế trấn thứ 8 đóng ở Vũ Xương triều nhà Thanh trước đây. Khi khởi nghĩa Vũ Xương, Trương Bưu sợ hãi đến vứt cả ấn tín, ôm châu báu vàng bạc cùng gia đình chạy đến Thiên Tân làm kẻ lưu vong ở khu tô giới Nhật bản. Tôi vừa đến Trương Viên, vị “danh tướng” triều Thanh này kiên quyết không thu tiền thuê nhà, mỗi buổi sáng đến mang một chiếc chổi, đích thân đến quét nhà cho tôi, đại thể là bày tỏ lòng trung thành của mình. Sau đó, không rõ có ai khuyên can, ông ta mới vứt cái chổi đi. Tôi ở nơi này 5 năm. Sau khi Trương Bưu chết, con trai ông ta đòi tiền thuê nhà. Tôi cũng thấy thiếu tiền nhà của hắn không tiện do đó lại chuyển đến “Tĩnh Viên” của Lục Tôn Hưng.

Mục đích tôi đến Thiên Tân vốn là để ra nước ngoài. Kết quả đã ở đó bảy năm. Trong bảy năm đó, tôi sống trong sự ngả nghiêng giữa các phái di lão, các loại chủ trương. Khi đó, lực lượng các vùng bên cạnh tôi đã sút giảm rất nhiều. Lúc mới đầu, cha tôi không hay đến Thiên Tân, sau đó đã đến luôn (ở tại căn phòng nhà tôi mua từ trước ở khu tô giới Anh). Đối với tôi ông cũng không có tác dụng gì. Trong thời gian đó thầy Johnston bỏ tôi đến làm chuyên viên ở Uy Hải Vệ (44). Sau là tô giới Anh trong 25 năm. Sau khi chính phủ Trung Quốc thu hồi Uy Hải Vệ, năm 1926 ông đến Thiên Tân và gặp tôi một lần. Ông chạy vạy cho tôi với đám Ngô Bội Phu nhưng không có kết quả gì. Sau đó ông về nước Anh nhận tước vị Huân tước, làm giáo sư Hán học trường đại học Luân Đôn kiêm cố vấn Bộ Ngoại giao Anh. Trong 7 năm đó, những nhân vật gắn bó chúng tôi đại thể chia làm mấy phái.

Một phái gồm đám cựu thần do Trần Bảo Thám đứng đầu, lúc đầu đặt hy vọng vào việc khôi phục quyền ưu đãi, sau co lại thành duy trì nguyên trạng, có thể gọi là phái “Hoàn cung”.

Một phái đứng đầu là La Chấn Ngọc trong đó có một số di thần già, trẻ, cũng có vương công cá biệt như Phổ Vĩ, đặt hy vọng vào việc liên lạc, mua chuộc bọn quân phiệt tức cái gọi là phái “dùng vũ lực”. Các nhân vật của phái này rất phức tạp; có di lão triều Thanh trước, cũng có cả chính khách Quốc Dân Đảng, nhân vật trung tâm là bản thân tôi. Sau đó, Trịnh Hiếu Tế lại về bên cạnh tôi. Mới đầu ông ta cũng không thuộc phái nào, hầu như đã từng tán thành và cũng đã phản đối chủ trương của bất cứ phái nào. Sau đó, khi khẳng định chủ trương dựa vào Nhật Bản, ông ta đã chiến thắng mọi đối thủ. Không những ông ta đã chiến thắng họ, trong giai đoạn giành giật này ngay những thành quả kinh doanh trong nhiều năm của La Chấn Ngọc, thủ lĩnh cũ của phái “Liên Nhật”, đối thủ cũ của ông ta cũng dần dần bị ông ta thâu tóm. Song đó là chuyện sẽ nói sau, ở đây trước hết hãy nói về La Chấn Ngọc.

