← Quay lại trang sách

◄ 13 ►

Có nhiều người ra ngoài hơn vào đêm thứ sáu và thứ bảy, chí ít là cho tới nửa đêm hoặc một giờ sáng. Chủ yếu là các cặp tình nhân. Sau đó, một cuộc xâm chiếm của những thứ mà cảnh sát trưởng John gọi là tên lửa đường phố có thể sẽ diễn ra, những anh chàng trong những chiếc xe ô tô hoặc xe tải được nâng cấp động cơ, phóng xuống con phố chính vắng vẻ của DuPray với tốc độ sáu mươi hay bảy mươi dặm trên giờ, đua sát nhau và khiến mọi người giật mình thức giấc bởi âm thanh chát chúa của các ống bô xe. Đôi khi, một phó cảnh sát hoặc một cảnh sát bang sẽ chặn lại một trong số chúng và lập biên bản (hoặc tống giam nếu hắn thổi độ cồn tới mức chín), nhưng dù vào những khi có bốn sĩ quan DuPray làm nhiệm vụ trong các đêm cuối tuần thì các vụ bắt giữ cũng tương đối hiếm. Chúng chủ yếu đều chạy thoát.

Tim đến tìm Annie Mồ Côi. Anh thấy bà đang ngồi bên ngoài lều, đan một đôi dép. Dù bị viêm khớp hay không, các ngón tay của bà cử động thoăn thoắt, nhanh như chớp. Anh hỏi bà ta liệu có muốn kiếm hai mươi đô la không. Annie đáp rằng một ít tiền thì luôn hữu dụng, nhưng còn tùy thuộc xem công việc đó là gì. Anh nói với bà, và bà lẩm bẩm.

“Tôi rất sẵn lòng làm việc đó, cậu J. Nếu cậu mang cho tôi hai lọ dưa muối, vậy là được.”

Annie, với phương châm dường như là “đã làm thì làm cho trót”, đã giúp anh đan một băng-rôn dài chín mét và rộng hai mét. Tim gắn nó vào một ống thép do anh tự chế, bằng cách hàn các đoạn ống trong cửa hàng Dịch vụ và Bán hàng Động cơ nhỏ Fromie. Sau khi giải thích với cảnh sát trưởng John những gì anh định làm và được cho phép thử nghiệm nó, Tim và Tag Faraday đã treo ống thép này trên một sợi dây cáp phía trên ngã ba đường của Phố Chính, đầu bên này của sợi cáp được bắt chặt với mặt tiền của quầy thuốc Oberg còn đầu dây bên kia gắn trên rạp chiếu phim đã đóng cửa.

Vào đêm thứ sáu và thứ bảy, vào khoảng thời gian các quán bar đóng cửa, Tim giật mạnh sợi dây và chiếc băng-rôn rủ xuống như một tấm rèm cửa sổ. Ở phía bên kia đường, Annie lôi ra một chiếc máy ảnh lỗi thời. Thông điệp trên băng rôn ghi là: HÃY GIẢM TỐC ĐỘ, NHỮNG KẺ NGU NGỐC KIA! CHÚNG TÔI ĐÃ CHỤP LẠI BIỂN SỐ XE!

Tất nhiên họ không làm vậy (mặc dù Tim đã ghi lại số xe khi anh có thời gian), nhưng băng-rôn của Annie thực sự có vẻ hiệu quả. Dù nó không hoàn hảo, nhưng trong cuộc sống làm gì có chuyện hoàn hảo cơ chứ?

Vào đầu tháng bảy, cảnh sát trưởng John gọi Tim vào văn phòng của ông. Tim hỏi ông ta liệu có phải anh gặp rắc rối gì không.

“Ngược lại”, cảnh sát trưởng John vui vẻ đáp. “Anh làm rất tốt. Tôi đã cho rằng cái ý tưởng băng-rôn đó có vẻ điên khùng, nhưng phải thừa nhận rằng tôi đã sai còn anh thì đúng. Mặc dù, thứ làm phiền tôi không phải là những cuộc đua xe đêm, mà chính là những người dân cứ phàn nàn rằng chúng tôi quá lười để ngăn chặn đua xe. Cũng chính những người này, nhắc nhở anh, là những người bỏ phiếu để tăng lương cảnh sát hằng năm đấy. Nhưng điều tôi phiền muộn nhất là mớ hỗn độn chúng ta phải dọn dẹp, khi một trong những tay đua đó đâm đầu vào cây hoặc bốt điện thoại. Thật tệ khi có người chết, nhưng những người không còn giống như trước sau một đêm hò reo ngu xuẩn... đôi khi tôi nghĩ họ còn ở trong cảnh tệ hại hơn. Nhưng tháng sáu năm nay rất ổn. Hơn cả ổn. Có lẽ đây chỉ là một ngoại lệ so với quy luật chung, nhưng tôi không nghĩ vậy. Tôi nghĩ chính là nhờ cái băng-rôn. Anh hãy nói với bà Annie rằng bà ấy có lẽ đã cứu vài mạng sống nhờ cái băng-rôn đó, và bà ấy có thể ngủ lại trong một phòng giam phía đằng sau vào bất kỳ đêm nào bà ấy muốn, mỗi khi trời lạnh.”

“Tôi sẽ nói cho bà ấy”, Tim nói, “Miễn là ông trữ những lọ dưa muối, bà ấy sẽ thường xuyên ở đó.”

Cảnh sát trưởng John ngả người ra sau. Tiếng ghế phát ra âm thanh thảm thiết hơn bao giờ hết. “Khi tôi nói anh có thừa tiêu chuẩn để làm công việc gác đêm, tôi không ngờ anh lại tuyệt đến vậy. Chúng tôi sẽ rất nhớ anh khi anh chuyển đến New York.”

“Tôi không vội đâu”, Tim nói.