CHƯƠNG VIII - (6) Tai hoạ và hận thù của nhân dân Đông Bắc
Về những tai hoạ mà bọn xâm lược Nhật Bản gây ra đối với nhân dân Đông Bắc, trước kia tôi chưa bao giờ nghe nói thật cụ thể, chưa bao giờ để tâm đến vấn đề này. Tôi cũng biết ít nhiều về sự oán hận của nhân dân Đông Bắc song tôi chỉ nghĩ rằng đó là những việc giữa người Nhật Bản và nhân dân Đông Bắc, không quan hệ gì với tôi. Qua 10 năm, đến ngày nay tôi mới bừng tỉnh, mới cảm thấy thật sự nghiêm trọng.
Nhân viên đoàn công tác đã giành một buổi nói chuyện với chúng tôi về kết quả điều tra một phần tội ác mà bọn xâm lược Nhật Bản đã gây ra tại Đông Bắc.
Khi đó, nghe xong tôi vẫn có chút hoài nghi. Nhân viên đoàn công tác đã đưa ra một số thống kê chưa đầy đủ như: số vụ thảm án, số người bị tàn sát tập thể trong những vụ thảm án, diện tích trồng cây thuốc phiện, số người nghiện thuốc phiện cũng như số lợi nhuận giành được trong buôn bán thuốc phiện v.v... đều là những số liệu mà người ta đã nghe thấy. Tình tiết về những vụ thảm sát, thảm án cũng khiến mọi người kinh sợ. Khi nghe, một mặt tôi cảm thấy dựng tóc gáy, mặt khác lại nghĩ: “Quả thật như vậy sao? Nếu như vậy, không rõ tại sao các em trai, em gái, các cháu và những người hầu không có ai nói gì với tôi?”.
Cho đến sau khi tham gia cuộc họp học tập của các tội phạm chiến tranh Nhật Bản tôi mới không còn hoài nghi về những sự thật đẫm máu ấy.
Đó là lần đầu tiên chúng tôi nhìn thấy những tội phạm chiến tranh Nhật Bản. Về sau, qua báo chí mới biết, số tội phạm chiến tranh Nhật Bản ở Phủ Thuận chỉ là một bộ phận tội phạm chiến tranh Nhật Bản bị giam giữ tại Trung Quốc. Tại cuộc họp này, tuy có mặt nhân viên “đoàn công tác” và trại, trên thực tế do “uỷ ban” của bản thân họ tổ chức. “Ủy ban” do phần lớn các tội phạm chiến tranh Nhật Bản sau khi có giác ngộ về tư tưởng đã bầu ra để quản lý sinh hoạt và học tập của mình. Tại hội nghị này, có mấy chiến phạm Nhật Bản đã nói về kết quả học tập của mình, thành khẩn nói ra nhiều tội ác của mình. Có người còn tố cáo tội ác của người khác. Bằng sự thật, họ trả lời một vấn đề trọng tâm của học tập: chủ nghĩa đế quốc Nhật Bản có phạm tội ác ở Trung Quốc hay không? Toàn thể tội phạm chiến tranh ngụy Mãn chúng tôi dự nghe tại hội nghị. Những lời bộc lộ, và tố cáo gây ấn tượng sâu sắc nhất đến với chúng tôi, khiến chúng tôi cảm thấy bị xúc động là bộc lộ của Furumi Tadayuki, nguyên thủ trưởng Phòng Tổng vụ ngụy Mãn và một đội trưởng hiến binh ngụy Mãn.
Furumi Tadayuki là một người thân tín của Bộ tư lệnh quân đội Nhật Bản, hắn và Takebe Rokuzo (chánh văn phòng tổng vụ) nhận chỉ thị của quân Quan Đông, với địa vị thống trị trên thực tế chính quyền ngụy Mãn đã vạch ra và thực hiện toàn bộ sự thống trị và tước đoạt toàn bộ Đông Bắc. Hắn đã nói một cách cụ thể chính sách di dân khai phá chiếm đoạt ruộng đất của nông dân Đông Bắc, “kế hoạch 5 năm mở mang sản nghiệp” tước đoạt tài nguyên Đông Bắc, chính sách thuốc phiện đầu độc nhân dân Đông Bắc cũng như những bí mật về vơ vét lương thực và các loại vật tư khác của Đông Bắc để chuẩn bị chiến tranh Thái Bình Dương v.v... Hắn cũng đã nói ra những bí mật bên trong của một số hội nghị, nêu ra những con số khiến nhiều người lè lưỡi. Những hậu quả của một số chính sách mà hắn nói tới, mỗi ví dụ đều là một thảm án... Ví dụ năm 1944, trưng dụng hơn 15.000 lao công ở các huyện xây dựng công trình quân sự ở Vương An Lĩnh, do lao động và điều kiện sinh hoạt rất tồi tệ, ăn không no, mặc không ấm dưới trời rét buốt, hơn 6.000 người đã bỏ mạng. Lại ví dụ, để chuẩn bị tác chiến với Liên Xô, tu bổ đường sông Mục Lăng Hà chảy vào hồ Hưng Khải, cũng do những nguyên nhân như thế, hơn 1700 công nhân đã chết.