Khi La Chấn Ngọc vào cung mới hơn năm mươi tuổi. Người tầm thước, đeo kính cận gọng vàng (trước mặt tôi ông bỏ kính ra). Cuối triều Thanh ông làm tới Học bộ tham sự, vốn không thể tiếp cận với tôi. Sau khi tôi kết hôn, do sự tiến cử thăng chức, cũng do ông nổi tiếng về khảo cổ học, tôi tiếp thu đề nghị của Trần Bảo Thám, giữ làm Hành tẩu Nam thư phòng, mời tham gia giám định các loại đồ cổ trong cung. Một số học giả nổi tiếng thỉnh thoảng qua lại với ông ta có anh em rể Vương Quốc Duy và Kha Cật Mân, nổi tiếng về sửa Nguyên sử. Trần Bảo Thám cho rằng Nam thư phòng có mấy người đó tăng thêm uy tín cho nhà Thanh. Đương nhiên,tiếng tăm của La Chấn Ngọc về mặt hoạt động phục tích được tôi chú ý hơn là về mặt học thuật. Năm cách mạng Tân Hợi, ông sang phía Đông, sống lưu vong ở Nhật bản 10 năm, viết sách khảo cổ. Thăng Sung và Thiện Kỳ đến Nhật bản hoạt động tìm kiếm viện trợ phục tích đã cùng ông ta kết thành bè bạn. Sau đó Thăng Sung chán nản về ở Thanh Đảo một thời gian rồi chạy về sống lưu vong ở khu tô giới Nhật tại Thiên Tân. Thiện Kỳ định cư ở Lữ Thuận - Đại Liên được người Nhật nuôi dưỡng. So với hai người, La Chấn Ngọc hoạt bát hơn. Năm 1919, ông ta về nước, đầu tiên ở Thiên Tân, kết giao với người Nhật. Sau đó mở một của hàng đồ cổ ở bến tàu Đại Liên tên là Hắc Duyên Đường, vừa mua bán đồ cổ, vừa tiếp tục lôi kéo người Nhật, tìm kiếm những người đồng minh phục tích.

Nghề kinh doanh kiếm tiền bằng đồ cổ, tranh vẽ, vàng, đá quý... của La Chấn Ngọc đã có từ lâu ông xuất thân tại một nhà bán sách cũ ở huyện Thượng Lư tỉnh Chiết Giang. Đến tuổi trưởng thành ông dạy học ở một nhà thân sĩ lớn họ Khâu tỉnh Giang Tây. Vị thân sĩ lớn này là một nhà bảo tàng sách. La Chấn Ngọc dạy học được ba năm thì ông chủ đột ngột qua đời. Lợi dụng con gái ông chủ không biết gì, La Chấn Ngọc một mặt làm ra vẻ rất đau thương, từ chối không nhận một năm tiền học để góp vào việc tang lễ, mặt khác tỏ ý muốn được giữ lại của chủ nhà một số sách và tranh vẽ cũ làm kỷ niệm. Con gái chủ nhà cho rằng tấm lòng ông thầy này quá tốt nên đề nghị ông tự đến lầu chứa sách tùy ý lựa chọn. Do đó, ông thế tử buôn sách này liền chọn ra mấy hòm “Kỷ niệm phẩm” trong đó có hơn một trăm cuốn Kinh do người đời nhà Đường viết, hơn 500 bức tranh vẽ đời Đường, Tống, Nguyên, Minh chất đầy mang về. Trên cơ sở đó, do ông ta khắc các cuốn sách Tam tự Kinh, Bách gia tính... nên trở thành nhà buôn đồ cổ, tranh cổ, buôn bán ngày càng phát đạt, danh tiếng là nhà kiểm định tranh vẽ, đồ cổ ngày càng lớn. Sau đó cũng thông qua con đường mua bán các loại văn vật cổ, ông ta lập được quan hệ với người Nhật. Trong những năm ở Nhật bản, kết giao với một số nhân vật có tên tuổi, nhiều người Nhật coi ông ta là giới có thẩm quyền về học thuật văn vật cổ Trung Quốc thường đưa tranh vẽ đến để ông giám định. Ông ta khắc một số con dấu “La Chấn Ngọc giám định”, “La Chấn Ngọc thẩm định”. Các nhà buôn đồ cổ Nhật bản mỗi lần đưa tranh đến để ông ta đóng dấu phải trả 3 đồng Yên (Nhật), sau đó mang đi lừa dối người. Về sau, ông ta còn phát triển đến mức theo mẫu dấu nổi tiếng của người xưa, trên các bức vẽ vô danh, thêm vào dấn “La Chấn Ngọc giám định”, bán với giá cao. Thường lấy cớ bận rộn, ông ta giữ lại những thứ đồ dùng quý giá người ta mang tới nhờ ông giám định, ra sức in một số mảnh in để bán.

