CHƯƠNG VI - (5) Ảo tưởng bị tan vỡ
Sau khi rút khỏi Hội Quốc Liên đầu năm 1933, Nhật bản càng tha hồ mở rộng quân bị để chuẩn bị chiến tranh, nhất là khẩn trương bố trí kế hoạch xâm lược toàn diện Trung Quốc và chuẩn bị hậu phương. Trước sự biến mùng 7 tháng 7 (60) Nhật bản liên tiếp dùng vũ lực và gây sự biến tại vùng Hoa Bắc, chính quyền Quốc dân Đảng Nam Kinh từng bước khuất phục, đã ký “Hiệp định Hà Ứng Khâm - Umezu”, “Hiệp định Tần Đức Thuần - Doihara” và các hiệp định khác nhường quyền kiểm soát Hoa Bắc cho Nhật, chấp nhận sự tồn tại và hoạt động của các tổ chức ngụy như “Chính phủ tự trị phòng cộng miền đông Hà Bắc”, “Chính phủ quân sự tự trị Nội Mông” v.v.., mấy lần bày tỏ với Nhật “không những không có hành động và tư tưởng chống Nhật, mà vốn cũng không có lý do gì để chống Nhật”, hơn nữa còn ra lệnh “hoà thuận với láng giềng”, nhấn mạnh sẽ nghiêm trị những ai chống đối với Nhật Bản. Vì thế, thế lực của Nhật Bản tại miền Hoa Bắc được tăng cường nhanh chóng, mọi người đều có thể nhận thấy rằng chỉ cần tới một thời gian nào đó là 5 tỉnh của Trung Quốc sẽ hoàn toàn mất đứt.
Phần trước tôi đã nói, thời kỳ này là lúc bọn mê muội phục hồi ở trong và ngoài Trường thành đang muốn thử sức thực hiện ý muốn của mình, và cũng là thời gian trước sau khi tôi hý hửng lên làm vua lần thứ ba. Song, trong khi Nhật Bản nhe nanh múa vuốt ở phía Trường thành Trung Quốc, thì chúng đồng thời cũng ngày càng có nhiều biện pháp ở “nước Mãn Châu” của chúng. Các biện pháp đó cuối cùng là nhằm chĩa vào tôi lúc đó đang làm “hoàng đế”.
Quá trình thuộc địa hoá hoàn toàn vùng Đông Bắc Trung Quốc phải nói cho công bằng là bọn Hán gian cũng được lợi nhiều bề. Chẳng hạn như việc khôi phục lại chế độ quân chủ, biện pháp này không những khiến bọn mê phục hồi được vừa ý với một mức độ nào đó về mặt tâm lý mà còn là một dịp để bọn chúng phát tài. Các đại thần Hán gian kể từ Trịnh Hiếu Tế trở xuống, mỗi người đều được một khoản tiền thưởng từ 5 vạn đến 60 vạn đồng “công lao dựng nước”, tổng cộng bọn chúng được tất cả là 8 triệu đồng, sau đó cứ mỗi đợt vơ vét lớn chẳng hạn như “dự trữ lương thực”, “quyên góp yêu nước”.. thì từ “tổng lý đại thần” tới ấp trưởng lại một lần nữa được chia “tiền thưởng”. Ở đây tôi không muốn nhắc lại toàn bộ các biện pháp của Nhật Bản mà chỉ muốn nói sơ qua quá trình tư tưởng khôi phục lại sự nghiệp tổ tiên của tôi bị tiêu tan và những sự việc đã làm tôi hết sức ghê rợn.
Lẽ ra, khi quân Quan Đông Nhật Bản chính thức cho tôi biết: khôi phục chế độ quân chủ không phải là khôi phục nhà Thanh, không cho phép tôi mặc áo long bào khi “lên ngôi” và không đếm xỉa gì đến ý kiến của tôi khi quyết định người làm “tổng lý đại thần”, thì tôi phải biết cái “tôn nghiêm” của mình chỉ là thứ giả tạo, song vì quá “say mê” ngôi vua, nên tôi không vì thế mà tỉnh ngộ. Sư việc khiến tôi bắt đầu nếm mùi vị bị tan vỡ phải nói là vụ “Lăng Thăng”.
