Một chương mới
Xe lửa rầm rầm chạy. Bên ngoài là bình nguyên phủ đầy tuyết trắng, sáng loá, bao la như cuộc sống mới đang trải ra trước mắt tôi.
Trong xe, trước tôi, sau tôi đều là nhân dân lao động bình thường. Đây là lần đầu tiên trong đời tôi ngồi với họ, cùng trên một chuyến tàu. Tôi sẽ cùng sinh sống với họ cùng xây dựng đất nước, tôi sẽ trở thành một người trong họ, không, hiện nay tôi đã trở thành một người trong học…
Ngày 9 tháng 12, tôi đến thủ đô Bắc Kinh. Đây là thành phố quê hương mà tôi đã xa cách hơn 35 năm. Tại Bắc Kinh huy hoàng tráng lệ, tôi gặp em gái thứ năm hơn mười năm chưa gặp và em trai thứ tư hơn hai mươi năm chưa gặp.
Tay bắt mặt mừng tôi nghe tiếng gọi “anh”.
Trong nửa đời trước của tôi, các em trai em gái của tôi chưa bao giờ gọi như vậy. Từ tiếng gọi này, tôi cảm thấy sinh mệnh mới của tôi cũng bắt đầu trong gia tộc mình.
Chú bốn mang hộ tôi chiếc va li da mầu đen. Em năm và lão Vạn đi hai bên, chúng tôi cùng ra khỏi ga. Ngoài ga, tôi nhìn chiếc đồng hồ lớn treo trên nóc nhà ga, lấy ra chiếc đồng hồ bỏ túi của tôi. Trước khi rời Phủ Thuận, từ trong đống đồ đạc tôi trao hiến chính phủ, trưởng trại lấy ra chiếc đồng hồ này trao cho tôi. Tôi nói: chiếc đồng hồ này trước đây tôi mua bằng tiền bóc lột nay tôi không thể nhận. Trưởng trại nói: hiện nay nhân dân cho ông, ông hãy nhận đi. Đây là chiếc đồng hồ vàng của Pháp năm 1924 tôi đã mua ở cửa hàng Legation Quarter khi tránh Trương Văn Trị trong ngày tôi từ nhà cha tôi chạy vào khu Đông Giao Dân cảng. Từ giờ phút đó, mở đầu lịch sử đáng xấu hổ của tôi. Nay, tôi để nó cũng bắt đầu một cuộc sống mới, theo giờ Bắc Kinh tôi chỉnh lại kim chỉ giờ.
Hôm trưởng trại đưa chiếc đồng hồ cho tôi đã nói cùng mười người chúng tôi được ân xá: các ông về nhà, gặp người nhà và xóm giềng thân thuộc nên xin lỗi họ vì trước kia các ông đã có lỗi với họ. Chỉ cần các ông làm người tốt, thành khẩn phục vụ nhân dân, mọi người xung quanh sẽ tha thứ cho các ông. Tôi đến nhà em năm và lão Vạn, lời nói của trưởng trại hoàn toàn được chứng thực. Mọi người trong nhà đều hoà nhã thân mật với tôi.
Sáng hôm sau, tôi rất muốn cùng bà con xung quanh làm một việc gì đó. Thấy có người cầm chổi quét đường ngõ, tôi tham gia cùng quét. Tôi quét một mạch đến đầu ngõ, khi quay lại không tìm ra nơi mình ở nên đã đi vào một nhà dân. Người nhà này biết rõ sự tình đã nhiệt tình đưa tôi về nhà mình.
