CHƯƠNG IV - (6) Cuộc sống “hành tại” (51)
Sau một thời gian sống ở Trương Viên, tôi cảm thấy hoàn cảnh ở đây thoải mái hơn nhiều so với Tử Cấm Thành ở Bấc Kinh. Tôi cho rằng trừ phi thời cơ phục tích đã chín muồi, hoặc xẩy ra lực lượng bên ngoài không thể chống cự được, tôi ở đây vẫn hơn. Đó cũng là nguyên nhân khiến ý muốn xuất dương của tôi tiêu tan.
Trương Viên (và sau này là Tĩnh Viên) đối với tôi không có những thứ mà tôi không thích như ở Tử Cấm Thành lại hầu như vẫn giữ được mọi thứ cần thiết. Ở Tử Cấm Thành, tôi không thích nhất trước hết là sự gò bó, lúc nào cũng ngồi trên xe, ra phố không được tự do; sau đó là đám người Phủ Nội vụ mà tôi bực mình. Nay tôi đã được tự do, muốn làm gì thì làm, người khác chỉ có việc tâu can chứ không có cách nào can thiệp. Tại Tử Cấm Thành, tôi cho rằng điều cần thiết là sự uy nghiêm của tôi thì ở đây vẫn tồn tại. Tuy nhiên tôi đã không mặc bộ long bào hoàng đế nặng nề, thường xuyên mặc áo thụng, nhiều hơn là mặc âu phục. Song điều đó không ảnh hưởng gì đến việc người khác đến vái chào tôi. Nơi tôi ở, trước đã từng là nơi vui chơi giải trí không có ngói lưu ly, cũng không có cột xà trạm trổ, song vẫn có người gọi đó là “hành tại” (tôi cảm thấy thiết bị phun nước và hơi ấm của nhà lầu dễ chịu hơn nhiều so với điện Dưỡng Tâm). Những người trong tôn tộc ở Bắc Kinh còn muốn trốn đến đây để “trực ban” cho tôi. Gian phòng bán vé của nhà giải trí Trương Viên trước kia cũng như “Phòng thủ vệ của Cấm Thành”. Tuy rằng nơi này không có những căn nhà nổi tiếng như Nam thư phòng, Mao Cần điện, Phủ nội vụ song mọi người vẫn coi tấm biển “Phòng làm việc của Nhà Thanh ở Thiên Tân” là hóa thân của những nhà đó. Còn sự sủng hộ của mọi người đối với tôi, niên hiệu Tuyên Thống sử dụng trong viện càng được giữ gìn chặt chẽ, đối với tôi cũng là sự cần thiết tự nhiên.
Trong thời đại Trương Viên, đại thần Phủ nội vụ chỉ còn lại có một mình Vinh Nguyên, những người khác hoặc ở Bắc Kinh lo liệu, hoặc cáo lão về hưu. Sau khi tôi đến Thiên Tân, những chỉ dụ phát ra đầu tiên có hai bản: “Trịnh Hiếu Tế, Hồ Từ Viện, Dương Chung Nghi, Ôn Túc, Cảnh Phương Hằng, Nghiêm Bích Viêm, Trần Tăng Thọ, Vạn Thăng Thức, Lưu Nhượng Nghiệp đều ở Thiên Tân làm cố vấn”. “Đặt Tổng vụ xứ do Trịnh Hiếu Tế, Hồ Từ Viện phụ trách, Thư vụ xứ do Đồng Tế Hy phụ trách, thu chi xứ do Cảnh Phương Hằng phụ trách, Giao thiệp xứ do Lưu Nhượng Nghiệp phụ trách”. “Trần Bảo Thám, La Chấn Ngọc là “cận thần” gặp hàng ngày”. Họ và các cố vấn mỗi. buổi sáng đến một lần, ngồi ở một gian phòng phía Tây nhà là đợi “triệu kiến”. Ở cạnh cửa lớn có một gian phòng là nơi dành cho những người xin gặp ngồi đợi. Những người đã từng tới đây có quân nhân, chính khách, di lão, các nhân vật “kiểu mới”, tao nhân mặc khách, cho đến thầy thuốc, thày bói. Như thủ lĩnh đảng Thanh niên Khôi Tăng Kỳ, danh thủ quần vợt Lâm Bảo Hoa, chủ bút “Thiên Tân nhật báo” Lưu Tái Công, ủy viên giám sát Quốc Dân Đảng Cao Hữu Đường... đều đã từng gia nhập hàng ngũ Trương Tôn Xưởng, Lưu Phương Trì, tại đây đã đợi “Quan tâu việc” “dẫn kiến”. Cảnh sát Nhật đứng trong trang viên, người Thiên Tân gọi bọn “mũ trắng” đứng ở một gian phòng đối điện, hằng ngày đăng ký những nhân vật lui tới. Mỗi lần tôi ra ngoài là có một cảnh sát Nhật mặc thường phục đi theo.
