CHƯƠNG IV - (5) Lãnh sự quán, Bộ Tư lệnh, Hội Hắc Long
… Đối với Nhật Bản, nên bí mật liên hợp mà bề ngoài thì tuyên bố cự tuyệt. Người Quan Đông căm thù Nhật Bản đến tận xương tủy. Nhật Bản cấm Quan Đông hòa hiệp với Quốc Dân đảng mà đủ sức để chiếm lấy, tuy nhiên Nhật Bản dù lấy được Quan Đông không thể tự trị, không được…
Hoàng Thượng lên ngôi sẽ bó chân bó tay. Nay thế người Nhật rất khẩn trương, Quan Đông đã không thể giữ được, người Nhật không có cách ổn định về sau. Do đó Tanaka phải mấy lần tỏ thiện ý. Hoàng thượng không một thành, một lữ, không dùng Nhật Bản lấy gì khôi phục? Thời cơ khó được mà dễ mất, trời cho không lấy sau hối không kịp. Cố nhiên đối với Nhật Bản chỉ có thành ý liên hợp, muôn vàn không có lý cự tuyệt. Cái khó là ta mượn sức Nhật Bản mà ắt phải trước tiên, được lòng Quan Đông. Nếu nay người Quan Đông nghi ta hợp với người Nhật mưu tính họ, thì sau này muốn do Đông tam tĩnh ủng hộ thế sẽ khó. Ý này không ngại nói rõ với người Nhật.
Hoàng thượng khôi phục địa vị, Nhật Bản giành quyền ở Đông tam tĩnh, bề trên cần nhượng bộ mới dễ làm việc….
Đây là một đoạn trong một bản sờ tâu mà tôi nhận được năm 1928. Đoạn nói này đại biểu cho cách nghĩ của đa số người trong Trương Viên cũng là kết luận ngày càng tin phục sau nhiều năm hoạt động của tôi.
Phần trên tôi đã nói: Từ khi tôi vào Bắc Phủ được sự “quan tâm” của người Nhật đến nay, đã có một số tin cậy đến với người Nhật. Tôi đã ở một số ngày trong lãnh sự quán Nhật Bản, sau khi đến Thiên Tân, tôi ngày càng tin rằng người Nhật là lực lượng hàng đầu giúp đỡ từ bên ngoài đến với sự phục tích của tôi trong tương lai.
Năm đầu tiên tôi đến Thiên Tân, Tổng lãnh sự Nhật Bản Oshida Abagemi mời tôi tham quan một trường tiểu học kiều dân Nhật Bản. Trên đường về các học sinh nhỏ Nhật Bản tay cầm cờ giấy, xếp hàng đứng hai bên đường hướng tôi hoan hô muôn năm.
Cảnh tượng đó khiến tôi trào nước mắt suýt xoa mãi. Khi ngọn lửa nội chiến lan tới sát Thiên Tân, quân các nước đóng ở tô giới đã tổ chức liên quân tuyên bố sẽ đối phó với quân Dân Quốc dám đến gần tô giới. Trung tướng Koizuni Rokuichi thủ lĩnh quân đội Nhật Bản đóng tại Thiên Tân báo cáo với tôi: “Xin Hoàng đế Tuyên Thống yên tâm, chúng tôi quyết không cho phép lính Trung Quốc tiến một bước vào tô giới”. Tôi nghe rồi rất đắc ý.
Mỗi khi năm mới tới hoặc mừng thọ tôi, lãnh sự quán và các tướng tá đến chúc mừng tôi. Đến tiết “Thiên trường” Nhật Bản, họ còn mời tôi xem lễ duyệt binh. Còn nhớ có một lần duyệt binh tiết “Thiên trường”, Uedakenyoshi tư lệnh quân đội Nhật Bản mời nhiều nhân vật lưu vong cao cấp ở tô giới như Tào Nhữ Lâm, Lục Tiên Hưng, Cận Vân Bằng... đi dự. Khi tôi đến nơi tư lệnh Uedakenyoshi đặc biệt cưỡi ngựa đến chào. Khi duyệt binh xong, các vị khách Trung Quốc chúng tôi tụ lại một nơi, cùng người Nhật đồng thanh hô to “Thiên Hoàng muôn năm”.