Lăng Thăng là con của Quý Phúc, thống đốc Mông Cổ, cuối đời Thanh, vốn là cố vấn tổng tư lệnh quân bảo an 3 tỉnh Đông Bắc thuộc Trương Tác Lâm và cố vấn quan Thứ sử Tuyên phủ Mông Cổ. Y là một trong những “đại biểu thỉnh nguyện” ở Lữ Thuận hoạt động cho tôi lên làm vua, vì vậy được liệt vào hàng ngũ những người “có công dựng nước”. Hồi xảy ra vụ này, y là tỉnh trưởng tỉnh Hưng An của ngụy Mãn, mùa xuân năm 1936, bỗng nhiên bị quân Quan Đông Nhật Bản bắt giữ. Theo Yoshioka Yasunori là người do quân Quan Đông phái đi bắt nói thì nguyên nhân Lăng Thăng bị bắt là vì có hoạt động chống “nước Mãn Châu” và Nhật Bản. Song theo tin của Đông Tế Hy nghe được thì trong một cuộc họp liên tịch các tỉnh trưởng, y đã phát biểu những lời kêu ca, do đó khiến người Nhật nổi giận. Nghe nói trong cuộc họp đó y oán trách quân Quan Đông nói và làm không nhất trí. Y nói, hồi ở Lữ Thuận, chính tai y đã được nghe thấy Itagaki nói Nhật Bản sẽ thừa nhận “nước Mãn Châu” là một nước độc lập nhưng sự thật về sau thì việc gì cũng bị quân Quan Đông can thiệp. Y nói, y ở tỉnh Hưng An có chức chứ không có quyền, mọi việc đều phải do người Nhật định đoạt. Họp xong, vừa trở về tới Hưng An thì y ắt bị bắt. Nghe tin này, tôi rất không yên tâm, vì mới nửa năm trước đây thôi tôi đã cùng y kết thành thông gia; em gái thứ tư của tôi đính hôn với con trai của y. Tôi đang do dự có nên nói với bên quân Quan Đông thông cảm cho không thì Ueda Kenkichi, tư lệnh quân Quan Đông vừa nhậm chức và là đại sứ tại nước Mãn Châu tìm đến tôi và nói:
- Mấy hôm trước chúng tôi khám phá ra một vụ án, tội phạm là Lăng Thăng, tỉnh trưởng tỉnh Hưng An mà bệ hạ quen đấy. Y cấu kết với nước ngoài, âm mưu làm phản chống lại Nhật Bản. Toà án quân sự đã điều tra tội chống nước Mãn Châu và chống lại Nhật Bản của y, và tuyên bố y bị tử hình.
- Tử hình? - tôi kinh ngạc.
- Đúng, tử hình. - Y gật đầu nói lại một lần nữa cho phiên dịch của y, có ý nói rõ cho tôi biết rồi quay lại nói với tôi:
- Giết một để răn trăm, bệ hạ ạ. Giết một để răn trăm là điều cần thiết.
Sau khi y về, tham mưu quân Quan Đông lại thông tri cho tôi biết, nên lập tức từ bỏ việc hôn nhân giữa con trai của Lăng Thăng với em gái thứ tư của tôi. Tôi vội vàng tiến hành ngay.