So với Tử Cấm Thành, tình hình kinh tế ở Trương Viên tất nhiên kém nhiều tuy nhiên tôi vẫn có một khoản tài sản khá lớn. Tôi đã lấy từ trong cung một số lớn đồ vật, một phần đổi thành tiền, gửi ngân hàng nước ngoài lấy lãi, một phần biến thành nhà ở, thu tiền hàng tháng. Ở trong và ngoài cửa quan, tôi lại còn rất nhiều đất đai, tức là sau khi nhà Thanh vào trung nguyên, đã “đua ngựa khoanh đất” tạo ra cái gọi là “tài sản nhà vua”; con số tôi không rõ, đọc tư liệu qua một tờ báo lịch sử, chỉ riêng tài sản nhà vua ở tỉnh Trực Khang đã có khoảng 12 vạn khoảnh. Để xử lý tô tức và tiền bán những đất đai này, Đốc ban tỉnh Trực Khang của chính phủ Dân quốc cùng nhà Thanh lập ra “Tư sản quản lý xứ”, hai bên ngồi tại chỗ chia của, bán một khoảnh, chia một khoản tiền, cũng là một khoản thu nhập. Ngoài ra, như trên tôi đã nói, tôi và Phổ Kiệt mất nửa năm tốn công chuyển ra rất nhiều tranh vẽ, đồ cổ quý giá nay đều trong tay tôi.
Sau khi tôi đến Thiên Tân, ở Bắc Kinh, Phụng Thiên, Thiên Tân vẫn có nhiều nơi cần tiếp tục chi tiêu hàng tháng vì vậy phải đặt ra “Lưu kinh biện sự xứ”, “Lăng miếu thừa biện sự vụ xứ”, “Trú Liêu Ninh biện sự xứ”, “Tôn nhân phủ”, “tư sản quản lý xứ” (cùng nhà đương cục Dân quốc hợp tác tổ chức), “Đông Lăng thủ hộ đại thần” và “Tây Lăng thủ hộ đại thần”... chia nhau quản lý. Tôi tìm được một bản tài liệu trong đó chỉ tính số tiền chi cố định mỗi tháng mấy nơi ở Bắc Kinh và Đông Lăng đã tới 15.837 đồng 8 hào 4 xu. Còn về chi tiêu ở Thiên Tân mỗi tháng khoảng 1 vạn đồng. Số tiền chi lớn nhất là lôi kéo và thu nạp đám quân phiệt vẫn chưa tính vào đây, cũng chưa tính cái khoản xe ô tô, kim cương... Số tiền chi để mua các vật phẩm trong thời kỳ ở Thiên Tân lớn hơn nhiều so với thời kỳ ở Bắc Kinh mà mỗi tháng mỗi tăng như đàn dương cầm, đồng hồ chuông, máy thu thanh, âu phục, giầy da, kính đeo mắt mua liên tục, chẳng biết bao nhiêu. Uyển Dung vốn là một tiểu thư ở Thiên Tân tung tiền mua đồ vật còn nhiều hơn tôi. Cô ta mua thứ gì, Văn Tú cũng nhất định đòi mua. Tôi mua cho Văn Tú, Uyển Dung nhất định lại đòi, mà tiêu tiền càng nhiều thì mình mới tỏ ra là hoàng hậu. Kiểu thi đua mua sắm đó khiến tôi không thể không qui định mức chi tiêu của họ hàng tháng, tất nhiên mức quy định cho Uyển Dung phải nhiều hơn Văn Tú một chút; nhớ được lúc đầu Uyển Dung 1000 đồng, Văn Tú là 800 đồng, sau đó khó khăn giảm xuống còn 300 và 200 đồng. Còn như số tiền tôi đã tự chi tiêu đương nhiên không hạn chế (52).
Do kiểu vung tiền bạc quá xá như vậy, Trương Viên lại xuất hiện tình trạng như Tử Cấm Thành, có lúc không tổ chức được lễ tiết, không trả được tiền thuê nhà, sau đó ngay tiền thù lao “cận thần” và cố vấn cũng không chi được.