Sách bản in đời Tống do Hắc Duyên Đường của ông ta bán ra, nghe nói có một số làm giả bằng giấy phi cống của Cố Cung. Khi đó, tôi hoàn toàn không biết chuyện này. Có người nói: nhân phẩm La Chấn Ngọc cố nhiên không tốt, tài học còn được. Theo tôi, tài học của ông ta có bao nhiêu cũng rất đáng hoài nghi. Trong thời kỳ ngụy Mãn, một lần ông ta mang tới một số ngọc đời Hán mời tôi xem. Đối với Hán ngọc tôi không thể nói có nghiên cứu gì chỉ vì tôi vô cùng ưa thích, thu nhập không ít. Cái gọi là không sợ không biết hàng, chỉ sợ hàng so sánh với hàng, đương nhiên, gọi là Hán ngọc cũng không phải nhất định là triều Hán mà chỉ là quen gọi đồ ngọc cổ. Xem qua Hán ngọc do La Chấn Ngọc mang tới tôi ngầm giật mình về “tài học” của ông ta vì rằng toàn bộ đều là đồ giả...

Điểm nút tranh luận giữa hai phái lúc mới đầu là có ra nước ngoài hay không? Sau khi tôi từ sứ quán Nhật Bản tại Bắc Kinh chạy xuống tô giới Nhật Bản ở Thiên Tân, sự đả kích của xã hội đạt tới cao trào mới. Thiên Tân xuất hiện một “Đồng minh chống đại Thanh” đối chọi với tôi. Đám người của La Chấn Ngọc nhân cơ hội đó nói với tôi: dù để an toàn hay phục tích ngoài việc ra nước ngoài, không còn con đường nào khác. Thanh thế của đám này một thời lớn mạnh, ngay một nguyên lão ở Quảng Đông là Trần Bá Đào cũng gửi lời tâu nói: “Không ra nước ngoài khó giữ được an toàn, càng khó mưu đồ khôi phục”, đồng thời chủ trương: sau khi du lịch Âu - Mỹ có thể định cư ở Nhật bản để đợi thời cơ thay đổi.

Đám Trần Bảo Thám thì cho rằng: điều đó hoàn toàn là hành động nông nổi.

Họ cho rằng: một là Phùng Ngọc Tường chưa chắc đã đứng vững, nguy hiểm cũng không lớn; mặt khác, xuất dương đến Nhật bản, Nhật bản chưa chắc hoan nghênh. Nếu như ở Nhật bản không xong, mà trong nước lại không dung càng không thể mong đám Đoàn Kỳ Thụy và Trương Tác Lâm cho tôi về Tử Cấm Thành. Khôi phục tình hình như trước. Tôi cảm thấy không ưng ý kiến của đám người Trần Bảo Thám song sự cảnh cáo mà họ nêu ra khiến tôi chú ý. Tôi do dự đối với chủ trương của Trần Bảo Thám.

Năm 1926, chính cuộc đã có lúc xảy ra biến động như đám Trần Bản Thám hy vọng. Trương Tác Lâm chuyển sang liên hợp với Ngô Bội Phu, cuối cùng Trương Tác Lâm và Phùng Ngọc Tường nổ ra xung đột. Quân của Phùng Ngọc Tường bị quân Phụng Thiên công kích. Phùng Ngọc Tường rút quân đội ở Thiên Tân. Quân của Phùng ở Bắc Kinh ở vào thế bị bao vây. Đoàn Kỳ Thụy cấu kết với Trương Tác Lâm bị quân Phùng Ngọc Tường phát hiện. Đoàn Kỳ Thụy bỏ chạy, tiếp đó quân của Phùng Ngọc Tường không trụ được ở Bắc Kinh, rút lui về Nam Khẩu. Quân Phụng Thiên của Trương Tôn Xương tiến vào Bắc Kinh. Khoảng tháng 7, “hai đại soái” Trương Tác Lâm và Ngô Bội Phu gặp nhau ở Bắc Kinh khiến phái “hoàn cung” vô cùng lạc quan. Phái “hoàn cung” lại hoạt động nhộn nhịp. Trần Bảo Thám ở bên cạnh tôi đã đích thân về Bắc Kinh, tìm Đỗ Tích Khuê, bạn cũ của mình mới được cử làm thủ tướng nội các để hoạt động. Bên ngoài, Khang Hữu Vi gửi điện cho Ngô Bội Phu, Trương Tác Lâm và Trương Tôn Xương kêu gọi khôi phục điều kiện ưu đãi. Khang Hữu Vi gửi một bức thư dài cho Ngô Bội Phu, ca ngợi “công đức” của triều Thanh, lấy lý do “Trung Hoa làm Dân quốc do triều Thanh nhường cho, không phải là Dân quốc tự mình giành được”, đề nghị Ngô Bội Phu nhân thời cơ phục tích. Ông ta nói với Ngô Bội Phu: đám Trương Tác Lâm không có vấn đề, về mặt ngoại giao cũng có sự đồng lòng, thậm chí “người Quốc Dân Đảng khi nói chuyện riêng tư cũng không lấy việc phục tích làm ngạc nhiên”, “sĩ phu toàn quốc không ai không nghi ngờ Quốc Dân và chủ trương phục tích”, vì vậy “nay chờ minh công quyết định”.