Lăng Thăng bị hành quyết chém đầu. Cùng bị chém còn có vài người thân thuộc của y. Đó là nhân viên quan trọng đầu tiên mà tôi được biết bị người Nhật giết hại, hơn nữa lại là người mới kết thông gia với tôi. Bằng hành động kết thành thông gia với tôi, tôi rất biết Lăng Thăng là người sùng bái tôi nhất và cũng là người trung thành với tôi nhất. Thế nhưng tiêu chuẩn thước đo duy nhất của quân Quan Đông đối với mọi người là thái độ đối với Nhật Bản như thế nào; và khỏi nói, họ cũng lấy tiêu chuẩn thống nhất ấy đối xử với tôi. Nghĩ đến đây, tôi càng thấy câu nói “giết một để răn trăm” của Ueda Kenkichi thật là nham hiểm và đáng sợ.
Việc này làm tôi lại nghĩ đến một việc cách đó không lâu. Ấy là cuối năm 1935, có một số nhân vật như Nhiệm Tố An, đồ đệ của Khang Hữu Vi, Ngô Thiên Bồi, quan tâu việc của tôi trước kia... vì muốn phục hồi nhà Thanh nên thường lui tới hai miền Nam Bắc Trường thành tiến hành hoạt động, đã khiến quân Quan Đông chú ý. Về việc này quân Quan Đông cũng đã từng hỏi tôi để điều tra. “Vụ Lăng Thăng” đã nhắc nhở tôi rằng người Nhật không thích những việc tương tự như thế, hãy nên cẩn thận một chút thì hơn.
Người Nhật thích gì? Tự nhiên tôi lại nghĩ ngay đến một người hoàn toàn khác với số mệnh của Lăng Thăng, đó là Trương Cảnh Huệ. Người Nhật thật sự muốn lấy hai người này làm hai gương cho chúng tôi xem. Một hoạ, một phúc đối chiếu rõ rệt. Sở dĩ Trương Cảnh Huệ được người Nhật ưa chuộng và được thay thế Trịnh Hiếu Tế là vì y có bài bản của y.
Một lần, viên quan Bộ tổng vụ phát biểu cái lý thuyết quái đản “Nhật-Mãn cùng một lòng, một đạo đức” trong một buổi họp quốc vụ để làm căn cứ cho hành động của Nhật Bản cướp bóc tài nguyên khoáng sản của Trung Quốc, sắp hết buổi họp, “Tổng lý đại thần” Trương Cảnh Huệ được mời phát biểu mấy câu. Y nói: “Tôi là ông già thô kệch, không biết chữ, nhưng cũng xin nói vài câu thô kệch vậy. Hai nước Nhật-Mãn ví như hai con chuồn chuồn buộc chung một sợi chỉ”, câu nói đó liền được người Nhật tán tụng một dạo và được lấy làm “câu cách ngôn” để nhắc nhở những quan viên “nước Mãn Châu”. Khi Nhật Bản thi hành chính sách “mở mang đất đai và di dân” ở Đông Bắc (61), “hội nghị quốc vụ” phải thông qua một đạo luật quy định Nhật Bản chỉ cần bỏ ra một phần tư hay một phần năm giá tiền đất đai là có thể mua ruộng đất ở vùng Đông Bắc. Có một số đại thần như Hàn Vân Giai... một là vì sợ dân “nổi loạn”, hai là vì tự mình có nhiều ruộng đất không muốn bị thiệt nên đã tỏ ý phản đối. Lúc ấy Trương Cảnh Huệ đứng ra nói: “Đất đai nước Mãn Châu thiếu gì người Mãn Châu đều là những người quê mùa, không có kiến thức, để người Nhật tới vỡ hoang và dạy cho kỹ thuật, chẳng phải lợi cả đôi bên hay sao? Thế là đạo luật này được thông qua. Câu nói “lợi cả đôi bên” từ đó lại được người Nhật thường xuyên nhắc đến. Về sau, vì tiến hành khẩn trương chính sách “dự trữ lương thực”, lương thực của nông dân Đông Bắc bị trưng mua hết sạch, một số “đại thần” cũng vì giá trưng mua quá thấp mà trực tiếp thiệt hại đến lợi ích của mình nên vin cớ nông dân bị đói kém, yêu cầu “hội nghị quốc vụ” bàn việc nâng cao giá trưng mua. Tất nhiên người Nhật không chịu; và Trương Cảnh Huệ lại nói với mọi người: “Quân đội Nhật Bản không tiếc xương máu, người Mãn Châu chúng ta đóng góp chút lương thực thì có thấm vào đâu. Đói thì thắt chặt dây lưng lại một chút là qua khỏi thôi”. Câu “thắt chặt dây lưng” lại được người Nhật thích nhắc đến nhất, dĩ nhiên họ không phải nói để họ nghe.