Bộ tư lệnh quân đội Nhật thường xuyên cử một viên tham mưu cấp tá đến nói thời sự với tôi trong nhiều năm rất cố gắng nghiêm túc, có khi còn mang đến cả những biểu đồ chuyên môn. Người thứ nhất đến nói là tham mưu tên là Kawatari. Sau khi y được điều di nơi khác, người tiếp tục đến nói là Kinsutatsu, tiếp đến là Yoshioka Yasunori, sau này làm “ngự dụng quải” (Cái mắc áo của vua) cho tôi ở Ngụy Mãn. Con người này đã ở với tôi tại Ngụy Mãn trong mười năm, phần sau tôi sẽ dành một tiết nói về hắn.
Thời sự mà tham mưu quân đội Nhật nói chủ yếu là tình hình nội chiến, trong lúc giảng giải thường phân tích như sau: “Sự rối loạn của Trung Quốc căn bản là do “quần long vô thủ” (đàn rắn không đầu) không có Hoàng đế”. Đồng thời từ đó nói đến tính ưu việt của thể chế Thiên Hoàng của Nhật Bản; nói đến “lòng dân” của Trung Quốc chỉ có “hoàng đế Tuyên Thống” mới tập hợp được. Quân đội Trung Quốc hủ bại hèn yếu là khóa đề không thể thiếu được, tự nhiên cũng lấy hoàng quân Nhật Bản để so sánh. Còn nhớ sau khi xẩy ra vụ thảm án Tế Nam, Yoshioka đã dành ít nhất một tiếng đồng hồ miêu tả với tôi về sự yếu kém của quân đội Trung Quốc Tưởng Giới Thạch. Bản sao thông cáo của Nhật Bản cũng là hắn mang tới cho tôi lần đó.
Lần nói chuyện đó cùng với ấn tượng về mấy lần duyệt binh của quân đội Nhật khiến tôi tin tưởng sâu sắc rằng quân đội Nhật lớn mạnh, tin tưởng sâu sắc vào sự ủng hộ của quân đội Nhật đối với tôi.
Một lần tôi đến bờ sông Bạch Hà để dạo chơi, nhìn xuống binh hạm của Nhật Bản đậu giữa dòng sông. Không rõ vì sao hạm trưởng binh trạm biết bỗng nhiên tự lên bờ kính cẩn mời tôi xuống tham quan hạm đội của ông ta. Đến chiến hạm, hải quân Nhật xếp hàng chào tôi. Lần đó, do vội vã hai bên đều không chuẩn bị phiên dịch, chúng tôi dùng bút đàm một hồi. Tên binh hạm này là “Đằng”, hạm trưởng họ Hoda. Sau khi tôi quay về, Hoda và một số sĩ quan đến thăm lại tôi. Theo yêu cầu của ông ta, tôi tặng một tấm ảnh có chữ ký. Ông ta bày tỏ đây là vinh hạnh rất lớn của ông ta. Qua sự kiện trên, tôi cảm thấy người Nhật Bản thật sự tôn kính tôi. Sau khi tôi lôi kéo quân phiệt, mua chuộc chính khách, nhiệm dụng khách khanh đều không có hiệu quả gì, vị trí người Nhật Bản trong tâm lý tôi càng thêm quan trọng.
