◄ 21 ►
Ngôi sao đó dẫn đường cho Luke chưa nổi ba mươi giây. Ngay khi cậu bước vào những hàng cây, nó đã biến mất. Cậu dừng lại, vẫn có thể thấy một phần Học Viện phía sau mình, qua những tán cây xen kẽ đầu tiên của khu rừng.
Chỉ khoảng hai cây số thôi, cậu tự nói với mình, và mày vẫn có thể tìm thấy đích đến ngay cả khi mày đi chệch hướng một chút, bởi vì bà ấy đã nói với Avery rằng nó lớn. Khá lớn, đúng hơn là thế. Vì vậy hãy đi chậm. Mày thuận tay phải, có nghĩa mày sẽ có xu hướng lệch phải, thế nên hãy cố gắng cân đối lại điều đó, nhưng không được quá nhiều, hoặc mày sẽ đi lệch về bên trái. Và tiếp tục đếm. Một cây số rưỡi sẽ khoảng hai ngàn đến hai ngàn năm trăm bước. Tất nhiên con số gần đúng này tùy thuộc vào địa hình. Và hãy cẩn thận đừng để cành cây chọc vào mắt. Mày đã có đủ lỗ trên cơ thể rồi.
Luke bắt đầu bước đi. Ít nhất không có bất kỳ bụi cây nào cản trở; đây là những cây lâu năm, tạo ra rất nhiều bóng mát phía trên và một tầng dày những thảm cành và lá thông trên mặt đất. Mỗi lần cậu phải đi vòng qua một cây già (có lẽ là cây thông, nhưng trong bóng tối, thực sự ai mà biết được), cậu cố gắng tự định hướng lại và tiếp tục đi thẳng đường, một điều mà giờ đây - cậu phải thừa nhận - phần lớn chỉ mang tính giả thuyết. Nó giống như cố gắng tìm đường qua một căn phòng khổng lồ chứa đầy đồ đạc mà chỉ có thể nhìn thấy mọi thứ loáng thoáng.
Một cái gì đó bên trái cậu phát ra một âm thanh đột ngột và sau đó chạy vụt qua, làm gãy một cành cây và làm rung các cành cây khác. Cậu bé thành thị Luke đứng hình. Đó có phải là một con nai? Chúa ơi, nếu đó là một con gấu thì sao? Một con nai sẽ bỏ chạy, nhưng một con gấu có thể đang đói và cần một bữa ăn nhẹ lúc nửa đêm. Nó có thể đang tiến đến phía cậu ngay lúc này, bị hấp dẫn bởi mùi máu. Chỉ Chúa mới biết cổ Luke và vai áo bên phải của cậu đã thấm nhiều máu như thế nào.
Sau đó, âm thanh biến mất, và cậu chỉ có thể nghe thấy tiếng dế và thỉnh thoảng là tiếng kêu hu-hu của con cú. Cậu đã đi được tám trăm bước khi nghe thấy cái âm thanh dù-nó-có-là-gì. Bây giờ cậu lại bắt đầu bước đi, đưa hai tay về phía trước như một người mù, đếm những bước đi trong đầu. Một nghìn... một trăm hai mươi... có một cái cây, một con quái vật thực sự, những cành cây đầu tiên ở phía trên đầu, quá cao để nhìn thấy, hãy đi vòng qua... một ngàn bốn trăm... năm trăm...
Cậu vấp phải một thân cây đổ và ngã sõng soài. Một cái gì đó, hình như là nhánh của cành cây, đâm vào đùi trái của cậu, và cậu rên rỉ đau đớn. Cậu nằm trên tấm thảm lá cây một lúc, lấy lại hơi thở, và khao khát - đây là một sự suy nghĩ cực kỳ vô lý và chết người - căn phòng của cậu ở Học Viện. Một căn phòng có tất cả mọi thứ và cái gì cũng ở đúng vị trí của nó, và không có động vật nào với kích thước không xác định đâm sầm vào cây. Một nơi an toàn.
“Đúng vậy, cho tới khi không còn an toàn”, cậu thì thầm, đứng dậy, xoa xoa vết rách mới của chiếc quần jean và lớp da bên trong. Ít nhất họ không có chó, cậu nghĩ, khi nhớ đến vài bộ phim đen trắng cũ kỹ về nhà tù, nơi những tù nhân bị xích lại với nhau đã chạy về phía tự do với một bầy chó săn lao theo sau họ. Hơn nữa, những người đó còn ở trong một đầm lầy. Nơi có cá sấu.
Thấy không, Lukey? Cậu như đang nghe thấy Kalisha nói. Tất cả mọi thứ đều tốt đẹp. Cứ tiếp tục đi tới. Đường thẳng. Thẳng nhất có thể.