Tôi nhớ rằng điều hắn nói rõ ràng nhất là chính sách thuốc phiện.
Đầu năm 1933, trước khi phát động hành động quân sự ở Nhiệt Hà, để chuẩn bị cho việc chi tiêu quân sự, quân đội Nhật bản quyết định thi hành chính sách thuốc phiện. Khi đó, chưa kiểm soát được tình hình sản xuất thuốc phiện ở Đông Bắc, số lượng hàng hoá trong tay chưa đủ, quân đội Nhật phải nhập từ nước ngoài hơn hai triệu lạng, đồng thời dùng máy bay rải truyền đơn khắp Nhiệt Hà kêu gọi trồng thuốc phiện.
Sau đó, khoảng năm 1936, chúng mở rộng diện tích trồng ở 7 tỉnh ngụy Mãn, ra sức sản xuất về sau còn bằng hình thức luật pháp xác định độc quyền bán thuốc phiện. Để khuyến khích hút thuốc, các địa phương đều mở quán thuốc phiện có “nữ chiêu đãi viên” lôi cuốn mạnh thanh niên. Năm 1942, “Viện Hưng Á” của Nhật Bản triệu tập “Hội nghị về nhu cầu cung cấp thuốc phiện” ra nghị quyết “do nước Mãn Châu”, và Mông Cổ, Tân Cương cung cấp thuốc phiện trong phạm vi “khối thịnh vượng Đại Đông Á”, do đó lại mở rộng diện tích trồng ở Ngụy Mãn tới 3.000 hécta.
Theo thống kê của Furumi Tadayuki, cho đến khi sụp đổ ngụy Mãn đã sản xuất hơn 300 triệu lạng thuốc phiện. Năm 1938 lợi nhuận thuốc phiện chiếm 1/6 thu nhập tài chính của ngụy Mãn. Năm 1944, lợi nhuận lên tới 300 triệu đồng, gấp 100 lần thời kỳ đầu ngụy Mãn, là một trong những nguồn quan trọng về chi phí quân sự của cuộc chiến tranh xâm lược của Nhật Bản. Số người nghiện thuốc phiện, chỉ một tỉnh Nhiệt Hà đã lên tới khoảng 30 vạn người. Toàn Đông Bắc bình quân 100 dân cư có 5 người nghiện thuốc phiện.
Những điều bộc lộ của đội trưởng hiến binh đều là những sự việc hết sức cụ thể. Mỗi sự kiện mà hắn cung khai đều là một bức tranh đẫm máu.
Hắn đã từng làm đội trưởng hiến binh khu Tây Nam ngụy Mãn. Để đàn áp nhân dân, đội hiến binh thi hành mọi biện pháp khủng bố. Giết người, luôn luôn là tàn sát tập thể, sau khi tàn sát còn triệu tập quần chúng đến xem xác chết. Có lúc, chúng bắt những người mà chúng nghi ngờ đến, xếp thành hàng, bất thình lình chọn ra một người, dùng kiếm chém chết trước mặt mọi người. Riêng bằng cách này bản thân hắn đã giết hơn 30 người.
Những người bị bắt đều chịu mọi hình phạt tra tấn, đánh bằng gậy, bơm nước lạnh, dầu hoả, nước ớt vào mũi, dùng đầu thuốc lá đốt, kìm nung lửa cặp, treo lộn đầu v.v..
Trong tố cáo của một số tội phạm chiến tranh Nhật Bản, tính không xiết những thảm kịch kinh hồn bạt vía. Những tên gây ra những thảm kịch ấy còn tàn bạn hơn cả dã thú. Có một chuyện tôi nhớ được như sau: một bà mẹ trẻ đang ngồi cạnh nồi bếp, cho con bú, một tên hiến binh giằng lấy đứa bé thuận tay ném vào nồi nước sôi trên bếp sau đó hãm hiếp người mẹ, cuối cùng dùng gậy thọc vào âm đạo giết người mẹ chết tươi. Những câu chuyện như vậy, trong thời kỳ đó tại Đông Bắc đã thường xẩy ra ở những nơi mà quân Nhật chiếm đóng.
Sau này, nhân viên kiểm sát không ngừng gửi tới những tài liệu mà nhân dân Đông Bắc tố cáo. Cảnh tượng địa ngục của khu vực Đông Bắc những năm đó ngày càng rõ ràng trước mắt tôi. Cuối cùng tôi hiểu rõ: cùng với việc tôi phục tùng, ve vãn quân Quan Đông, cùng với việc tôi ra sức tìm cách bảo tồn “tôn hiệu” của mình, đã có biết bao người lương thiện không may chết oan uổng, đồng thời cũng hiểu rõ trong khi tôi hết bụng phục vụ kẻ thù, đã có biết bao chiến sĩ yêu nước ngẩng cao đầu, sục sôi nhiệt huyết tiến hành cuộc kháng chiến chống quân thù.