Mới đầu, “Người Nhật Bản”, ba từ đó trong tâm lý tôi là một chỉnh thể. Đó đương nhiên không bao gồm thường dân Nhật Bản, mà là người Nhật Bản của công sứ quán Nhật Bản, tổng lãnh sự quán Nhật ở Thiên Tân và Bộ Tư lệnh quân Nhật Bản đóng ở Thiên Tân cho dến những người Nhật lang thang không phải văn, không phải võ giao thiệp với La Chấn Ngọc, Thăng Sung. Tôi coi họ thành một chỉnh thể vì họ đều “bảo hộ” tôi, coi tôi là một hoàng đế, đều coi thường Dân quốc, ca ngợi đại Thanh. Khi mới đầu tôi nêu ý kiến cần xuất dương đến Nhật Bản, họ đều tỏ ý tán thành và ủng hộ. Năm 1927, do sợ hải quân Bắc phạt đã đến gần, một dạo tôi đã tiếp thu lời khuyên của La Chấn Ngọc, quyết định sang Nhật. Qua sự môi giới của Tổng lãnh sự quán Nhật Bản, Tổng lãnh sự quán xin ý kiến trong nước, nội các Tanaka tỏ ý hoan nghênh và quyết định tiếp đãi tôi theo nghi lễ quân chủ. Theo La Ngọc Chấn nói: Phía quân đội Nhật Bản đã chuẩn bị dùng quân đội bảo hộ tôi khởi hành. Chỉ vì do tình thế hòa dịu, cũng còn do Trần Bảo Thám, Trịnh Hiếu Tế phối hợp can ngăn nên việc đó không thành. Sau đó, chính phủ Quốc dân Đảng ở Nam Kinh được thành lập. Khẩu hiệu chính thức “đả đảo chủ nghĩa đế quốc”, “bãi bỏ hiệp ước bình đẳng” không còn nữa. Tôi dần dần phát hiện: mặc dù sự “tôn kính”, “bảo hộ” của Nhật Bản vẫn chưa thay đổi song trên loại vấn đề như tôi xuất dương, thái độ của họ có sự khác nhau. Sự khác nhau đó thậm chí tới mức tôi hết sức căm phẫn.
Nửa cuối năm 1927, một hôm La Chấn Ngọc nói với tôi: “Tuy tô giới Nhật tương đối an toàn song rút cục là vàng thau lẫn lộn. Theo Bộ Tư lệnh Nhật Bản nói: bọn mật vụ của đảng cách mạng (đó là cách gọi ở Trương Viên gộp Quốc dân Đảng và Đảng Cộng sản làm một) lẫn vào không ít. Sự an toàn của “thánh giá” đáng lo ngại. Thần thấy rằng, vẫn là tạm đi sang phía Đông là hơn, có thể trước hết đến Lữ Thuận. Ở đó, Cung thân Vương có sự chuẩn bị thỏa đáng. Phía quân đội Nhật Bản cũng sẵn sàng giúp đỡ đảm đương trách nhiệm hộ giá. Khi đó tôi lo lắng bàng hoàng về những lời đồn đại về “bọn mật vụ”, nghe lời La Chấn Ngọc, đặc biệt là Phổ Vỹ lại gửi thư tới nên tôi lại một lần hạ quyết tâm xuất hành. Bất chấp lời phản đối của Trần Bảo Thám và Trịnh Hiếu Tế, tôi lập tức bảo Trình Hiếu Tế tới Tổng lãnh sự Nhật Bản, tôi muốn đích thân gặp và bàn với ông ta. Nghe tôi bảo, Trịnh Hiếu Tế sững người hỏi:
- Hoàng thượng gặp Kato Tobametsu, ai làm phiên dịch? là Tạ Giới Thạch ư?
Tôi hiểu ý ông ta. Tạ Giới Thạch là người Đài Loan do Thăng Sung giới thiệu, khi ở Bắc Kinh đã ra vào trong cung. Khi Trương Huân phục tích, đã 12 ngày làm quan chức Bộ Ngoại giao sau đó do người Nhật Bản tiến cử đã làm thư ký bộ hạ Lý Cảnh Lâm. Khi đó, Tạ Giới Thạch theo sát La Chấn Ngọc không những cung cấp tin tức cho tôi về “hành động của bọn mặc thường phục”, đảng cách mạng tiến hành ám sát tôi v.v... Khuyên tôi đến Lữ Thuận lánh nạn cũng có ý kiến của hắn. Trịnh Hiếu Tế rõ ràng không thích người của La Chấn Ngọc làm phiên dịch cho tôi, mà đồng thời tôi biết rằng trên vấn đề quan trọng này... La Chấn Ngọc cũng không thích Trịnh Thùy, con trai Trịnh Hiếu Tế hoặc Lưu Nhượng Nghiệp, cháu ngoại Trần Bảo Thám làm phiên dịch. Nghĩ một chút tôi quyết định:
- Dùng phiên dịch tiếng Anh, Kato biết tiếng Anh.
Tổng lãnh sự Kato và các phó lãnh sự Okamato, Issaku, Shirai đều tới. Nghe tôi nói xong, Kato trả lời.
- Vấn đề bệ hạ nêu ra, tôi chưa thể trả lời ngay, vấn đề này cần phải xin ý kiến của Tokyo.