Thực ra, tuy các hệ quân nhân phía Bắc bỗng nhiên lại hợp tác. Trương Tác Lâm lại được tôn làm Tổng tư lệnh An quốc quân, trong năm 1924 bắt đầu sự hợp tác lần thứ nhất giữa Quốc Dân Đảng và cộng sản. Quân tiền phong Bắc phạt thế như chẻ tre. Quân tiền duyên của Tôn Truyền Phương, Ngô Bội Phu, Trương Tác Lâm không đứng vững, tan rã và thất bại. Bọn chúng đang không lo nổi mình, còn lòng dạ nào tính chuyện điều kiện ưu đãi? Hoạt động của Trần Bảo Thám chẳng có kết quả gì. Thư Ngô Bội Phu trả lời Khang Hữu Vi cũng rất đơn giản, biện bạch nói: “Vàng đá không đổi thay, khúc cao không hòa được”.

Một năm sau, Khang Hữu Vi ôm hận chết ở Thanh Đảo. Hy vọng “hoàn cung” tiêu tan, đám Trần Bảo Thám chán nản, phía La Chấn Ngọc lại nhộn nhịp. Tháng 3/1926, trong lúc tôi đang lo lắng về việc quân đội Bắc phạt đang đến gần, từ Lữ Thuận Phổ Vỹ cử người đưa tới lời tâu và một bức thư gửi La Chấn Ngọc, nói rằng ông đã móc nối tốt với phía Nhật bản, mong tôi chuyển đến ở Lữ Thuận, “trước hết xa nguy hiểm, sẽ mưu tính chuyện lớn”, “đi đông đi Tây, trước hết cần có nơi định cư”. Do đã nghe nhiều lời nói suông của La Chấn Ngọc nên tôi cũng có chút không yên tâm đối với họ, tuy nhiên tôi có ấn tượng tốt đối với Phổ Vỹ. Tôi đến Thiên Tân chưa bao lâu, Phổ Vỹ đã từ Lữ Thuận đến thỉnh an. Lần đầu gặp mặt, vị “Cung thân vương” này nói với tôi một câu rất cảm động: “Phổ Vỹ còn, đại Thanh không thể mất”. Đọc thư ông ta khuyên tôi đến Lữ Thuận tự nhiên tôi có chút động tâm. Vì ông ta thông qua La Chấn Ngọc để khuyên tôi, nên sự nghi ngờ của tôi đối với La Chấn Ngọc cũng giảm nhiều. Sau đó, quân Bắc phạt chiếm lĩnh Vũ Xương, toàn tuyến quân đội phía Bắc dao động, La Chấn Ngọc càng tuyên truyền với tôi rằng quân cách mạng đấy là “hồng thủy, mãnh thú”, “giết người đốt nhà”, nếu rơi vào tay họ ắt không có đường sống. Nghe những lời đó, tôi đã quyết định theo họ đến Đại Liên. Song do Trần Bảo Thám khuyên can lại quyết định tạm hoãn. Từ công sứ quán Nhật bản, Trần Bảo Thám được tin: tình hình có vẻ không đến nỗi bi quan. Tôi ngóng chờ không bao lâu, quả nhiên tin tức thanh đảng của Quốc Dân Đảng đã tới. Tưởng Giới Thạch tàn sát hàng loạt người bị gọi là người cộng sản “hồng thuỷ mãnh thú”. Trước và sau thời gian đó còn liên tiếp truyền tới những tin: quân hạm nước Anh bắn đại bác vào Nam Kinh, Nhật bản ra quân ở Sơn Đông ngăn cản quân phía Nam lên phía Bắc. Những tin tức đó khiến tôi tin vào sự vững vàng của đám Trần Bảo Thám, cảm thấy tình hình không đến nỗi nghiêm trọng như đám La Chấn Ngọc nói. Tưởng Giới Thạch cố nhiên giống như Viên Thế Khải, Đoàn Kỳ Thụy. Trương Tác Lâm sợ người nước ngoài, tôi ở trong tô giới nước ngoài chẳng phải là được bảo hiểm như trước sao?