Tôi còn gặp chú bảy, dì bảy, anh ruột, em ruột cùng các em gái, em rể... Qua chú bảy, tôi biết lịch sử lịch hưng vượng của gia tộc, biết chú là người phát ngôn của tình hình thị sát các dân tộc thiểu số tại Đại hội đại biểu nhân dân. Tôi được nghe anh lớn chơi đàn cổ cầm, được anh đề chữ tặng, thư pháp của anh rõ ràng đạt tới trình độ mới. Tôi đến thăm cô em thứ hai khi đó đã tổ chức xong nhà giữ trẻ đường phố. Chồng cô là kỹ sư Bưu điện cho biết: em hai luôn bận rộn đến hết cả bệnh đau đầu cũ. Vợ chồng em ba, em tư, em sáu, em bảy tôi đều được gặp. Vợ chồng em ba tham gia học tập ở uỷ ban chính trị hiệp thương khu, em tư công tác ở ngành bảo tàng Cố cung, vợ chồng em sáu là một đôi hoạ sĩ, vợ chồng em bảy (68) là nhà giáo. Càng phấn khởi hơn là thế hệ thứ hai. Ngày tết âm lịch, khăn quàng đỏ nhan nhản trong nhà ngoài sân nhà chú bảy. Trong số đã trở thành thanh niên thế hệ thứ hai tôi thấy có chiến sĩ chí nguyện quân đã có huân chương, nữ quán quân xe môtô Bắc Kinh, đội trưởng đội leo núi, bác sĩ y tá, giáo sư lái xe. Đông hơn cả học sinh trung học và học sinh chuyên nghiệp trung đó có đảng viên cộng sản, đoàn viên thanh niên cộng sản.
Tôi còn gặp các bạn cũ thời trước. Thương Diễn Doanh nằm trên giường nói chuyện với tôi. Ông là nhân viên Quán Văn sử, do bệnh già nói đã thều thào. Gặp tôi, nét mặt ông vẫn có chút nghiêm túc kính cẩn muốn gượng dậy. Tôi nắm tay ông nói: “Ông tuổi cao lại không được khoẻ, nên nằm nghỉ. Chúng ta là người của xã hội mới, quan hệ hiện nay là quan hệ bình thường. Mong ông chóng khoẻ để phục vụ nhân dân”. Vẻ kính cẩn trên gương mặt ông biến mất, ông gật đầu mỉm cười nói “Tôi theo ông”.
Tôi còn gặp những người cũ trước là thái giám, biết được tình hình gần đây của nhiều người. Họ đang ở trong Viện Dưỡng lão do Cục dân chính lập ra để họ dưỡng già.
Ngày đầu tiên khi tôi gặp, mọi người đều nói: “Ông đã trở về, nên đến các nơi tham quan, ông đã dạo qua Bắc Kinh chưa?”. Tôi nói: “Trước tiên tôi ra Thiên An Môn”.
Từ lâu, qua phim ảnh, báo chí cũng như thư nhà tôi đã biết quảng trường Thiên An Môn. Qua màn ảnh, tôi đã thấy các công trình xây dựng, đội ngũ điều hành, hoạt động liên hoan trong ngày lễ. Tôi biết Đại lễ đường nhân dân, công trình rất lớn đã đã xây xong trong mười tháng, biết các khách nước ngoài từ các nước trên thế giới đã cảm động như thế nào khi tới đây. Hôm nay tôi đã đến được nơi mình mơ ước.
Trước mắt tôi, Thiên An Môn nguy nga là nơi chứng kiến lịch sử khổ đau và hạnh phúc của tổ quốc, cũng là nơi chứng kiến Phổ Nghi cũ trở thành Phổ Nghi mới. Bên trái tôi là Đại lễ đường nhân dân uy nghiêm tráng lệ, các việc lớn lao của đại gia đình tổ quốc được quyết định ở đây, trong đó cũng có quyết định tôi được cuộc sống mới. Bên trái tôi là Nhà bảo tàng lịch sử, phía sau tôi sừng sững bia kỷ niệm các anh hùng liệt sĩ cách mạng. Họ nói với mọi người. hơn một thế kỷ nay, có biết bao anh hùng liệt sĩ đang tiến hành đấu tranh gian khổ như thế nào mới cho chúng ta những thành quả ngày nay, mà tôi cũng là một người được hưởng.
Trên quảng trường Thiên An Môn, lần đầu tiên trong đời, tôi dạo bước tràn đầy tự do, an toàn hạnh phúc và tự hào.
