← Quay lại trang sách

CHƯƠNG VIII - (5) Viết tự truyện và hiến “Của Báu”

Tôi cho rằng viết tự truyện là khúc dạo đầu của xét xử. Đã phải xét xử tức là nói sống chết vẫn chưa định, về mặt này, tôi cần ra sức giành một con đường sống.

Để đối phó xét xử, tôi sớm có tính toán đã định. Ngày vừa tới Cáp Nhĩ Tân, chúng tôi xuống xe, còn chưa vào phòng giam, lúc đó tiểu Cố cháu tôi đến gần tôi, nói nhỏ vào tai tôi: “Hỏi ra, vẫn là cách nói ở Liên Xô”. Tôi khẽ gật đầu.

Cái gọi là cách nói ở Liên Xô là che dấu việc đầu hàng kẻ địch của tôi, nói bản thân mình là người hoàn toàn lương thiện, yêu nước, yêu nhân dân. Tôi biết hoàn cảnh hiện nay khác với thời kỳ ở Liên Xô, tôi cần phải bịa dựng một cách rất nghiêm mật, quyết không đề lộ chút sơ hở.

Lời tiểu Cố hôm đó là đại biểu cho các cháu khác cùng ở với y và Lý lớn người hầu của tôi. Câu nói đó chứng tỏ bọn chúng đã sớm chuẩn bị tốt đồng thời cũng chứng tỏ lòng trung thành của chúng đối với tôi như trước kia. Tuy nhiên, muốn không có sơ hở chỉ dựa vào lòng trung thành vẫn chưa đủ, tôi cảm thấy vẫn còn phải dặn dò một chút đặc biệt là đối với Lý lớn vì hắn là chứng nhân thực tế tận mắt bộ phận then chốt nhất trong bản tự truyện của tôi - Tôi từ Thiên Tân đến Đông Bắc như thế nào?

Trước khi tôi từ Tĩnh Viên trốn đi, y là người trước tiên chuẩn bị hành lý đồ đạc cho tôi. Tôi chui vào hòm sau xe, y là người đậy nắp. Những việc đó nếu để lộ ra thì câu chuyện Doihara dùng sức mạnh bắt đi sẽ chẳng có ai tin được.

Việc này chỉ có lúc nghỉ ngơi, lợi dụng lúc tôi và gia tộc gặp gỡ hợp pháp mới làm được. Tình hình lúc đó so với trước cũng khác. Một số phạm nhân tuổi tương đối trẻ bắt đầu làm một số việc vặt như gánh nước, đưa cơm, giúp nhà bếp v.v.. Gia tộc tôi, ngoài Vinh Nguyên khi đó đã chết, thầy thuốc họ Hoàng do chứng phong thấp viêm khớp thường xuyên nghỉ, số còn lại đều tham giao lao động có tính chất phục vụ này. Thời gian nghỉ, tôi không dễ gặp toàn thể họ. Không người này đi giúp nhà bếp thì người kia đi đưa nước sôi. Tuy nhiên, cũng có mặt tốt tức là họ hành động tương đối tự do, có thể chuyển lời tôi tìm người, tôi đã lợi dụng thuận lợi đó để tiểu Thụy bảo Lý lớn tìm đến.

Lý lớn đến, lễ phép đến gần tôi dáng điệu đợi nghe dặn dò. Tôi hỏi nhỏ hắn:

- Ngươi còn nhớ việc từ Thiên Tân rời nhà chứ?

- Là nói đến quan ngoại ư? cháu là người thu xếp đồ đạc phải không?

- Nếu phía trại hỏi ta rời Thiên Tân như thế nào, người nói hoàn toàn không biết nhé. Ngươi thu xếp đồ đạc là sau khi ta đi biết không?

Lý lớn gật đầu, tỏ ý hoàn toàn lĩnh hội lặng lẽ đi.