Tôi nghĩ thầm: đây vốn là việc mà Bộ Tư lệnh Nhật Bản nói với La Chấn Ngọc rằng không có vấn đề. Lại nói, tôi không phải đi Nhật Bản, sao lại phải hỏi Tokyo? Các nhà lưu vong cao cấp ở Thiên Tân cũng có người đến Lữ Thuận nghỉ hè. Họ đi cũng không cần báo Tổng lãnh sự quán Nhật Bản, với tôi sao lại tăng phần phiền phức như vậy? Tôi không hoàn toàn nói ra những điều tôi thầm nghĩ, Kato đã lại nêu thêm một vấn đề nữa:
- Xin hỏi, đây là ý của bệ hạ ư?
- Là ý kiến của tôi. - Tôi trả lời một cách không vui vẻ. Tôi lại nói: - Hiện nay có nhiều tin tức không có lợi với tôi. Tôi ở đây không được yên tâm. Theo Bộ Tư lệnh Nhật Bản nói: hiện nay đảng cách mạng phái tới nhiều mật vụ. Tổng Lãnh sự quán nhất định có tin này chứ?
- Đó là tin đồn, bệ hạ đừng có tin.
Khi nói, Kato mặt không vui. Ông ta nói tình báo Bộ Tư lệnh là tin đồn, khiến tôi cảm thấy rất lạ lung. Tôi đã từng căn cứ vào những tình báo đó yêu cầu ông ta tăng thêm cảnh vệ. Cảnh vệ đã tới ông ta rút cục có tin hay không tin những tin tức đó? Tôi không nhịn được liền nói:
- Tình báo của phía Bộ Tư lệnh sao lại có thể là tin đồn?
Nghe câu nói đó, Kato im lặng hồi lâu. Hai vị phó lãnh sự, không rõ họ có hiểu tiếng Anh không, cọ quậy một hồi trên ghế sô pha.
Cuối cùng Kato nói: “Bệ hạ có thể tin chắc rằng, an toàn không thể có vấn đề, đương nhiên vấn đề xin đến Lữ Thuận tôi xin vâng mệnh đi xin ý kiến chính phủ chúng tôi”.
Hắn nói chuyện này khiến tôi lần đầu tiên cảm thấy giữa Tổng lãnh sự quán và Bộ Tư lệnh Nhật Bản không có sự ăn ý. Tôi cảm thấy lạ lùng và cũng rất bực mình. Tôi gọi La Chấn Ngọc và Tạ Giới Thạch tới hỏi lại. Họ khẳng định nói: phía Bộ Tư lệnh và những người gần gũi Bộ Tư lệnh đều nói như thế. Họ nói:
- Tình báo của Bộ Tư lệnh là rất đáng tin cậy. Về nhất cử nhất động của đảng cách mạng từ trước tới nay là rất rõ ràng. Dù nói thế nào, dù ám sát chỉ là lời đồn cũng cần đề phòng.
Sau đó mấy ngày, Vinh Nguyên, bố vợ tôi báo cáo với tôi: Bạn bè bên ngoái nói với ông, thích khách mật vụ của Phùng Ngọc Tường từ tô giới Anh đến, tình hình rất đáng lo ngại.
Khâu Kế Trung, “người hầu” tôi cũng báo cáo: hắn phát hiện gần cửa lớn có một số người dáng vẻ khả nghi, ngó nghiêng nhìn vào trong vườn.
Nghe những tin đó, tôi vội gọi Đồng Tế Hy, người quản lý tạp vụ và Tố Ngọc Sơn người quản quân bảo vệ…, bảo họ báo với quân cảnh Nhật tăng cường kiểm soát, dặn dò quân bảo vệ chú ý những người lảng vảng bên ngoài và cấm ra vào ban đêm. Ngay hôm sau, tôi nghe một người hầu nói: tối hôm trước vẫn có người ra vào không tuân thủ lệnh cấm của tôi. Tôi lập tức hạ lệnh ghi một lầm lỗi lớn của Đồng Tế Hy và phạt tiền lương (50) những người trái lệnh ra vào để nhắc nhở.