Tôi cùng em năm, chú sáu đi chầm chậm về phía Tây. Khi đi tới Cung Văn hoá dân tộc tường tráng nóc xanh, em năm lo lắng nói: “Anh có mệt không? lần đầu tiên đi xa như thế này”. “Lần đầu tiên”, ba từ này chứa chan trong cuộc sống mới bắt đầu. “Lần đầu tiên” là rất không thuận tiện nhưng tôi cảm thấy rất phấn chấn và cũng không vì thế mà có lo lắng gì.
Lần dầu tiên tôi vào quán cắt tóc để cắt tóc. Nói một cách nghiêm túc đây lần thứ hai vì hơn 30 năm trước, tôi đã cắt tóc một lần ở công ty Trung Nguyên tại Thiên Tân. Song lần này sự việc gặp ở quán cắt tóc là lần đầu tiên… Tôi ngồi vào ghế, phát hiện một thứ tôi đã nhìn thấy ở cửa hàng bách hoá Cáp Nhĩ Tân nhưng không biết gọi là cái gì. Tôi hỏi người cắt tóc: “Cái kêu vo vo bên cạnh là cái gì?”. Người cắt tóc nói: “Máy sấy”. Tôi hỏi: “Sấy trước hay cắt tóc trước?” Nghe hỏi anh ta sững người: “Ông chưa cắt tóc bao giờ ư?”. Anh ta còn cho là tôi nói đùa. Sau đó hiểu rõ chúng tôi đều cười ồ. Đến lúc trên đầu tôi có tiếng kêu vo vo, lòng tôi càng vui.
Lần đầu tiên tôi đi xe công cộng làm cho chú sáu bị một trận kinh hoàng. Tôi xếp hàng lên xe, thấy mọi người nhường người già, trẻ em lên trước. Tôi cũng nhường một người đàn bà cạnh tôi lên trước mà tôi không biết đó là người bán vé. Thấy tôi không lên, cô ta liền lên xe, cửa xe đóng lại, xe cũng chuyển bánh. Một lúc sau, chú sáu từ bến xe dưới chạy tới, còn cách xa nhau chúng tôi đã bật cười. Cười xong, tôi chân thành nói với chú sáu: “Không phải lo, chẳng xẩy ra chuyện gì đâu”.
Nhiều người quan tâm tới tôi như vậy tôi còn lo gì?
Ngay sáng hôm đó, từ một cửa hàng gần nhà em ba, tôi đã tìm được chiếc ví hôm qua tôi đánh rơi ở đó. Chẳng lẽ con người tôi lại rơi mất sao?
Để giúp chúng tôi hiểu biết Bắc Kinh, cục Dân chính thành phố Bắc kinh đã tổ chức cho một số người sau khi được ân xá trở về ở Bắc Kinh trong đó có Đỗ Luật Minh, Vương Diệu Vũ, Tống Huy Lâm,... trước đây là tướng của Quốc Dân Đảng đi thăm quan nhiều nơi. Trong khoảng thời gian hai tháng, chúng tôi đã đi xem các nhà máy mới xây dựng, các công trình công cộng cùng các công xã nhân dân của thành phố. Cuối cùng, qua thỉnh cầu của những người cùng đi, chúng tôi đi chơi Cố cung do tôi tạm thời làm nhân viên hướng dẫn giới thiệu.Điều khiến tôi kinh ngạc là cảnh tượng suy bại cũ nát lúc tôi rời Cố cung không còn nữa, khắp nơi đều sơn phết lại như mới. Ngay rèm cửa, song cửa cũng như giường nệm, chăn gối bàn ghế đều mới. Sau khi thăm dò mới biết tất cả đều do công xưởng của Cố cung tự xây dựng phục chế như nguyên trạng. Các loại đồ ngọc, đồ sứ, tranh vẽ, đồ cổ của cố cung, do chính phủ Bắc Dương, chính phủ Quốc Dân đảng cũng như chính tôi lấy đi, nay còn lại rất ít. Tuy nhiên, tôi phát hiện ở đây có nhiều thứ do Nhà bảo tàng mua lại từ sau giải phóng cũng như các nhà sưu tập đồ cổ hiến góp ví dụ, bức tranh “Ngày thanh minh bên sông” của Trương Trạch Thụy trước đây đã do tôi và Phổ Kiệt lấy đi, nay đã mua về được.