Ngày hôm sau, ở trong sân tiểu Thụy cho tôi biết: Lý lớn nhờ báo cáo: tối hôm trước, y và cán bộ họ Giả của trạm nói chuyện phiếm. Y nói với cán bộ họ Giả rằng khi ở Đông Bắc, tôi đối xử với người dưới rất hậu, chưa bao giờ đánh mắng người; lại nói khi ở Lữ Thuận, suốt ngày đóng cửa không gặp người Nhật. Nghe nói như thế, tôi cảm thấy Lý lớn quá bốc, tại sao lại nói đến việc Lữ Thuận! tôi bảo tiểu Thụy nói với hắn: đừng nói nhiều, nếu được hỏi về tình hình Lữ Thuận thì nói không biết gì cả.

Tôi rất hài lòng về sự trung thành của Lý lớn. Tôi đã nắm được vấn đề quan trọng, lại đã dặn dò các cháu, như vậy mới bắt đầu viết bản tự truyện của tôi. Trong bản tự truyện này, tôi viết gia thế của mình, việc Tây thái hậu đã cho tôi làm hoàng đế như thế nào, tôi đã trải qua những năm thơ ấu ở Tử Cấm Thành như thế nào, tôi “hoàn toàn bất đắc dĩ” trốn vào công sứ quán Nhật Bản như thế nào, cuộc sống ẩn dật ở Thiên Tân ra sao, sau đó theo truyền thuyết bên ngoài vứt thánh “bị bắt” và những năm “bất hạnh” ở Trường Xuân. Tôi còn nhớ, cuối cùng tôi viết:

“Thấy nhân dân chịu khổ nạn như thế tự mình không có cách gì, lòng tôi vô cùng đau buồn. Tôi mong quân đội Trung Quốc có thể đánh tới, cũng mong trên quốc tế có sự thay đổi khiến Đông Bắc được giải phóng. Sự mong mỏi đó cuối cùng đã được thực hiện năm 1945”.

Bản tự truyện đó, qua gọt dũa và sửa chữa nhiều lần, cuối cùng gửi lên trên. Từ bài viết này, tôi tin rằng bất cứ ai cũng có thể thấy rõ tôi là một người rất hối hận về tội lỗi.

Sau khi gửi bản tự truyện đi, tôi lại nghĩ chỉ có bản viết đó chưa đủ, cần phải nghĩ cách để phía chính phủ tin rằng tôi “thành thật” và “tiến bộ” mới được. Làm thế nào? dựa vào Lý lớn và bọn chúng thổi phồng ư? điều đó rõ ràng chưa đủ, quan trọng nhất là tự mình phải có thành tích thực tế.

Cứ nghĩ đến thành tích, tôi không ngăn được có chút lo lắng. Từ khi về nước đến nay, không tính lúc trên xe lửa cũng không tính lúc ở Phủ Thuận, chỉ nói từ lúc đến Cáp Nhĩ Tân tôi tham gia trực nhật ở phòng giam đến nay, về thành tích, ngay tự mình cũng không hài lòng, càng không cần nói tới phía trại.

Vốn là các phạm nhân và trưởng trại nói chuyện, mỗi người đều tìm cách chứng minh bản thân mình có “giác ngộ”, coi đó là cách tìm đường sống. Hiện nay nhớ lại, cảm thấy thật đáng cười. Một người khi đó coi sự việc quá đơn giản, hình như chỉ cần giả vờ rất khéo là có thể lừa được chính phủ. Khi tôi mang ảo tưởng này, điều đau buồn nhất là ở chỗ cái gì cũng không bằng người khác.

Khi đó, qua ba mặt: học tập, trực nhật và sinh hoạt, cố gắng thể hiện mình mong giành lòng tin của phía trại. Tổ chúng tôi, về mặt học tập “thành tích” tốt nhất phải kể lão Vương, tổ trưởng của chúng tôi. Ông ta nguyên là thiếu tướng quân pháp ngụy Mãn, học qua mấy năm pháp chính ở Bắc Bình, trình độ văn hoá tương đối cao, đối với danh từ lý luận mới hiểu tương đối nhanh. Ba viên “tướng” khác lúc đầu cũng như tôi, đến “chủ quan”, “khách quan” cũng không phân rõ, tuy nhiên “tiến bộ” cùng nhanh hơn tôi. Khi mở hội nghị thảo luận, họ đều có thể nói một hồi. Sợ muốn chết là sau khi đọc xong chuyên đề “thế nào là xã hội phong kiến”, mọi người phải viết một bài tâm đắc (hoặc gọi là tổng kết học tập) tự mình nói ra cảm tưởng, sự lĩnh hội đối với vấn đề này. Khi thảo luận, tôi còn có thể nói một cách đơn giản, biết đến đâu nói đến đấy, còn viết điều mình tâm đắc thật không dễ dàng. Trong tâm trạng không ổn định, một chữ tôi cũng không viết ra được.