Tư lệnh quân Quan Đông thường hay khen ngợi Trương Cảnh Huệ là “thừa tướng tốt” và “người thực hiện Nhật-Mãn thân thiện” trước mặt tôi. Lúc bấy giờ tôi ít nghĩ đến lời nói đó có ý nghĩa gì đối với tôi, nay có “ tấm gương” Lăng Thăng so sánh với Trương Cảnh Huệ, và tôi đã hiểu.
“Vụ Lăng Thăng” đã qua, nhưng việc gặp gỡ giữa tôi và Đức Vương càng làm tôi không yên lòng.
Đức Vương tức Demchukdongrub, người tổ chức ra “chính phủ quân sự tự trị Nội Mông” do Nhật thao túng. Ông vốn là một vương công Mông Cổ. Hồi tôi ở Thiên Tân, ông từng cho tiền tôi, tặng giống ngựa tốt Mông Cổ cho Phổ Kiệt, tìm nhiều cách tỏ ý trung thành với tôi. Lần này ông có việc tìm đến quân Quan Đông cho phép đến thăm tôi. Ông kể tình hình của mình mấy năm qua và tình hình thành lập “chính phủ quân sự tự trị Nội Mông”, bất giác thốt ra những lời kêu ca oán trách người Nhật ở chỗ chúng quá hống hách chuyên quyền. Ông nói trước khi thành lập chính quyền tự trị” quân Quan Đông hứa hẹn nhiều điều, nhưng rồi sau chẳng thực hiện điều nào. Điều làm cho ông khổ não nhất là ông không tự chủ được việc gì cả. Nghe ông nói, tôi cũng phàn nàn kêu ca, thông cảm với ông cùng cảnh huống và an ủi một hồi. Không ngờ hôm sau, Yoshioka, tham mưu liên lạc của quân Quan Đông phái đến làm liên lạc bên cạnh tôi, về sau làm “tùy viên nhà vua” mà tôi sẽ nói ở phần sau, hầm hầm nét mặt tới gặp tôi, hỏi:
- Hôm qua bệ hạ nói gì với Đức Vương thế nhỉ?
Tôi thấy có điểm không tốt, bèn chối bay chối biến rằng đó chỉ là chuyện hàn huyên bình thường thôi.
Y không buông tha, truy hỏi: “Câu chuyện hôm qua tỏ ý gì bất mãn người Nhật không?”.
Trống ngực tôi đánh thình thình. Tôi biết chỉ có cách duy nhất là chối phăng và cách tốt hơn hết là lấy thế lùi thay thế công.
“Có lẽ Đức Vương bịa ra lời gì đó chăng?”.
Yoshioka không hỏi dồn nữa. Song mấy ngày liền, tôi đã rợn tóc gáy, lo lắng vô cùng. Tôi nghĩ việc này chỉ có hai khả năng, nếu không phải là người Nhật đã gài máy nghe trộm trong phòng tôi thì là Đức Vương đã nói hết sự thật với người Nhật rồi. Để tháo gỡ mối lo lắng rối bời ấy, tôi ra công lục tìm xem có chiếc máy nghe trộm đặt trong phòng không, nhưng rút cục chẳng có gì hết. Tôi lại nghi hoặc có lẽ Đức Vương bán rẻ tôi, nhưng cũng chẳng có chứng cứ gì. Hai khả năng này đều không đoán được, nhưng cũng không phủ định được, vì vậy cứ ám ảnh tôi mãi.