Tại Ngự Hoa Viên, tôi thấy các cháu nhỏ vui đùa dưới ánh nắng mặt trời, tại quán trà tôi thấy các cụ già ngồi uống trà. Thoảng thấy hương vị thanh xuân của những cây bách lâu năm tiết ra, tôi cảm thấy ánh nắng mặt trời đây cũng sáng rõ hơn trước. Tôi tin rằng Cố cung sẽ được sống lại.
Tháng 3 năm 1960, tôi được phân phối về Vườn thực vật Bắc Kinh thuộc Sở nghiên cứu thực vật Viện Khoa học Trung Quốc bắt đầu cuộc sống nửa ngày học tập, nửa ngày lao động. Đây là thời kỳ chuẩn bị cho tôi đứng vào vị trí phục vụ nhân dân. Dưới sự hướng dẫn của các nhân viên kỹ thuật, trong nhà ấm tôi học gieo hạt, chăm bón hạt nảy mầm, trồng trọt... Nửa ngày còn lại tôi học tập, có lúc ngồi viết cuốn sách này.
Trong nửa đời trước của tôi, tôi không biết “nhà” là cái gì. Mấy năm cuối ở Phủ Thuận, tôi bắt đầu có cảm giác có “nhà”. Đến vườn thực vật không lâu, tôi cảm thấy có “nhà” lần thứ hai. Tôi sống trong không khí có bạn bè, có người giúp đỡ. Một lần, tôi đi rong chơi ở ngoài về, không tìm thấy chiếc đồng hồ, không tránh khỏi nuối tiếc, cảm thấy đường xa như vậy, không có cách nào tìm thấy. Ông Lưu, nhân viên cùng phòng biết việc này, quên cả nghỉ ngơi, hỏi rõ hơn đường tôi đi và lập tức đi ra. Nhiều người biết tin đến giờ nghỉ cũng bổ đi tìm. Cuối cùng ông Lưu đã tìm thấy nó ở nhà ăn của một đại đội sản xuất thuộc công xã nhân dân “Bốn mùa xanh”. Ông vô cùng vui mừng mang về. Lúc đó tôi cảm thấy không phải nhận lại một chiếc đồng hồ mà là một trái tim.
Mùa hè năm đó. Vườn thực vật thành lập đội dân quân, hàng ngày tiến hành tập luyện. Tôi ghi tên tham gia. Mọi người đều nói tôi tuổi cao quá tiêu chuẩn. Tôi nói “là một thành viên của đại gia đình tổ quốc, tôi cũng cần đứng vào vị trí bảo vệ tổ quốc”, sau đó mọi người bị tôi thuyết phục, tôi tham gia luyện tập, làm một dân binh quá tuổi.
Đứng trong đội ngũ dân quân của Vườn thực vật tôi nghĩ đội ngũ của chúng tôi lớn biết chừng nào. Ở đây có mấy chục người nhưng toàn thể đội ngũ nhân dân là bao nhiêu vạn người. Tôi nghĩ, khi nào mới được xếp vào đội ngũ trùng trùng điệp điệp ấy diễu qua thành Thiên An Môn.
Nguyện vọng này của tôi nhanh chóng được thực hiện. Tôi tham gia đội ngũ cuộc diễu hành của một triệu người chi viện nhân dân Nhật Bản phản đối “hiệp ước an ninh Nhật - Mỹ”. Đây không chỉ là một triệu mà là một bộ phận của triệu triệu người trên toàn thế giới cùng tham gia đấu tranh. Chúng tôi lớn tiếng hô khẩu hiệu, diễu qua quảng trường Thiên An Môn. Trên quảng trường vang tiếng hô của tôi từ đáy lòng.
- Nước CHND Trung Hoa muôn năm!
- Nhân dân toàn thế giới đại đoàn kết muôn năm!