Đếm đến bước thứ hai nghìn, Luke bắt đầu tìm kiếm ánh sáng phía trước, chiếu xuyên qua những tán cây. Luôn luôn có một chút ánh sáng, Maureen đã nói với Avery, nhưng ánh sáng màu vàng là sáng nhất. Ở bước hai ngàn năm trăm, cậu bắt đầu cảm thấy lo lắng. Đếm đến bước thứ ba ngàn năm trăm, cậu bắt đầu chắc chắn rằng mình đã đi chệch đường, và không phải chỉ chệch chút ít.
Chính là cái cây mình đã vấp ngã, cậu nghĩ. Cái cây chết tiệt. Khi mình đứng dậy, mình hẳn đã đi sai. Với tất cả những gì mình biết, mình đã hướng đến Canada. Nếu những kẻ trong Học Viện không tìm thấy mình, mình cũng sẽ chết trong khu rừng này.
Nhưng bởi vì trở lại không phải là một lựa chọn khả thi (cậu không thể lần ngược lại theo bước chân của mình dù cho cậu có muốn làm vậy), Luke tiếp tục bước đi, dùng tay gạt những cành cây trước mặt để không tạo những vết thương mới. Tai cậu nhói lên.
Cậu không đếm nữa, nhưng có lẽ đã đi được khoảng năm ngàn bước - hơn năm cây số - thì cậu nhìn thấy một ánh sáng màu vàng cam mờ nhạt xuyên qua những hàng cây. Lúc đầu, Luke nhầm đây là ảo giác hoặc một trong những chấm màu, mà sẽ sớm xuất hiện cả một mớ. Hơn chục bước tiếp theo đã chấm dứt mọi lo lắng trong cậu. Ánh sáng màu vàng cam rõ hơn và cùng với hai ánh sáng nữa, nhưng mờ hơn. Đó chắc hẳn là ánh đèn điện. Cậu nghĩ cái sáng hơn là đèn hồ quang natri, loại có trong các bãi đậu xe lớn. Cha của Rolf đã nói với chúng vào một tối khi ông đưa Luke và Rolf đi xem phim tại AMC Southdale, rằng những loại đèn như vậy được cho là để ngăn chặn những vụ buôn lậu và ăn cắp xe hơi.
Luke cảm thấy một sự thôi thúc lao nhanh về phía trước, nhưng đã kìm lại được. Điều cuối cùng cậu muốn làm là lại vấp vào một thân cây đổ khác hay bước vào một cái hố và tự làm gãy chân mình. Bây giờ có nhiều đèn hơn, nhưng cậu vẫn dán mắt vào cái đầu tiên. Sao Bắc Đẩu không tồn tại được bao lâu, nhưng đây là một ngôi sao dẫn đường mới, một ngôi sao tốt hơn. Mười phút sau khi phát hiện ra nó, Luke đã đến bìa rừng. Cách năm mươi mét hoặc hơn một chút là một bãi đất trống có một hàng rào lưới khác. Phía trên hàng rào này có dây thép gai, và có những cột đèn dọc theo nó cách nhau khoảng chín mét. Đèn cảm biến chuyển động, Maureen đã nói với Avery. Bảo Luke phải tránh xa. Đó là lời khuyên cậu gần như không cần đến.
Phía bên kia hàng rào là những ngôi nhà nhỏ. Rất nhỏ. Chẳng đủ chỗ để nhét một con mèo, bố của Luke có lẽ sẽ nói vậy khi trông thấy. Nơi ấy chỉ có thể có tối đa ba phòng, và có lẽ chỉ hai. Cũng đều như nhau. Avery nói bà Maureen gọi đây là làng, nhưng với Luke nó trông giống một doanh trại quân đội hơn. Những ngôi nhà được xếp thành từng lô bốn căn, giữa mỗi lô có một đám cỏ. Một vài ngôi nhà sáng đèn, có lẽ những người tử tế đã để đèn phòng tắm để họ không bị vấp ngã nếu phải thức dậy và đi vệ sinh.
Chỉ có một con đường duy nhất, và cuối đường là một tòa nhà lớn hơn. Ở hai bên tòa nhà này là một bãi đậu xe nhỏ, đầy ô tô và xe bán tải đỗ sát cạnh nhau. Luke ước tính có tất cả ba mươi hoặc bốn mươi xe. Cậu nhớ mình đã tự hỏi nhân viên Học Viện để xe ở đâu. Giờ thì cậu đã biết, mặc dù thức ăn được cung cấp như thế nào vẫn còn là một bí ẩn. Đèn hồ quang natri nằm trên một cây cột trước tòa nhà lớn và nó chiếu xuống hai cây xăng. Luke nghĩ rằng nơi này gần giống một loại cửa hàng nào đó, phiên bản PX [88] của Học Viện.