Sau này, những việc tôi hiểu càng nhiều hơn “vụ Lăng Thăng” đã dạy cho tôi. Từ đó tôi không tâm sự với bất cứ người nào từ ngoài tới. Đối với bất kỳ người khách nào đến thăm tôi cũng cảnh giác. Sự thật là từ khi tôi diễn thuyết sau khi đi thăm nước Nhật trở về thế ngày càng có ít người chủ động đến gặp tôi, và sau cuộc gặp gỡ với Đức Vương hình như không còn ai đến gặp tôi nữa. Đến năm 1937, quân Quan Đông lại nghĩ ra một qui định mới nghĩa là mỗi lần tôi tiếp ai đều phải có “tùy viên nhà vua” đứng bên cạnh.
Bước sang năm 1937, tôi ngày càng lo lắng.
Trong sáu tháng đầu năm, trước sự biến “mùng 7 tháng 7” xẩy ra, Nhật bản đã tăng nhanh tốc độ chuẩn bị chiến tranh xâm lược toàn diện Trung quốc. Để củng cố ách thống trị ở căn cứ hậu phương của chúng, chúng đàn áp toàn diện phong trào yêu nước chống Nhật của nhân dân Đông Bắc. Ngày 4 tháng giêng, “Hình pháp của đế quốc Mãn Châu” được ban bố theo lệnh của “Hoàng đế Mãn Châu quốc”, kế đó bắt đầu tiến hành các đợt “tố giác” “trừng trị” ráo riết thực hành “liên gia giám sát”, cưỡng bức mọi người phải vào “Hội liên hiệp thân thiện”, bắt dân sửa đường, xây lô cốt, sát nhập thôn ấp... Nhật Bản điều đến 20 sư đoàn quân để đối phó với 45.000 liên quân chống Nhật và không bỏ qua những người chúng cho là “không kiên định”. Cuộc “tố giác” và “trừng trị” ấy không giành được hiệu quả lắm, song tư lệnh quân Quan Đông vẫn khoe với tôi “uy thế và chiến công hiển hách” của quân đội Nhật Bản.
Chưa tới một năm sau, Nhật Bản lại điều binh khiển tướng ào ạt tới (sau này được biết gồm có 70 vạn quân Nhật và 30 vạn quân ngụy) mở đợt “càn quét trừng trị” mới. Cùng thời gian này, theo tâm phúc của tôi là Trưởng ty cảnh vệ Đông Tế Hy cho biết thì, các nơi thường có người bị “mất tích”, hình như những phần tử chống nước Mãn Châu và kháng chiến chống Nhật bắt mãi mà vẫn không hết.
Tôi không bao giờ được nghe thấy tin thật trong những cuộc nói chuyện với tư lệnh quân Quan Đông cũng như trong những báo cáo thường lệ của “Tổng lý đại thần”, chỉ có Đông Tế Hy mới có thể cho tôi biết được một vài sự thật. Y từng nói cho tôi biết, tư lệnh quân Quan Đông nói với tôi tin thắng lợi về “càn quét trừng trị” chưa chắc là đúng. Tin tức cho là “thổ phỉ” cũng khó nói là những người như thế nào. Y nói, y có một vài người bà con bị bắt làm lao công, từng tham gia xây dựng một công trình bí mật, theo người bà con này cho biết, sau khi công trình này hoàn thành, những người lao công đều bị giết sạch, chỉ có người bà con này và người khác may mắn sống sót, trốn được ra ngoài. Theo Đông Tế Hy thì có một lần báo chí thổi phồng một nơi nào đó tiêu diệt được bao nhiêu “thổ phỉ”, nhưng người ấy chính là những lao công bị giết hại.