Từ đó tôi bắt đầu hoạt động xã hội, qua hoạt động, tôi cảm thấy mình sát cánh cùng nhân dân toàn quốc, toàn thế giới đấu tranh giành hoà bình, dân chủ, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Ngày 26 tháng 11 năm 1960, tôi cầm lá phiếu bầu cử đầu tiên ghi “Ái Tân Giác La Phổ Nghi”.
Giờ phút bỏ lá phiếu vào thùng phiếu màu đỏ tôi cảm thấy mình là người giàu có nhất trên thế gian.
Tôi cùng 650 triệu đồng bào tôi trở thành người chủ của lãnh thổ 960 vạn kilômet vùng này.
Tháng 3 năm 1961, tôi kết thúc giai đoạn chuẩn bị bước lên cương vị chính thức phục vụ nhân dân, nhận chức vụ chuyên viên Ủy ban nghiên cứu Văn sử của Uỷ ban chính trị hiệp thương toàn quốc. Tôi làm một người công tác Văn sử.
Tôi tham gia công tác ở bộ phận xử lý tư liệu văn sử thời đại cuối triều Thanh và chính phủ Bắc Dương.
Trong công tác của mình, tôi thường xuyên gặp những sự kiện lịch sử của thời kỳ này, tôi và các đồng sự đều là nhân chứng. Từ những tư liệu phong phú, qua công tác của mình, tôi thường xuyên gặp những tên chữ quen thuộc, có khi còn gặp những sự kiện lịch sử trước kia có dính líu đến tôi. Phần lớn những tác giả tư liệu là những người tận mắt nhìn thấy hoặc là sự kiện lịch sử bản thân mình. Đối với lịch sử thời kỳ này, tôi và các đồng sự đều là nhân chứng. Từ những tư liệu phong phú, qua công tác của mình, tôi càng thấy rõ sự thay đổi của thời đại. Những nhân vật đã bị lịch sử gạt bỏ: Diệp hách na-la-thi (Từ Hy), Viên Thế Khải, Đoàn Kỳ Thụy, Trương Tác Lâm... lúc đương thời tựa hồ không thể đội trời chung; nhân dân bị chúng áp bức tàn sát hầu như bó chân bó tay. Những văn nhân nhà Hồ Thích đã từng tâng bốc họ. Di lão, di thiếu đã từng gửi gắm ảo tưởng phục tích vào họ mà bản thân họ càng tự thổi phồng sự lớn mạnh của mình, cho rằng các cường quốc đứng sau họ là chỗ dựa vĩnh cửu. Song, họ đều là hổ giấy cuối cùng bị lịch sử đốt sạch. Lịch sử là nhân dân “xem ra, bề ngoài phái phản động có vẻ đáng sợ, song trên thực tế chúng chẳng có lực lượng gì ghê gớm. Nhìn vấn đề từ quan điểm lâu dài, lực lượng lớn mạnh thật sự không thuộc về phái phản động mà thuộc về nhân dân”. Những kinh nghiệm của tôi khiến tôi tiếp thu chân lý đó. Công tác của tôi khiến tôi càng tin tưởng vào chân lý đó. Tôi còn muốn qua công tác và nhân chứng của bản thân mình tuyên dương chân lý này trước nhân dân.
Lúc rảnh rỗi, tôi tiếp tục viết “Nửa đời trước của tôi”.
Để viết sách, tôi đọc nhiều tài liệu. Đơn vị tôi công tác đã tạo mọi thuận lợi cho tôi, cung cấp cho tôi nhiều tài liệu văn sử quý báu. Được sự giúp đỡ nhiệt tình của các bạn ngoài ngành, tôi được đọc nhiều tài liệu quý báu ở các thư viện, các ngành lưu trữ, có được nhiều tài liệu điều tra chuyên môn. Có tài liệu do các bạn không quen biết sao chép từng câu từng chữ trong những nguyên bản quý báu gửi cho tôi. Có những tài liệu do những đồng chí ở ngành xuất bản đến nơi xa điều tra xác thực để gửi cho tôi. Có tài liệu do mấy cụ già, ghi lại hồi ức chứng kiến tận mắt của mình. Có nhiều tài liệu quý hiếm do ngành lưu trữ thư viện cung cấp. Đặc biệt phải nói tới các đồng chí ở nhà lưu trữ quốc gia, Nhà bảo tàng lịch sử, Thư viện Bắc Kinh và thư viện thủ đô đã đặc biệt tìm mọi cách sưu tầm, tập hợp giúp tôi. Tôi cảm thấy rất áy náy về sự quan tâm và giúp đỡ đó, thực ra ở đất nước chúng tôi điều này từ lâu đã là hiện tượng bình thường.