Vậy là bây giờ cậu đã hiểu thêm một chút. Các nhân viên có thể nghỉ phép - Maureen đã có một tuần để quay lại Vermont - nhưng chủ yếu là họ ở lại đây, và khi đó, họ sống trong những ngôi nhà nhỏ nhếch nhác kia. Lịch làm việc có thể được sắp xếp so le để họ cùng ở lại những chỗ này. Khi cần giải trí, họ sử dụng các phương tiện cá nhân và lái xe đến thị trấn gần nhất, mà tình cờ là Khúc Sông Dennison.
Người dân địa phương chắc chắn sẽ tò mò muốn biết những người đàn ông và phụ nữ này định làm gì ở trong rừng, họ sẽ đặt câu hỏi, và phải có vài câu chuyện để che đậy. Luke không biết câu chuyện là gì (và lúc này không quan tâm), nhưng chắc chắn nó khá bài bản để có thể che giấu được trong nhiều năm như vậy.
Hãy đi đọc hàng rào. Và tìm một chiếc khăn len.
Luke cất bước, hàng rào và ngôi làng ở bên trái cậu, bìa rừng ở bên phải. Một lần nữa cậu phải kìm lòng cái thôi thúc muốn tăng tốc, đặc biệt là bây giờ, khi cậu đã có thể nhìn thấy rõ hơn một chút. Thời gian hai đứa trẻ nói chuyện với bà Maureen phải thật ngắn, một phần vì nếu nịnh nọt quá lâu có thể gây nghi ngờ, và một phần vì Luke sợ việc dụi mũi quá lộ liễu của Avery có thể khiến trò chơi này kết thúc. Kết quả là cậu không biết chiếc khăn len có thể nằm ở đâu, và cậu sợ sẽ đi qua nó.
Thế nhưng hóa ra không có vấn đề gì. Maureen đã buộc khăn vào một cành thấp của cây thông cao, ngay trước nơi mà hàng rào an ninh xoay một góc trái khỏi khu rừng. Luke gỡ nó xuống và buộc quanh thắt lưng mình, không muốn để lại một dấu vết quá rõ ràng cho những kẻ sẽ sớm đuổi theo cậu. Nghĩ vậy khiến cậu tự hỏi bà Sigsby và Stackhouse sẽ mất bao lâu để phát hiện ra, và nhận ra ai đã giúp cậu trốn thoát. Chắc sẽ không lâu, có lẽ vậy.
Hãy nói hết với họ, bà Maureen, cậu nghĩ. Đừng để họ tra tấn bà. Bởi vì nếu bà cố gắng giữ kín, họ sẽ làm như vậy, mà bà đã quá già và quá ốm yếu để bị ngâm ở bể.
Ánh đèn sáng ở tòa nhà mà có lẽ là một cửa hàng công ty [89] lúc này cách cậu khá xa, và Luke phải đi loanh quanh thật cẩn thận trước khi cậu tìm thấy con đường cũ dẫn trở lại vào rừng, một con đường mà hẳn những người thợ chặt gỗ đã sử dụng từ nhiều thế hệ trước. Lối vào của nó được che kín bởi một bụi cây việt quất dày, và bất chấp lòng thôi thúc phải đi thật nhanh, cậu dừng lại đủ lâu để hái hai vốc quả việt quất và tống vào trong miệng. Rất ngọt và ngon lành. Có vị của thế giới bên ngoài.
Cậu tìm thấy một đường mòn cũ, rất dễ để men theo, ngay cả trong bóng tối. Rất nhiều cây bụi mọc hai bên đường mòn, và hai hàng cỏ dại bị cán bẹp bởi những vết bánh xe. Có nhiều cành cây gãy rụng cậu phải bước qua (hoặc bị vấp), nhưng không thể bị lạc vào rừng.
Cậu cố gắng đếm các bước chân một lần nữa, cố gắng đếm khá chính xác lên đến khoảng bốn ngàn, sau đó bỏ cuộc. Đường mòn đôi khi dốc, nhưng chủ yếu là đi xuống. Vài lần cậu gặp những cái bẫy, và một lần bắt gặp một đám bụi rậm dày đến nỗi cậu sợ con đường cũ này chỉ dừng lại ở đó, nhưng khi cậu xuyên qua, cậu lại thấy con đường và tiếp tục đi tới. Cậu không có cảm giác gì về thời gian đã trôi qua bao lâu. Có thể một giờ, cũng có thể là hai giờ. Tất cả những gì cậu biết chắc chắn là trời vẫn còn tối, và mặc dù ở ngoài trời trong bóng tối rất đáng sợ, đặc biệt là đối với một đứa trẻ thành phố, nhưng cậu hy vọng bóng tối sẽ kéo dài, thật lâu. Trừ việc điều đó là không thể. Vào thời điểm này trong năm, ánh sáng sẽ bắt đầu le lói trên bầu trời vào khoảng bốn giờ.