Tóm lại, thần kinh của tôi khá căng thẳng. Có một đêm, trong giấc mộng, tôi bỗng bị một phát súng đánh thức, tiếp đó, lại một phát súng nữa. Tiếng nổ chuyền từ phía sau ngoài cửa sổ tới. Tôi lập tức nhảy khỏi giường, gọi người triệu tập quân bảo vệ. Tôi cho rằng nhất định là mật vụ của Phùng Ngọc Tường tới. Toàn bộ người ở Trương Viên đều thức dậy, quân bảo vệ được bố trí khắp nơi. Quân tuần tiễu Nhật Bản (người Hoa) canh gác cửa lớn tăng cường cảnh giới. Cảnh sát Nhật Bản đóng trong trang viên ra ngoài xem xét. Kết quả, bắt được người bắn súng, tôi không ngờ tới kẻ bắn súng đó là người Nhật.
Hôm sau, Đồng Tế Hy báo cáo với tôi: Người Nhật đó tên là Kishida là phần tử Hội Hắc Long. Cảnh sát Nhật đã giải hắn đến cơ quan cảnh sát Bộ Tư lệnh Nhật Bản lập tức mang hắn đi. Nghe nói như thế, tôi đã hiểu sự việc đến bảy, tám phần.
Đối với nhân vật Hội Hắc Long tôi đã có lần tiếp xúc: Mùa đông năm 1923, tôi đã tiếp kiến Tsukuda Nobuo, nhân vật quan trọng của Hội Hắc Long. Đầu mối dẫn tới cùng là do sự hô hào của La Chấn Ngọc. La Chấn Ngọc nói với tôi: Khắp Nhật Bản đều rất đồng tình với tôi sau khi bị buộc phải ra khỏi cung và tỵ nạn. Nhiều nhân vật quyền thế ở Nhật Bản, bao gồm cả quân đội đều đang vạch kế hoạch giúp tôi phục tích. Hiện nay, Tsukuda, đại biểu của họ đã được cử tới, muốn đích thân bàn bạc với tôi ông ta nói: “quyết không để mất cơ hội, cần lập tức triệu kiến nhân vật này. Tsukuda là người thế nào, tôi vẫn chưa hề nghe tới. Trong phủ Nội vụ có người biết ông ta, nói sau Cách mạng Tân Hợi, ông ta thường lui tới các vương phủ, có một số giao thiệp với các vương công tôn thất. Tin tức của La Chấn Ngọc thúc đẩy tôi song tôi cảm thấy Tổng lãnh sự Nhật Bản là đại biểu chính thức của Nhật, lại là người bảo hộ tôi, lẽ tất nhiên cần mời họ đến cùng bàn bạc. Do đó tôi gọi người thông báo Tổng lãnh sự Nhật Aridahachiro, mời ông ta đến dự. Ai ngờ khi Tsukuda tới, thấy có mặt Aridahachiro lập tức quay người đi ra, khiến Trần Bảo Thám, Trịnh Hiếu Tế có mặt đều vô cùng kinh ngạc. Sau đó Trịnh Hiếu Tế đến trách hỏi ông ta sao lại đám “Vô lễ trước Thánh thượng” như thế, ông tả trả lời: “Mời Aridahachiro tới chẳng phải là không thật lòng đối với tôi hay sao? Đã như vậy, đổi ngày sẽ bàn luận”.
Nay xem lại, hoạt động đó của La Chấn Ngọc cũng như việc nổ súng tạo không khí khủng bố của Kishida là sự tiếp tục hoạt động của Tsukuda. Kiểu hoạt động đó rõ ràng là có Bộ Tư lệnh quân đội Nhật đứng đằng sau.
Sau đó tôi gọi Trần Bảo Thám và Trịnh Hiếu Tế tới nghe quan điểm của họ đối với sự kiện này.
Trịnh Hiếu Tế nói: “Xem ra, hai giới chính trị và quân sự Nhật Bản đều muốn xin bệ hạ ở trong phạm vi thế lực của mình để bảo hộ. Họ tuy không hợp tác cũng không thiệt hại gì cho ta. Tuy nhiên, La Chấn Ngọc làm việc khó tránh hoang đường, cách làm đó của ông ta chỉ có thất bại mà không thể thành công, muôn vàn không thể trọng dụng”.