Ở đất nước tôi chỉ cần làm việc có ích cho nhân dân, chỉ cần tuyên dương chân lý sẽ được khắp nơi quan tâm giúp đỡ chẳng cần phải nói Đảng và Nhà nước.
Tác phẩm tôi viết cũng gây hứng thú đối với nhiều bè bạn nước ngoài. Đã có nhiều nhà báo nước ngoài, khách nước ngoài phỏng vấn tôi, hỏi về quá trình nửa đời trước của tôi, đặc biệt chú ý tìm hiểu tình hình mười năm cải tạo của tôi. Một vị khách Châu Á nói: “Mong rằng sau khi sách xuất bản, ông gửi cho một cuốn, tôi sẽ dịch ra tiếng nước tôi để nhân dân nước tôi thấy được kỳ tích này”. (69)
Năm 1962, chúng tôi giành được thành tựu rực rỡ trong cuộc đấu tranh gian khổ đối với những khó khăn ở trong nước và ngoài nước. Đối với tôi năm đó có càng nhiều việc vui mừng tới cửa. Tháng 4, tôi được mời dự Uỷ ban chính trị hiệp thương nhân dân toàn quốc và được nghe báo cáo của đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc về công cuộc xây dựng đất nước. Ngày 1/5, tôi cùng Lý Thục Hiền vợ tôi xây dựng gia đình nhỏ của chúng tôi. Đây là một gia đình bình thường mà trái lại là thật sự khác thường đối với tôi.
Đây là một chương mới của đời tôi. Cuộc sống mới của tôi bắt đầu như vậy. Nhìn vào nhà tôi, vào thẻ cử tri của tôi, đứng trước tương lai vô cùng rộng mở, tôi mãi mãi không bao giờ quên cuộc sống mới đã giành được như thế nào. Ở đây tôi cần bổ sung một đoạn: về những chuyện về chính sách vĩ đại cải tạo tội phạm, mang lại cuộc sống mới cho tôi, dùng lời cháu Thụy: “không viết vào cuốn sách là không được”.
Tôi đang đứng trên sườn đồi Hương Sơn nhìn về phía Bắc Kinh đang tắm mình trong ánh nắng mặt trời, lòng nhớ lại những biến cố này đến sự việc nọ trong mười năm qua. Tôi nhớ lại ông trưởng trại đầu bạc, phó trưởng trại trẻ giọng nói trong trẻo, tôi nhớ những nhân viên coi giữ, mỗi bác sĩ, y tá, mỗi nhân viên của trại. Khi tôi lừa dối họ, khi tôi tìm mọi cách đáng xấu hổ để chống lại họ, khi tôi hoàn toàn bộc lộ mình ngu xuẩn chẳng biết gì, chẳng có tài cán gì, khi tôi tự cảm thấy tuyệt vọng tột độ, không thể sống được nữa thì họ, những người cộng sản ấy trước sau kiên định rằng ai có thể cải tạo được kiên nhẫn hướng dẫn tôi lại làm người.
“Người”, đó là chữ đầu tiên tôi nhận biết được trong cuốn sách “Tam tự kinh” vỡ lòng. Tuy nhiên trong nửa đời trước của tôi, tôi luôn luôn không hiểu nó. Có người cộng sản, có chính sách cải tạo tội phạm, ngày nay tôi mới hiểu rõ ý nghĩa sâu xa của từ trang nghiêm này, mới thật sự làm người.
Lê Tư Vinh dịch
Chú thích:
(68) Phổ Nghi có 3 em trai và 7 em gái (ND)
(69) Là người dịch hiện nay.