Câu chuyện của Đông Tế Hy kể xẩy ra không lâu thì Ngô Hãng Nghiệp, người từng làm phiên dịch tiếng Anh cho tôi bị mất tích. Có một hôm Phổ Kiệt đến nói với tôi: Ngô Hãng Nghiệp bị bắt vì đi lại với người Mỹ khi còn làm việc của “nước Mãn Châu” tại Tokyo, và bây giờ đã chết trong trại hiến binh Nhật. Phổ Kiệt còn nói, trước khi chết, Ngô Hãng Nghiệp có nhờ cai tù mang cho Phổ Kiệt một bức thư, nhờ Kiệt xin tôi đi nói hộ, song Kiệt lúc ấy không dám nói với tôi. Nghe vậy, tôi bảo Kiệt đừng nói tiếp nữa.
Trong đoạn thời gian này, tất cả những chính sách và luật pháp do tôi đồng ý ban hành trong đó có nhiều biện pháp cho Nhật Bản tăng cường chuẩn bị chiến tranh và kiểm soát vùng thuộc địa này như “kế hoạch 5 năm lần thứ nhất về khai thác tài nguyên “, “luật kiểm soát tài sản”, hoặc “cải tổ cơ cấu chính phủ” nhằm thích ứng hơn nữa nhu cầu kiềm chế hay quy định tiếng Nhật làm tiếng “quốc ngữ”... đều không làm tôi bị kích động bằng việc hôn nhân của Phổ Kiệt.
Sau khi tốt nghiệp trường con em quý phái Nhật Bản, Phổ Kiệt chuyển vào học trường sĩ quan lục quân. Mùa đông năm 1935, Phổ Kiệt từ Nhật Bản về Trường Xuân với quân hàm trung uý “cấm vệ”. Từ đó, những người trong quân Quan Đông quen biết Phổ Kiệt thường bàn luận với Kiệt về vấn đề hôn nhân, nào là đàn ông phải có đàn bà hầu hạ, nào là phụ nữ Nhật Bản là người vợ lý tưởng nhất trên thế giới. Thoạt đầu nghe Phổ Kiệt nói đến việc này, tôi chỉ cười xoà chứ không để tâm. Không ngờ về sau quân Quan Đông phái Yoshioka, người làm việc ngay bên cạnh tôi đến gặp tôi nói rằng, để xúc tiến quan hệ thân thiết giữa hai nước Nhật Mãn, ý của quân Quan Đông là mong muốn Phổ Kiệt lấy vợ người Nhật Bản. Lúc ấy tôi không tỏ ra đồng ý hay không, nhưng trong lòng rất không yên, tôi vội vàng tìm gặp em gái thứ hai của tôi cùng tìm cách đối phó. Chúng tôi đều nhất trí đây là âm mưu của người Nhật định lôi kéo Phổ Kiệt, muốn Kiệt có một đứa con trai có dòng máu Nhật Bản để khi cần thiết có thể thay thế tôi. Để thủ tiêu ý đồ của quân Quan Đông, tôi quyết định bắt tay ngay vào việc tổ chức lễ cưới cho Phổ Kiệt. Tôi gọi Phổ Kiệt đến, trước hết huấn thị một hồi, sau đó cảnh cáo Kiệt là tôi nhất định tìm cho y một người vợ tốt, nên nghe lời tôi, đừng có nghĩ đến con gái Nhật Bản làm gì nữa. Phổ Kiệt cung kính vâng lời. Tôi bèn phái người đi Bắc Kinh để hỏi vợ cho Kiệt. Về sau, người nhà của bố vợ tôi tìm được một đám cho Kiệt ở Bắc kinh. Kiệt cũng tỏ ra vừa ý nhưng Yoshioka bỗng tìm đến Phổ Kiệt can thiệp một cách ngang ngược. Y nói: quân Quan Đông mong Kiệt lấy vợ Nhật để tăng thêm một tình thân thiện Nhật Mãn, nói Kiệt là em vua thì phải đi đầu làm gương “thân thiện”, đó là ý muốn của quân Quan Đông, tướng Honjo ở Tokyo sẽ đích thân làm mối cho Kiệt, vì vậy không nên tiếp nhận việc hôn nhân ở Bắc Kinh mà nên chờ tin ở Tokyo. Rút cục, Phổ Kiệt buộc phải phục tùng quân Quan Đông.