Sự thiệt hại của nhân dân Đông Bắc, nếu như không tính những thứ bọn thống trị Nhật Bản trực tiếp lấy đi, mà chỉ tính những thứ chúng lấy được qua ngụy quyền Hán gian cũng có thể không phải mất công sức đưa ra nhiều ví dụ và số liệu. Ví dụ do hàng loạt pháp lệnh, chính sách, số lương thực mà nhân dân Đông Bắc thu hoạch được hàng năm đều bị tước đoạt hết; đặc biệt là vào cuối thời kỳ ngụy Mãn, nhân dân Đông Bắc chỉ còn cách sống qua ngày bằng bột lõi ngô, khô đậu... Số lương thực bị tước đoạt ngoài phần dành cho quân đội sử dụng, đều vận chuyển về Nhật Bản, số lượng chuyển về Nhật Bản ngày càng tăng. Theo số thống kê chính thức của ngụy quyền Mãn Châu, trong một năm 1944 đã vận chuyển sang Nhật bản 8 triệu tấn. Trong vòng 6 năm cuối cùng của ngụy Mãn số lương thực vận chuyển sang Nhật. Bản tổng cộng là 66 triệu 62 vạn tấn. Với pháp lệnh về lương thực, vải bông, kim thuộc và các loại vật tư khác, nhân dân động một chút là “phạm tội kinh tế”. Ví dụ: tuyệt đối không cho phép người dân thường ăn gạo, dù cho bị phát hiện ăn gạo trong khi nôn mửa cũng bị coi là “phạm tội kinh tế” và bị trị tội. Chỉ trong vòng một năm từ 1944 đến 1945, đã có 31 vạn 7100 người bị coi là “phạm tội kinh tế”. Đương nhiên, những người bị bắt chịu một trận đòn nhừ tử rồi được tha không tính vào số này.
Cùng với việc bị tước đoạt, trưng thu lương thực đất trồng trọt của nông dân Đông Bắc cũng không ngừng bị xâm chiếm. Theo “Điều ước khai thác cây trồng Nhật Bản” Nhật Bản đạt kế hoạch trong vòng 20 năm sẽ di dân từ Nhật Bản đến Đông Bắc 5 triệu người. Kế hoạch này chưa được thực hiện toàn bộ Nhật Bản đã sụp đổ, song trong hai năm cuối cùng đã di dân đến Đông Bắc 39 vạn người, qua ngụy quyền Đông Bắc đã chiếm đoạt từ tay nông dân 36 triệu 50 vạn hécta ruộng đất.
Để xây dựng Đông Bắc thành cán cứ hậu phương, qua ngụy quyền Mãn Châu bọn thống trị Nhật Bản còn thực hành chế độ lao động nô dịch rất dã man gây nên số tử vong kinh người. Từ năm 1938, sau khi lấy danh nghĩa của tôi thực hành “pháp chế thống nhất lao động”, mỗi năm trưng tập 250 vạn người (chưa kể số trưng tập bên trong cửa quan) cưỡng bức lao động không công. Phần lớn đều lao động ở các mỏ và công trình quân sự, điều kiện vô cùng tồi tệ gây nên hàng loạt tử vong. Như năm 1944 trong “xây dựng chống lụt” ở thị trấn Liêu Dương 2500 thanh niên lao động quá sức chưa đến một năm đã có 170 người bị đầy đoạ đến chết.
Quân đội, cảnh sát, toà án, nhà tù ngụy Mãn đàn áp nhân dân Đông Bắc cũng đẫm máu, gây ra không biết bao nhiêu thảm án. Theo một phần tài liệu còn sót lại tìm thấy từ những vụ án chính thức của ngụy Mãn đã thống kê ra hơn 6 vạn quân dân chống Nhật bị ngụy quyền Mãn Châu giết hại, hơn 8.800 cư dân bị giết hại, hơn 3.000 ngôi nhà của dân bị thiêu huỷ. Số thường dân bị cảnh sát, đặc vụ ngụy Mãn giết hại thì không thể thống kê được. Theo thống kê có thể kiểm tra được của 36 vụ án, trong số 5098 nhân sĩ yêu nước và quần chúng không may bị bắt, chỉ có 3 người được tha, 421 người bị tuyên án tử hình, chưa bị xử tử hình đã chết trong nhà tù 213 người, xử tội tù 2177 người; số 2.284 người còn lại mất tích. Thời kỳ ngụy Mãn, Đông Bắc là thế giới của cảnh sát, hầu như thôn nào cũng có cảnh sát. Một cơ quan cảnh sát của huyện là một điện Diêm Vương. Những thảm kịch do nơi này gây ra cũng chẳng khác gì ở địa ngục.
Trong địa ngục sống ấy, dưới cái mũ “chấp chính” “Khang đức hoàng đế”, “Vương đạo lạc thổ” tồn tại trong 14 năm, mọi hành vi tàn bạo đều tiến hành dưới nhãn hiệu “chấp chính” và “hoàng đế”. Mỗi người bị hãm hại đều buộc phải hướng về “lệnh vua” lạy lục, đọc thuộc “chiếu thư”, cảm ơn “thân bang” và ơn ban của hoàng đế.