Lý tưởng cuối cùng của hai phái “hoàn cung” và “xuất dương” thực ra không mâu thuẫn. Họ nhất trí hy vọng phục tích. Sau khi hy vọng “hoàn cung” của đám Trần Bảo Thám bị tan vỡ, lại chủ trương áp dụng chính sách “yên lặng đợi xem sự thay đổi”, song về mặt “liên Nhật” cũng không phản đối chủ trương của bọn La Chấn Ngọc. Ví dụ: một vị di lão Hành tẩu Nam thư phòng tên là Ôn Túc (Khi Trương Huân phục tích đã làm Phó đô ngự sử Viện đô sát trong 12 ngày) đã tâu: “Trần Bảo Thám có tài không ai có thể so sánh được, rất thân với Yoshizawa” (công sứ Nhật bản - ND). “Hành tại” (nơi ở tạm thời của vua) đặt ở Thiên Tân, có thể do Trần cùng Yoshizawa liên hệ gần gũi, lấy “liên kết chặt chẽ với bên ngoài, ngầm xây dựng thế lực”, “Bắc Kinh và Thiên Tân gần nhau, đi lại có thể không để dấu vết”. Hiện nay tôi có thể nhớ lại, di lão kiên quyết phản đối xuất dương nhất chỉ là cá biệt. Thậm chí cũng có người đã nói: “Nhật Bản chỉ có lợi thì làm, không thể nghĩa khí hiệp trợ phục tích”. Họ cho rằng, phục tích chỉ có thể gửi gắm vào bản thân các “di thần, di dân”. Trong các “di thần, di dân” của họ, phải gạt La Chấn Ngọc ra ngoài.

Hai đám người này cố nhiên cũng không phải tranh chấp về chủ trương biện pháp mà là tranh chấp giữa người và người. Vì vậy ngoài việc công khai bàn luận, điều trần, sự đấu đá ngầm bên trong cũng quyết liệt. Về mặt này, mặc dù có nhiều thủ đoạn, kết quả La Chấn Ngọc vẫn là kẻ thất bại.

Một hôm, La Chấn Ngọc được tôi gọi tới, đến căn phòng nhỏ nơi tôi gặp những người gọi tới. Ông ta mang theo một túi vải dài nói với tôi:

- Tội thần muôn vàn đáng chết, không dám làm rối loạn lòng thiên tử. Song nếu thần vì giao thiệp riêng tư, chỉ dấu cái ác, dương cái thiện thì lại bất trung bất nghĩa.

- Ông nói cái gì thế?

Tôi nhìn ông ta chẳng hiểu gì cả. Chỉ thấy ông ta gật gà gật gưỡng như viên thái giám già rửa mặt chải đầu, lấy tay mở chiếc túi. Túi được mở ra, bên trong là một đôi câu đối. Ông ta từ từ mở ra, chưa mở hết tôi đã nhận ra, đó là đôi câu đối tôi viết cho Trần Bảo Thám.

- Thần phát hiện bản chữ viết của hoàng thượng ngoài chợ, nghĩ thật là may mắn, được thần mang về đây…

Lúc đó tôi chưa biết đám người La Chấn Ngọc chuyên làm một số việc buôn bán xấu xa, chỉ nghĩ đến sự bất kính của Trần Bảo Thám đối với “ân thưởng” của hoàng thượng, dám mang bản ngự bút ra bày ở ngoài chợ, lòng tôi thật không vui, một lúc đầu óc rối bời chẳng biết nói gì, chỉ biết xua xua tay bảo La Chấn Ngọc nhanh chóng lui ra.