Trần Bảo Thám nói: “Chẳng kể là Bộ Tư lệnh quân Nhật hay Hội Hắc Long, họ làm việc đều hoàn toàn không có trách nhiệm. Ngoài Công sứ và Tổng Lãnh sự Nhật, ai nói cũng chớ có nghe!”. Tôi cân nhắc một chút, cảm thấy lời họ nói rất có lý nên không nghĩ đến việc yêu cầu Tổng Lãnh sự rời Thiên Tân nữa. Từ đó, tôi cũng không còn hứng thú đối với La Chấn Ngọc. Năm sáu, ông ta bán nhà ở Thiên Tân, chạy lên Đại Liên.
Kể cũng lạ, La Chấn Ngọc vừa đi, tin đồn cũng ít đi. Ngay Vinh Nguyên và Khâu Kế Trung cũng không có tin báo kinh người nữa. Mãi rất lâu về sau, tôi mới biết rõ một đầu mối trong đó.
Đó là người phiên dịch tiếng Anh của tôi nói với tôi. Ông ta là anh em đồng hao của Vinh Nguyên. Do mối quan hệ đó, cũng do ông ta có giao tiếp về công việc phiên dịch đối với Bộ Tư lệnh quân đội Nhật, thăm dò được một chút tình hình bên trong, sau đó tiết lộ với tôi. Thì ra, Bộ Tư lệnh quân đội Nhật chuyên đặt một cơ quan mật vụ, công tác rất lâu ở Trương Viên. Quan hệ với cơ quan này, ít nhất là mấy người La Chấn Ngọc, Tạ Giới Thạch, Vinh Nguyên phiên dịch tiếng Anh của tôi đã được ba người đưa tới một nơi bí mật của cơ quan đặc vụ. Nơi đó bề ngoài gọi là “Sanno công quán”.
Ông ta được họ đưa đi là sau hôm tôi tiếp Kato. Sau khi ông ta làm xong công việc phiên dịch, bị ba người La - Tạ - Vinh giữ lại, thăm dò tình hình hội đàm. La Chấn Ngọc và mấy người nghe nói Kato hoàn toàn không nhiệt tình đối với việc ra đi của tôi, lập tức hoảng hốt. Qua bàn bạc của họ, phiên dịch tiếng Anh nghe được hoàn toàn khác với có người phía Bộ Tư lệnh bày tỏ thái độ dối với La Chấn Ngọc, đó là nói: được, cần đưa tôi đến ở Lữ Thuận. Để báo cáo với người của bộ Tư lệnh về lời nói của Kato, đám ba người La Chấn Ngọc đưa phiên dịch tiếng Anh đến “Sanno Công quán” tìm người đó. Kết quả không tìm thấy mà phiên dịch tiếng Anh lại phát hiện ra nơi bí mật này. Sau đó qua Vinh Nguyên và phía khác, ông ta được biết đó là nơi có khói thuốc phiện, đàn bà và tiền bạc. Vinh Nguyên là khách thường xuyên của nơi này, có lần ông ta thậm chí làm nhục một người được gọi là Okuma, người Nhật Bản. Okuma báo cáo việc đó với Bộ Tư lệnh Nhật Bản cũng không đụng được tới ông ta. Còn về Vinh Nguyên và mấy người cùng “Sanno công quán” có những hoạt động cụ thể như thế nào, Vinh Nguyên cũng không chịu tiết lộ.
Tên đầy đủ của Sanno là Sanno Tomoyoshi. Tôi biết người này, hắn là một thiếu tá của Bộ Tư lệnh thường đi với viên tư lệnh quân đội Nhật đến làm khách của Trương Viên. Khi đó tôi tuyệt nhiên không nghĩ tới, chính là con người này, qua “công quán” của hắn thiết lập quan hệ qua lại rất thân thiết với một số người ở Trương Viên, nắm chắc tình hình trong Trương Viên, khiến bọn người như Vinh Nguyên trong Trương Viên rất vâng lời cho đến về sau qua họ, đưa tin đồn đến tận tai tôi, khiến tôi mấy lần muốn chạy đến Lữ Thuận. Sau khi nghe phiên dịch của tôi tiết lộ một số tình hình của “Sanno công quán” tôi chỉ nghĩ tới việc Bộ Tư lệnh Nhật tốn công lôi kéo đám Vinh Nguyên chẳng qua là để giành giật tôi với lãnh sự quán, sự giành giật của hai phía như vậy đúng như Trịnh Hiếu Tế nói là rất có ích, không có hại đối với tôi.