Tôi đã tiêu không biết bao nhiêu tiền bạc, mua rất nhiều thứ không dùng đến, cũng đồng thời mua được quan niệm còn mạnh mẽ hơn so với việc Johnston dạy cho tôi đó là mọi thứ của người nước ngoài đều tốt mà so sánh một chút tôi cảm thấy ở Trung Quốc, ngoài đế chế ra, cái gì cũng không tốt.
Mấy thứ giá mấy xu như viên kẹo thơm nhãn hiệu Lưu Lan Hương cũng khiến tôi xuýt xoa cho rằng người Trung Quốc quá ngu xuẩn, người nước ngoài đầy thông minh nhất. Đương nhiên, tôi nghĩ đến người Trung Quốc không phải bao gồm bản thân tôi cho rằng, tự mình đã ngự trên mọi thần dân. Tôi thấy rằng ngay những người nước ngoài thông minh cũng coi tôi như vậy.
Khi đó, tôi ở trong tô giới của người nước ngoài, được sự ưu đãi mà người Trung Quốc tuyệt đối không được hưởng. Ngoài người Nhật Bản, các Tổng lãnh sự Mỹ, Anh, Pháp, Italia, các sĩ quan đóng quân, các ông chủ nước ngoài đối với tôi cũng rất tôn kính, gọi tôi là “hoàng đế bệ hạ”, mời tôi đi duyệt binh trong ngày quốc khánh của họ, tham quan trại lính, tham quan loại máy bay mới, chiến hạm, vào ngày tết năm mới và ngày sinh của tôi đến chúc mừng.
Trước khi rời Thiên Tân, Johnston đã giới thiệu tôi với Tổng lãnh sự và tư lệnh quân đội Anh, sau đó họ luân chuyển giới thiệu các viên tư lệnh các nhiệm kỳ đều không ngớt cùng tôi thù tạc Hoàng tử thứ ba quốc vương Anh đến Thiên Tân đã đến thăm tôi, mang tấm ảnh tôi gửi tặng cho ông. Sau đó vua Anh gửi thư cảm ơn và gửi thư trao cho Tổng lãnh sự Anh mang ảnh của ông đến tặng tôi. Qua tổng lãnh sự Italia, tôi và quốc vương Italia cũng gửi tặng ảnh nhau.
Tôi đã thăm nhiều trại lính, tham dự nhiều cuộc duyệt binh của quân đội nước ngoài. Những quân đội này đóng trên lãnh thổ Trung Quốc là căn cứ theo “Hiệp ước Mậu Tý” của Tây thái hậu - tổ tiên tôi đã thừa nhận. Khi họ diễu võ dương oai đi qua trước mặt tôi, tôi cảm thấy rất đắc ý, cho rằng người nước ngoài đối đãi với tôi như vậy có thể thấy họ vẫn coi tôi là hoàng đế.
Ở Thiên Tân có một người Anh tổ chức một câu lạc bộ “Hương nghệ hội” (Country Club) là nơi ăn chơi sang trọng chỉ cho phép các ông chủ tư bản lớn nước ngoài ra vào, người Trung Quốc hoàn toàn không được bước vào cửa này, chỉ có tôi là ngoại lệ (53). Tôi có thể tự do lui tới, ra vào, có thể đưa người nhà đi theo cùng hưởng mùi vị “Người Trung Hoa đặc biệt”.
Để trang điểm mình giống như một người châu Âu, tôi ra sức lợi dụng quần áo, kim cương của các tiệm buôn bán như công ty Whiteway, Laidlaw & Co. trang điểm cho mình như kiểu một quý tộc nước ngoài trên tạp chí các ông lớn. Mỗi khi ra bên ngoài, tôi mặc âu phục hàng dệt nổi tiếng của Anh, trên cà-vạt cài kim nạm kim cương, cửa tay áo gài khuy kim cương, ngón tay đeo nhẫn kim cương, tay cầm “gậy văn minh”, mặt đeo kính Đức, do hãng Zeiss sản xuất, khắp người sực nức mùi nước hoa, đi theo bên người còn có vài ba con chó béc giê Đức và một thê, một thiếp trang phục lòe loẹt...
Kiểu sống đó của tôi ở Thiên Tân đã gây nên không ít lời bàn tán của Trần Bảo Thám, Hồ Từ Viện và các di lão.