Lúc đó, Trần Bảo Thám đi Bắc Kinh. Hồ Từ Viện biết sự việc này kiên trì nói: đây quyết không phải là lỗi của Trần Bảo Thám. Ông không tin là người hầu của nhà họ Trần dám mang thứ đó ra chợ bán. Song cũng có khả năng người hầu của nhà họ Trần lấy cắp mang bán. Vậy ai là người đem ra chợ bán, tại sao lại rơi vào tay La Chấn Ngọc? Ông ta không nói ra được. Bị tôi truy hỏi, ông chỉ kể một câu chuyện:

“Tùng Duân, đại học sĩ triều Gia Khánh là một vị trung thần, hoàng thượng chắc đã biết. Câu chuyện của Tùng Duân, nếu Hoàng thượng muốn nghe thần sẽ kể. Năm thứ 24 Gia Khánh, Nhân Tôn Nhuệ Hoàng đế muốn xuất quan ngự giá tuần du. Đại học sĩ Tùng Duân biết trong lòng rất lo lắng, chỉ sợ Nhân Tôn đi chuyến này chẳng lành. Những lời trong lòng Tùng Duân không thể nói rõ với bề trên, chỉ tâu bằng những lời vòng vo, nói đêm xem thiên tượng không nên xuất du. Nghe tâu, Nhân Tôn cả giận ra một đạo dụ nói: từ xưa lấy hiếu trị thiên hạ, trẫm xuất quan tế tổ tiên lẽ sao lại chẳng lành. Do vậy Tùng Duân bị tước quan giáng làm Hiệu phiên kỵ. Sau đó Nhân Tôn băng hà ở hành cung tại Nhiệt Hà, Nghi Tôn (Đạo Quang) nối ngôi về triều. Vừa tiến vào Tây Trực Môn trông thấy Tùng Duân mang quân dẹp đường, nhớ lại những lời Tùng Duân tâu can hoàng đế Nhân Tôn mới rõ hàm ý trong lời nói, biết rõ đó là trọng thần có lòng trung thành vô hạn, lập tức khôi phục cho nguyên chức...”

Tôi vội hỏi:

- Ngươi nói gì thế? Điều đó có gì quan hệ đến Trần Bảo Thám?

- Thần nói là Trần Bảo Thám như Tùng Duân, có lời không thể nói rõ.

- Thế thì ta là Nhân Tôn hay Nghi Tôn?

- Không, không... - Hồ Từ Viện sợ quá không biết nói thế nào. Tôi không nhịn được nói:

- Ngươi là người thẳng thắn, đừng có học những lời vòng vo như thế, hãy nói thẳng ra?

- Dạ, thần nói Trần Bảo Thám chính là lòng trung thành vô hạn, chẳng qua là những lời tâu can của ông đối với bề trên luôn luôn không đạt, luôn luôn bị trả về. Hoàng thượng thiên tư thông minh tự nhiên có thể thấy được.

- Được, ta biết thầy Trần là người thế nào?

Tôi tuy không hiểu rõ hàm ý câu chuyện về Tùng Duân, cũng vui vẻ nghe Hồ Từ Viện nói những lời tốt đẹp về thầy Trần, ít nhất cũng có thể gạt bỏ việc câu đối khiến lòng tôi không thoải mái, và mong rằng nó thật sự bị đánh cắp là tốt rồi.

Qua những thất bại liên tiếp, đặc biệt là một sự việc khác về sau La Chấn Ngọc mất hết sự tín nhiệm của tôi. Cuối năm 1928, ông ta rời đến Lữ Thuận tìm con đường khác.

Ở đây tạm thời không nói về cuộc đấu tranh giữa các di lão, trước hết nói một chút về nguyên nhân khiến tôi ở lại Thiên Tân mà không ra nước ngoài, đó là hy vọng của tôi đối với đám quân phiệt.

Chú thích:

(44) Uy Hải Vệ thuộc huyện Văn Đăng, tỉnh Sơn Đông, ba mặt là núi đá, một mặt là biển, có hai cửa khẩu. Đồi Quang Tự là một trấn quan trọng bị Nhật Bản chiếm.