Ngày 3 tháng 4 năm 1937, Phổ Kiệt thành hôn với Saga Hiro, con gái của hầu tước Saga tại Tokyo. Chưa đầy một tháng sau, theo mệnh lệnh của quân Quan Đông, “Quốc vụ viện nước Mãn Châu” thông qua “luật thừa kế ngôi vua”, lời văn quy định rõ ràng là: sau khi vua mất thì con nối ngôi, nếu không con, không cháu nội thì em trai nối ngôi.
Sau khi Phổ Kiệt và vợ về Đông Bắc, tôi quyết định trong thâm tâm: Không nói một lời tâm sự nào của mình với Phổ Kiệt nữa. Vợ Phổ Kiệt đem thức ăn đến biếu, tôi không ăn miếng nào. Giả sử có ngồi ăn cùng bàn với Phổ Kiệt thì với thứ ăn trên bàn do vợ Kiệt làm, tôi chờ Kiệt gắp ăn trước rồi mới ăn chút ít.
Về sau, khi Phổ Kiệt sắp làm bố, tôi thường thấp thỏm bói quẻ cho mình, thậm chí cũng lo lắng cho em Kiệt của tôi. Tôi biết, những câu trước trong “luật thừa kế ngôi vua” chẳng có gì đáng tin cậy cả; chỉ có câu “con trai của em trai nối ngôi” là có giá trị thôi. Quân Quan Đông chỉ muốn có một vua nước Mãn Châu có huyết thống Nhật Bản, vì vậy hai anh em chúng tôi có thể là vật hy sinh của chúng. Sau nghe nói Phổ Kiệt được con gái, lúc ấy tôi mới thở phào.
Lúc bấy giờ tôi cũng từng nghĩ, nếu như tôi có con trai thì có được an toàn không? Nghĩ cho cùng thì giả sử có con trai thật tôi cũng chưa chắc được lợi ích gì, vì vậy quân Quan Đông đã bảo tôi viết sẵn giấy cam đoan: nếu hoàng tử ra đời thì khi lên 5 tuổi phải đưa sang Nhật cho quân Quan Đông nuôi dưỡng.
Sự việc đáng sợ không phải kết thúc ở đây. Ngày 28 tháng 6, tức là 9 ngày trước khi xẩy ra vụ “hộ quân”.
Cái gọi là “hộ quân” là một đội ngũ do tôi tự bỏ tiền ra nuôi dưỡng. Đội ngũ này không như “cấm vệ quân” thuộc biên chế của “Bộ quân chính”. Lúc đầu xây dựng đội quân này, tôi không phải chỉ nhằm mục đích bảo vệ tôi mà cũng giống như động cơ của tôi phái Phổ Kiệt và các người khác sang Nhật học lục quân là để bồi dưỡng cốt cán quân sự của tôi, nhằm chuẩn bị cho việc xây dựng đội quân do tôi làm lấy. Toàn bộ “hộ quân” gồm 300 người này đều được huấn luyện theo tiêu chuẩn sĩ quan. Đông Tế Hy phụ trách quản lý đội quân này đã sớm cho tôi biết, quân Quan Đông rất không thích đội quân này. Đối với sự nhậy bén của Đông Tế Hy trước đây, tôi vẫn không hiểu nổi, mãi đến khi xẩy ra sự việc tôi mới hiểu.