Sau khi đến Cáp Nhĩ Tân, tôi tự động tham gia trực nhật, đây là điều duy nhất chứng minh điểm “tiến bộ”. Công tác trực nhật chỉ là nhận từ ngoài phòng đưa vào ba bữa cơm, nước sôi và lau sàn nhà. Tôi không còn cảm thấy khó chịu, khi đến lượt tôi bắt tay làm ngay. Từ khi sinh ra, lần đầu tiên tôi phục vụ người khác nên cũng xảy chuyện. Khi bưng cơm ăn hầu như đổ cả bát canh xuống đầu người khác. Vì vậy, về sau mỗi lần đến lượt tôi, luôn có người tự động giúp đỡ. Họ một phần do ý tốt, phần khác là do không muốn bị nước canh đổ vào đầu.

Về mặt sinh hoạt, tôi cũng không so sánh được với người khác. Quần áo tôi vẫn không chỉnh tề, sạch sẽ, vẫn phải nhờ tiểu Thụy giặt, vá. Tôi đã từng thử luyện tập tự chăm sóc mình, tự giặt quần áo, song khi tôi làm cho đầy mình ướt át vẫn không khống chế được xà phòng và bàn giặt. Khi tôi đứng trong sân chờ tiểu Thụy, mắt người khác nhìn vào tay tôi cầm quần áo đợi giặt tôi lại cảm thấy xấu hổ.

Nộp bản tự truyện không lâu, tôi bỗng hạ quyết tâm lại thử một lần. Tôi còn nhiều châu báu, đồ trang sức, không kể số tôi giấu ở đáy hòm, ngay số để bên ngoài cũng rất có giá trị. Trong số đó, có một bộ của “báu” do hoàng đế Càn Long khi làm Thái thượng hoàng sử dụng là thứ của báu vô giá. Đó là ba quả ấn điêu khắc bằng đá Điền hoàng thạch liên kết với nhau bằng ba dây xích cũng bằng đá quý, điêu khắc cực kỳ tinh xảo. Tôi không muốn động tới những thứ quý báu giấu dưới đáy hòm, quyết định lấy ba quả ấn ra để chứng mình sự “giác ngộ” của tôi.

Quyết định rồi liền làm ngay. Tôi còn nhớ trước đó có một lần nhân viên trại trên vọng gác tuyên bố tin lục quân chí nguyện giành thắng lợi trong chiến dịch lần thứ năm, không rõ phạm nhân nào đó sau khi nghe lập tức hướng cán bộ yêu cầu sang Triều Tiên tham gia chiến đầu, tiếp đó có một người cũng yêu cầu như vậy, còn có người viết giấy thỉnh nguyện. Đương nhiên phía trại không tiếp nhận. Sau đó tôi có chút oán hận: những người này đã biểu hiện “giác ngộ”, lại thực tế dám nhận sự nguy hiểm thật có tấm lòng. Nghĩ đến sự việc này, tôi quyết định việc này tôi không thể lạc hậu hơn người khác, không nên để họ làm trước mình. Vừa dịp hôm đó nhân viên phụ trách của chính phủ đến kiểm tra qua chấn song sắt nhìn thấy đó là người ở Thẩm Dương bảo tôi đừng lo sợ. Căn cứ việc trại trưởng đi theo sau, tôi đoán rằng ông nhất định là cấp trên của trại trưởng. Tuy nhiên ông ta không mặc quân phục. Tôi cảm thấy đưa cống vật đối với người như thế thì hiệu quả càng tốt. Đợi khi ông đi đến trước phòng giam chúng tôi, tôi vái ông một vái nói:

- Báo cáo ông thủ trưởng, tôi có một thứ muốn hiến dâng chính phủ nhân dân…

Tôi lấy ra chiếc ấn Điền hoàng thạch của Càn Long đưa cho ông ta. Ông ta không đón nhận, chỉ gật gật đầu:

- Ông là Phổ Nghi phải không? Việc này tôi sẽ bàn với trại.