Họ chưa bao giờ phản đối tôi vung tiền mua sắm đồ đạc, cũng không phản đối tôi giao thiệp với ngươi nước ngoài. Nhưng, khi tôi đến cắt tóc ở Công ty Trung nguyên hoặc ngẫu nhiên đi xem kịch, hoặc mặc quần âu phục đến làm khách của trại lính nước ngoài thì họ đều cho rằng quá mất quyền nghi đế vương, không thể không can ngăn. Có lần do can ngăn mà tôi không nghe, Hồ Từ Viện đã viết lời tâu xin cáo lui… Qua mấy lần tôi an ủi giữ lại, thậm chí lấy hai tấm da cáo ban thưởng, bày tỏ quyết tâm nghe lời tâu can ông mới chuyển ý, ca ngợi tôi là “anh chủ” chịu nghe lời tâu can, kết quả hai bên đều hài lòng.
Năm tôi mới tới Thiên Tân, nhân dịp 20 năm ngày sinh của Uyển Dung, Vinh Nguyên bố vợ tôi muốn mời một đội nhạc Tây đến diễn tấu. Di lão Đinh Nhân Trưởng nghe tin vội vã đến can, nói rằng “Tiếng nhạc Tây trong có giọng buồn”, muôn vàn không thể nghe “trong ngày thiên thu của hoàng hậu”, kết quả bãi bỏ nhạc Tây, Đinh Nhân Trưởng được thưởng 200 đồng bạc trắng. Lấy vật chất thưởng bề tôi can, đại thể là bắt đầu từ lần đó.
Từ đó về sau, cho đến khi tôi vào trại giam, tôi không hề ra ngoài xem kịch, cắt tóc. Tôi nghe theo ý kiến của Hồ Từ Viện cũng không phải vì sợ ông lại gây rối mà thật sự do tiếp xúc sự giáo dục của ông, coi việc đến rạp hát xem kịch là việc làm mất tư thế của mình. Có một ví dụ có thể chứng tỏ sự “tiến bộ” của tôi. Sau đó, có một vị Vương tử Thụy Điển đến Thiên Tân, muốn cùng tôi gặp mặt. Do thấy trên báo có ảnh ông ta chụp với Mai Lan Hương (nghệ sĩ Kinh kịch nổi tiếng chuyên đóng vai nữ), cho rằng ông ta mất tư thế, tôi cự tuyệt đề nghị của ông ta, không gặp ông ta.
Các di lão Hồ Từ Viện, Đinh Nhân Trường của phái Trần Bảo Thám, đến thời kỳ sau, hầu như tuyệt vọng đối với việc phục tích, không muốn thăm dò bất cứ suy nghĩ mạo hiểm nào, đó là chỗ khác nhau giữa họ với Trịnh Hiếu Tế, La Chấn Ngọc. Song, đối với sự uy nghiêm của đế vương, họ trái lại hầu như càng xem trọng hơn so với đám Trịnh Hiếu Tế. Đó cũng là nguyên nhân khiến tôi tin cậy các vị lão thần này. Mặc dù ý kiến của họ thường bị coi là câu nệ, khi gặp lúc họ có biểu hiện một lòng trung thành, tôi vẫn luôn thu nhận ý kiến của họ. Vì vậy, trong cuộc tổng kết hết sức mới mẻ của phương Tây, tôi trước sau vẫn không quên thân phận của mình, ghi nhớ vững vàng “quy tắc” của “hoàng đế”.
Năm 1927, Khang Hữu Vi chết, học trò ông là Từ Lượng xin tôi ban thưởng tên hiệu (54), mới đầu tôi nghĩ sẽ ban cho ông ta. Một năm trước khi chết, Khang Hữu Vi thường đến Trương Viên thăm tôi, lần đầu tiên gặp tôi, đã dàn dụa nước mắt rạp đầu trước tôi. Sau đó ông ta tiếp tục vì tôi chạy chọt các nơi, tìm kiếm người ủng hộ phục tích, bảo học trò tuyên truyền rộng rãi trong Hoa kiều ở nước ngoài: “muốn cứu Trung Quốc, phải do vua Tuyên Thống cai trị thiên hạ lập lại đế quốc”. Không lâu trước khi chết, còn hô hào Ngô Bội Phu cũng như các phái đương quyền khác phục tích... Qua những việc làm đó, tôi cho rằng rất đáng đặt cho tên hiệu. Song Trần Bảo Thám đứng ra phản đối. Khi đó theo ông, phân biệt trung hay gian không thể chỉ xem búi tóc, ngay hành động phục tích, thực tế cũng chưa đủ là căn cứ. Ông nói: “Tôn chỉ của Khang Hữu Vi không thuận, có thuyết giữ Trung Quốc, không giữ Đại Thanh. Còn năm xưa ông ta đã chống đối Hiếu Khâm Thái hoàng hậu (Từ Hy) không thể tha thứ được”.