Sự thật là, hiện tượng cuộc giành giật tôi thấy được cũng như thế. Cuộc giành giật kịch liệt và phức tạp giữa lãnh sự quán và Bộ Tư lệnh không kém những điều xẩy ra giữa các di lão xung quanh tôi. Ví dụ: Bộ Tư Lệnh cử tham mưu mỗi tuần đến nói thời sự với tôi, lãnh sự quán cũng cử Enzan Takeo làm thầy dạy học ở hoàng thất. Mỗi lần lãnh sự quán mời tôi ắt đồng thời mời Trịnh Hiếu Tế, trong lời mời của Bộ Tư lệnh thì không thể thiếu La Chấn Ngọc.
Lãnh sự quán cử sĩ quan cảnh sát Nhật Bản đóng ở Trương Viên còn Bộ Tư lệnh đặt “Sanno công quán” chuẩn bị đàn bà, thuốc phiện,... cho đám người Vinh Nguyên, La Chấn Ngọc, Tạ Giới Thạch, v.v...
Còn về Hội Hắc Long, tôi hiểu được muộn nhất, vẫn là Trịnh Hiếu Tế nói với tôi. Đây là đoàn thể lớn nhất của những người lang bạt Nhật Bản, tiền thân gọi là “Huyền Dương xã” thành lập sau chiến tranh Trung - Pháp do Hiraoka Kotaro, một người Nhật lang bạt sáng lập, là tổ chức đặc vụ tiến hành hoạt động gián điệp lớn nhất ở Trung Quốc. Mới đầu ở Phúc Châu, Yên Đài, Thượng Hải đều có cơ quan lấy Lãnh sứ quán, trường học, quán chụp ảnh làm nơi che dấu như “Đông dương học hiệu” ở Thượng Hải và sau đó là “Đồng văn thư viên” đều như thế. Tên “Hội Hắc Long” có nghĩa là “Vượt qua Hắc Long Giang” xuất hiện năm 1901. Trong chiến tranh Nhật Nga, tổ chức này cũng đã có tác dụng rất lớn, nghe nói lúc đó hội viên Hội Hắc Long lên tới mấy chục vạn người, có số tiền vốn hoạt động rất lớn. Toyama Mitsuru là lãnh tụ nổi tiếng của Hội Hắc Long. Dưới sự chỉ huy của hắn, vây cánh của hắn đã thâm nhập vào các tầng lớp ở Trung Quốc, tức bên cạnh các vương công đại thần cuối Nhà Thanh như bọn Thăng Sung đến bọn đầu cơ tay sai như trong đoàn người hầu ở Trương Viên không có nơi nào không có bọn chúng tiến hành những công việc mưu sâu tính xa. Nhiều nhân vật Nhật Bản nổi tiếng như Doihara, Hirota Koki, Hiranuma Kiichiro, Arita Hachiro và Kazuki Seiji... đều là học trò của Toyama Mitsuru. Theo Trịnh Hiếu Tế nói: Toyama Mitsuru là tín đồ Phật giáo, có bộ râu bạc dài, nét mặt “hiền từ”, bình sinh rất thích hoa hồng, suốt năm không muốn rời vườn hoa của ông ta. Chính là một tín đồ đạo Phật, trong mùi thơm ngào ngạt của hoa hồng, vuốt chòm râu bạc, nét mặt “hiền từ” đã đặt ra những âm mưu hại người và những hung án chưa từng thấy của con người. Trịnh Hiếu Tế về sau có thể thấy được lực lượng của Hội Hắc Long và hệ thống quân đội Nhật Bản cần phải quy công cho La Chấn Ngọc. Trịnh Hiếu Tế, Trần Bảo Thám là ba loại tư tưởng khác nhau. La Chấn Ngọc cho rằng: các quân nhân cũng như các nhân vật Hội Hắc Long đều đáng tin cậy. Trần Bảo Thám cho rằng ngoài Tổng Lãnh sự quán đại biểu chính phủ Nhật Bản, lời những người Nhật Bản đều không thể tin cậy được. Trịnh Hiếu Tế công khai phụ họa Trần Bảo Thám để phản đối La Chấn Ngọc. Mới đầu ông ta cũng hoài nghi đối với Bộ Tư lệnh và Hội Hắc Long song ông ta dần dần qua sự huyênh hoang của La Chấn Ngọc và những việc làm sai trái của Hội Hắc Long thấy rõ động hướng của một số thế lực phía Tokyo, thấy rõ ý đồ thực tại của nhà cầm quyền Nhật Bản, thấy được lực lượng mà ông ta có thể dựa. Vì vậy, cuối cùng ông ta quyết định: tạm thời bỏ kế hoạch mưu tìm các nước cùng quản lý, chuẩn bị hành trang sang phía Đông, đến Nhật Bản tìm Hội Hắc Long và Bộ Tổng tham mưu.