Ông ta lại hỏi mấy câu rồi đi.

Tôi nghĩ, nếu ông nhìn thấy đồ vật của tôi, biết giá trị của nó sẽ không thể lạnh nhạt như thế. Không còn cách nào, tôi chỉ còn gặp trại tiến hành việc này. Tôi viết một bức thư, bọc mấy quả ấn giao cho nhân viên coi giữ nộp trại trưởng.

Sau khi gửi ấn Điền hoàng thạch đi, như đá chìm biển cả, nhiều ngày sau không có tin tức gì. Tôi không nén được sự nghi ngờ: phải chăng nhân viên coi giữ lẩm đi?

Tôi lại phạm bệnh cũ, bụng nghi ngờ thế nào thì tin như thế. Tối hôm đó, người khác đánh cờ, đánh tú lơ khơ còn tôi ngồi một mình nghĩ ngợi ấn Điền hoàng thạch đi đâu, khẳng định rằng nó đã bị tham ô rồi. Tôi cân nhắc xem có nên trực tiếp hỏi trại trưởng không. Lúc đó người coi giữ thấp bé họ Lưu từ phía ngoài đi qua, đứng lại.

- Sao ông không chơi gì? - anh ta hỏi.

- Tôi không biết chơi - tôi đáp.

- Ông học đi, đánh trăm điểm học là biết - anh ta nhiệt tình nói tiếp: - giao ban xong tôi đến dạy ông.

Sau đó một lúc, anh ta quả nhiên mang cỗ bài tú-lơ-khơ đến, ngồi xổm ngoài chấn song sắt hăng hái trang bài.

Bộ ấn Điền hoàng thạch là tôi trao cho anh ta. Tôi vốn có ấn tượng tốt với anh ta song nay hoàn toàn không còn nữa. Tâm tính tôi lúc đó - nay nhớ lại vẫn thấy khổ tâm - đầy căm ghét.

- Tôi không tin là cái này không học được - Lưu giám thị chia bài nói. Anh nói tiếp: - không biết chơi làm sao được? sau này ông lại làm người, sống cuộc sống mới, không biết chơi thì sống làm sao!

Tôi thầm nghĩ: mi thật khéo nói, khéo giả vờ!

“Phổ Nghi cũng không tốt”, chơi cao bằng lão Vương cũng thắng dược, chỉ cần học là học được.

Anh ta châm thuốc, cách tường có người hỏi:

- Ông Lưu, thuốc lá của ông thơm quá.

- Thế nào, chắc là ông lại hết thuốc lá rồi?

Anh ta nhìn về phía tường ngăn. Không biết ai đó lại cười nói: “Tôi hút thuốc rất không có kế hoạch”. Lưu giám thị cười cười, cởi túi thuốc vứt sang: “Được thôi, lấy giấy cuốn một điếu!”

Nếu khi gặp phạm nhân hút hết thuốc lá quy định, viên coi giữ họ Lưu đều cởi túi thuốc đưa cho họ cuốn hút. Việc làm đó vốn khiến tôi không hiểu và nay có sự giải thích: “các người đều là bọn lừa bịp! Ta chẳng tin bộ điệu đó của các người”.

Sự thật là luôn luôn nghĩ cách lừa dối người khác, chẳng ai khác, chính là bản thân tôi làm cho người khác không thể tin được cũng chính là tôi. Sau đó không lâu, trại trưởng nói với tôi ở ngoài sân: “Thư và ấn Điền hoàng thạch của ông tôi đã xem. Những thứ trước kia ông đã đưa ra ở Liên Xô hiện nay cũng đang ở đây, song, với nhân dân mà nói, thứ càng có giá trị hơn là con người, là người đã được cải tạo”.