Hồ Từ Viện và những người khác hoàn toàn phụ họa với Trần Bảo Thám. Trịnh Hiếu Tế cũng nói: Quang Tự năm xưa cũng bị Khang Hữu Vi làm hại. Như vậy, tôi lại một lần nữa được “lên lớp” về phân biệt trung, gian, cự tuyệt việc ban tên hiệu cho Khang Hữu Vi. Nghe nói, sau đó Từ Lượng tuyên bố sẽ “lấy nắm đấm gặp gỡ” Trần Bảo Thám, Trịnh Hiếu Tế…
Năm 1931, Văn Tú bỗng nhiên đưa ra yêu cầu ly hôn, sau khi được giải quyết các di lão vẫn không quên một điều: cần ra dụ của hoàng thượng: phạt Thục phi làm dân thường, tôi tất nhiên làm theo.
Nói về đoạn Văn Tú và tôi ly hôn. Tôi nhớ lại sinh hoạt gia đình không bình thường giữa vợ chồng tôi. Đây là nói vấn đề bí mật tình cảm chứ không phải do cuộc sống trống rỗng ở Trương Viên. Thực ra, dù tôi chỉ có một người vợ, người vợ đó cũng không thể cảm thấy có ý nghĩa gì. Vì rằng, sự ham muốn của tôi, ngoài phục tích vẫn là phục tích. Nói thật ra, tôi không hiểu tình yêu là thế nào; với người khác là vợ chồng bình đẳng, còn ở tôi, quan hệ vợ chồng là quan hệ chủ và đầy tớ, thê thiếp là công cụ phục vụ quân vương.
Từ nhỏ Văn Tú được sự giáo dục về tam tòng, tứ đức, chưa đến 14 tuổi bắt đầu cuộc sống “cung phi”, vì vậy quan niệm rất sâu sắc về “quyền vua” và “quyền chồng”. Trong hoàn cảnh đó cô dám đưa ra yêu cầu ly hôn, không thể nói vấn đề đó không phải là việc làm đòi hỏi vô cùng dũng cảm. Văn Tú gạt bỏ muôn vàn khó khăn, thực hiện yêu cầu ly hôn. Sau khi ly hôn, vẫn phải chịu nhiều sức ép. Có người nói, cô đưa ra ly hôn là do sự thúc đẩy của gia đình, là do tham một khoản tiền nuôi dưỡng đáng kể. Sự thật là sự bức hại của gia đình về mặt tinh thần đối với cô ta không ít hơn sự bức hại của bên ngoài. Nghe nói, khoản tiền phí nuôi dưỡng 5 vạn đồng mà cô nhận được, qua sự bớt xén, chiếm dụng, xin giúp đỡ... của luật sư, người trung gian cũng như của người trong gia đình, số còn lại chẳng được bao nhiêu. Còn sự tổn hại về tinh thần mà cô vẫn phải chịu đựng càng lớn. Một người anh cô đã từng đăng một bức thư ngỏ trên “Thương báo” ở Thiên Tân gửi cô, trong đó có đoạn như sau:
“Gia đình tôi chịu ơn sâu của Thánh đế hơn 200 năm, tổ tôn tôi làm đại quan đến nhất phẩm. Còn nhà vua đối với cô không hề có việc gì ngược đãi; mà nếu họ có. ngược đãi, cô cũng cần phải chấp nhận đến chết... Cô theo hầu nhà vua, mình mặc lụa là, miệng ăn thịt cá, có người hầu hạ; tiền lương, tiền mua sắm đồ vật có nơi chi trả, mỗi tháng có tới 200 đồng chi tiêu. Thử hỏi cô. Một người con gái khuê các còn thiếu thứ gì? Là phận vợ lẽ, còn oan nỗi gì?”.
Bức thư ngỏ này một dạo được chuyền đọc trong các di lão. Không rõ tình hình Văn Tú sau này ra sao, chỉ nghe nói cô ta làm một giáo viên tiểu học ở Thiên Tân, mất năm 1950, cuối đời không lấy ai nữa.