Đề nghị đến Tokyo hoạt động của ông ta được tôi tán thành, được công sứ Yoshizawa đồng ý. Cùng đi với ông ta có một người Nhật tên là Datoho, một người có quan hệ giữa quần chúng và triều đình. Qua sự xắp xếp của con người lang bạt này, ông đã tiếp xúc được với quân đội Hội Hắc Long. Sau đó, ông ta rất hài lòng nói với tôi: triều đình và dân chúng Nhật đều tỏ ý “quan tâm” và “đồng tình” đối với việc phục tích của tôi, và cảm thấy hứng thú đối với chính sách mở cửa của chúng tôi trong tương lai.. Tóm lại, nếu thời cơ đến, chúng ta có thể đưa ra yêu cầu chi viện.
Ở Nhật Bản, ông ta là đại biểu của tôi, được những nhân vật nhiệt tình khôi phục triều Thanh tiếp đãi, trong đó có nhiều người là quen cũ của tôi, ví dụ như Tokada Fuju, nguyên là Tư lệnh quân Nhật đóng ở Thiên Tân, phó lãnh sự Shirai, Takemoto Ohichi là Đại tá, khi ở Bắc Kinh đưa tôi đến doanh trại quân đội Nhật, Kishida, hội viên Hội Hắc Long, là người nổ súng ngoài cửa của tôi, Tsukuda Nobuo, nhân vật quan trọng của Hội Hắc Long, không chịu bàn việc “cơ mật” trước tổng lãnh sự... Chẳng kể ở Trung Quốc họ bất hòa như thế nào, khi đó trái lại đã cùng tiếp đãi rất thân mật “Trịnh đại thần”. Ngoài những nhân vật trước đó đã trực tiếp có mặt, một số nhân vật cỡ lớn vẫn còn trong bí mật nhưng sau đó giữ những chức vụ quan trọng thủ tướng, bộ trưởng... như Konoe Fumimaro, Ugaki Kazushige, Yonai Mitsumasa, Hiranuma Knchiro, Suzuki Kantaro, Minami Jiro cho đến Yoshida Shigeru, còn có một số chính khách tài phiệt nổi tiếng khi đó đều lộ mặt. Có lẽ khi hội đàm với những nhân vật đó “chính sách mở cửa cả nước” của Trịnh Hiếu Tế dẫn tới phản ứng khiến ông ta quá vui mừng. Cho nên sau khi Ngụy Mãn thành lập, đám “khách” đầu tiên đến “mở cửa” ông ta vẫn không quên lý tưởng “cùng quản lý”, khi có dịp là tuyên truyền với bên ngoài về “mở cửa, cơ hội như nhau”. Điều đó giống như người ở ném dây thừng cho kẻ cướp, mở cửa lớn của chủ nhà cho một toán cướp tiến vào, làm người coi việc cho bọn cướp; cảm thấy chưa đủ, còn phát giấy mời cho các toán cướp khác. Như vậy, tự nhiên chọc tức bọn cướp đã vào cửa, co chân đạp ông ta ngã lăn chiêng.
Chú thích:
(50) Khi đó biện pháp quản lý cấp dưới ở Trương Viên, căn cứ lời tâu can của các thầy và lời cầu khẩn của Đồng Tê Hy đã bỏ phạt roi, đổi thành nhẹ thì quỳ, nặng thì phạt trừ tiền lương. (Nguyên chú).