Ngày 28 tháng 6 đó, một số đội viên hộ quân đi chơi công viên vì mướn thuyền bơi đã cãi nhau với một số người Nhật mặc thường phục. Lúc ấy có một đám người Nhật kéo đến chẳng nói chẳng rằng ẩu đả luôn. Hộ quân bắt buộc phải dùng đến võ thuật chống lại. Người Nhật thấy không làm gì được bèn thả chó ra cắn. Hộ quân đá chết chó, thoát khỏi vòng vây chạy về đơn vị. Họ không ngờ việc này dẫn đến tai họa lớn. Một lát sau một đám hiến binh Nhật đến bên ngoài cổng đòi Đông Tế Hy phải nộp toàn bộ những hội viên “hộ quân” đi chơi công viên hôm đó. Đông Tế Hy sợ quá vội nộp số “hộ quân” ấy cho hiến binh Nhật bắt đi. Hiến binh bắt họ phải nhận có hoạt động “chống Mãn Châu, chống Nhật Bản”. Họ không nhận liền bị nhận cực hình tàn khốc. Lúc đó hội viên “hộ quân” ấy mới hiểu ra sự việc này là do quân Quan Đông cố tình gây nên. Những người Nhật mặc thường phục ấy chính là những người do quân Quan Đông phái đi, trong khi hai bên ẩu đả thì có hai sĩ quan tham mưu của quân Quan Đông bị thương. Chó bị đá chết là chó béc giê của quân Quan Đông. Khi được tin một số “hộ quân” bị bắt, tôi tưởng họ vô ý gây sự vội nhờ Yoshioka Yasunori nói hộ với quân Quan Đông Yoshioka đi được một lát trở lại đem theo ba điều kiện của tham mưu trưởng quân Quan Đông Toihara:
1. Đông Tế Hy phải đi xin lỗi hai sĩ quan tham mưu quân Quan Đông bị thương.
2. Trục xuất những Hộ quân đã gây sự.
3. Đảm bảo sau này không xảy ra những việc tương tự như thế nữa.
Sau khi tôi chấp nhận mọi điều kiện của Toihara, quân Quan Đông kế đó lại buộc tôi phải cất chức Trưởng ty cảnh vệ của Đông Tế Hy và để Nagayoshigôrô, sĩ quan người Nhật thay thế. Hơn nữa, biên chế độ quân thuộc Ty cảnh vệ quản lý phải thu hẹp, súng trường của Hộ quân phải đổi thành súng ngắn.
Trước kia, tôi tùừg phái mấy đợt thanh niên sang Nhật học lục quân để về gây dựng thực lực tôi nhưng không ngờ sau khi về nước, những người này, kể cả Phổ Kiệt đều bị “Bộ quân chính” sắp xếp công việc, còn tôi thì chẳng chi phối được người nào. Và giờ đây, “hộ quân” do tôi nuôi dưỡng làm cốt cán lại hoàn toàn rơi vào tay người Nhật. Từ đó, tôi không còn mộng đẹp nực cười ấy nữa.
Sự biến “mùng 7 tháng 7” bùng nổ quân Nhật đánh chiếm Bắc Kinh, lúc bấy giờ có một số vương công hồi trước ở Bắc Kinh lại muốn hoạt động để được đội mũ quan đời Thanh, song lúc này tôi đã hiểu rõ việc ấy không thể nào thực hiện được. Tư tưởng duy nhất của tôi lúc đó chỉ là làm thế nào để được an toàn trước người Nhật, làm thế nào ứng phó cho tốt “tùy viên nhà vua” Yoshioka Yasunori, hoá thân của quân Quan Đông.
Chú thích:
(60) Ngày 7/7/1937 vin cớ tìm một tên lính mất tích, quân đội Nhật đòi tiến vào lục soát trong thành Uyển Bình ở ngoại ô Bắc Kinh, còn đòi quân đội Trung Quốc rút khỏi Uyển Bình. Tiếp đó, quân đội Nhật đã tấn công Lư Cầu kiều ở ngoại thành Uyển Bình, mở đầu cho việc chúng xâm lăng toàn Trung Quốc - (ND).
(61) Nhật Bản di dân sang vùng Đông Bắc Trung Quốc (ND)