Nhìn hiện tượng bên ngoài, Văn Tú bị trong cung xua đuổi. Tuy nhiên, không phải toàn bộ, cũng là một trong những nguyên nhân. Trạng thái tâm lý của Uyển Dung khi đó có thể thấy rõ qua một lời phán truyền khi phụ đồng của cô ta (trong lời phán Kim Vinh Thị là Uyển Dung, Đoạn Thị là Văn Tú).
Lời phán truyền khi phụ đồng của Uyển Dung: (55)
“Ngô tiên sư gọi Kim Vinh Thị nghe ta khuyên: Vạn tuế (tức Phổ Nghi) cùng Vinh Thị thật lòng, không có ý khác. Vinh Thị không nên quá nghi ngờ Ngô tiên sư bảo hộ vạn tuế. Vinh Thị sao này có con cháu, vạn tuế sau này có hy vọng lớn. Vinh Thị nghe lời tiên sư của ta. Vạn tuế cùng Đoan Thị không thật lòng thật ý. Vinh Thị, người hãy yên tâm”.
Nhân thể nói một chút: kiểu phụ đồng khiến người ta buồn cười này cùng với việc xem tướng, bói toán, phê tám chữ... khi đó là hiện tượng xã hội không gì lạ, ở Trương Viên càng là trò chơi không thể thiếu trong đời sống hàng ngày. Sau khi tôi đến ở Tĩnh Viên lại có “đàn cầu đảo” do Lục Tân Hưng đặt trong phòng. Nói một cách đơn giản, khi đó đàn phụ đồng và bói toán đã cho tôi sức mạnh tinh thần, có tác dụng chỉ đạo đối với tôi, chỉ sau sự dạy bảo của các thầy và các bạn thân khác. Từ mặt này tôi thấy được sự cổ vũ và dự báo “năm nào nhập vận”, “tuổi nào đại hiển”. Tôn Học Nhiệm, hội trưởng Thương hội Bắc Kinh tự xưng là người tinh thông bói toán dã dự đoán “ngự dung” của tôi khi nào sẽ “nhập vận”, khi nào sẽ nắm “quyền lớn”. Một vị thầy tướng Nhật Bản trong lãnh sự quán Nhật cũng nói rằng đến năm nào tôi ắt thành việc lớn: Tất cả những cái đó là động lực của tôi quay ngược bánh xe.
Chú thích:
(51) Hành tại: Nơi ở của vua khi ra khỏi cung điện.
(52) Số liệu chi tiêu mỗi tháng như sau:
- Hai thứ phi: 8000 đồng
- Thuần thân Vương: 2800 đồng
- Thái giám tổng quản điện Thọ Hoàng: 72 đồng
- Thái giám trông coi thái miếu: 19 đồng 44
- Phụng tế Đông Lăng: 960 đồng.
- Phụng tế Tây Lăng: 832 đồng.
- Đại thần coi Đông, Tây lăng: 200 đồng
- Vật phẩm tế lễ Thuần hiền Thần vương mỗi quí 266 đồng 4
- Khẩu phần sĩ quan và binh lính gác trang viên: 144 đồng
- Tiền lương trưởng quan và nhân viên ở Biện sự xứ Bắc Kinh: 1932 đồng
- Kinh phí Tôn nhân phủ: 500 đồng
- Tiền ]ương công nhân viên khoảng 4000 đồng
- Uyển Dung, Văn Tú mỗi tháng 1800 đồng
- Tiền nhà: 536.511 đồng
- Tiền điện: 234.914 đồng
- Tiền nước: 61.341 đồng
- Tiền ăn: 215.115 đồng
- Chi cho quân đội: 113.947 đồng
- Điện thoại: 113.947 đồng
- Tiên đi chơi giải trí: 38.364 đồng
- Tiền thưởng: 142.902 đồng
- Tiền mua các đồ vật: 4.128. 754 đồng
- Chi linh tinh: 236.825 đồng
(Nguyên chú)
(53) Về sau cũng cho phép người Trung Quốc tới nhưng chỉ dành cho các nhà tư bản mại bản do hội viên người nước ngoài dẫn vào.
(54) Thời đại phong kiên, đế vương, quý tộc, đại thần... sau khi chết, căn cứ công lao lúc còn sống mà đặt tên hiệu. Ví dụ: Khổng Minh đặt là “Trung vũ”, Nhạc Phi là “Vũ Mục”. (ND).
(55) Hình thức phụ đồng mê tín kiểu như gọi hồn.