Cậu leo lên một con dốc khác và dừng lại một chút để nghỉ ngơi. Cậu chỉ dám đứng để nghỉ. Cậu không thực sự tin rằng nếu ngồi xuống thì cậu sẽ ngủ mất, nhưng ý nghĩ đó khiến cậu tự cảm thấy sợ. Chất adrenaline [90] đã giúp cậu vượt qua những vết cào xước và vết cứa bên dưới hàng rào, rồi xuyên qua cánh rừng để đến được ngôi làng, giờ đã biến mất hoàn toàn. Máu từ những vết cứa trên lưng, chân và dái tai của cậu đã ngừng chảy, nhưng tất cả những chỗ đó đều đau nhói và sưng tấy. Cho tới giờ thì tai cậu là tệ nhất. Cậu chạm vào nó một cách ngập ngừng, rồi rụt ngón tay lại với tiếng rít đau đớn qua hàm răng nghiến chặt. Tuy nhiên, trước khi rụt tay lại thì cậu kịp cảm thấy một cục máu bất thường và đóng vảy ở đó.
Mình đã tự cắt tai mình, cậu nghĩ. Chỗ dái tai đó sẽ không bao giờ mọc trở lại.
“Bọn khốn đó bắt mình phải làm vậy”, cậu thì thầm. “Chúng đã bắt mình phải làm vậy.”
Vì không dám ngồi, cậu cúi xuống và nắm chặt lấy đầu gối, một tư thế mà nhiều lần cậu thấy Maureen làm. Nó chẳng có ích gì cho vết hàng rào cứa ngang lưng, cái mông ê ẩm hay dái tai bị cắt của cậu, nhưng nó làm cơ bắp mệt mỏi của cậu dịu đi đôi chút. Cậu đứng thẳng dậy, sẵn sàng đi tiếp, rồi ngừng lại. Cậu có thể nghe thấy một âm thanh không rõ ràng ở phía trước. Kiểu tiếng ào ào, như khi gió thổi qua tán thông, nhưng thậm chí không có một làn gió nhẹ nào ở nơi cậu đang đứng này, trên con dốc nhỏ.
Không phải ảo giác chứ, cậu nghĩ. Xin hãy là thật.
Năm trăm bước nữa - những bước này thì cậu đếm - và Luke biết âm thanh đó hóa ra là tiếng nước chảy. Lối mòn ngày càng rộng và dốc hơn, cuối cùng cũng đủ dốc để khiến cậu phải đi ngang và tóm những cành cây nếu không muốn bị ngã dập mông. Cậu dừng lại khi hàng cây hai bên đường biến mất. Ở đây, rừng không những bị chặt, mà còn bị đốn cả gốc, tạo ra một khoảng rừng trống mọc đầy cây bụi. Tít phía dưới là một dải lụa đen rộng lớn, uốn lượn mềm mại và phản chiếu trên những gợn sóng là những ánh sao từ phía trời cao. Cậu có thể tưởng tượng những người khai thác gỗ từ xa xưa - những người đàn ông có lẽ đã làm việc trong những khu rừng phía bắc này từ trước Thế chiến thứ hai - sử dụng những chiếc xe Ford hoặc xe khai thác gỗ International Harvester cũ kỹ để kéo gỗ tới nơi đây, hoặc thậm chí là cưỡi những đội ngựa. Khoảng rừng trống này là nơi bốc dỡ hàng của họ. Tại đây, họ dỡ những khúc gỗ và đưa chúng xuống lòng sông Dennison, nơi chúng sẽ bắt đầu cuộc hành trình đến các nhà máy ở những thị trấn ngoại ô khác nhau.
Luke tìm đường xuống con dốc cuối cùng trên đôi chân đau nhức và run rẩy. Hai trăm bước cuối cùng là dốc cao nhất, lối mòn này chạy xuống thềm đá cứng ven sông, bên cạnh cái máng trượt của những khúc gỗ lâu năm. Cậu ngồi vào cái máng và thả mình trượt xuống, túm lấy các bụi cây để giảm bớt tốc độ một chút và cuối cùng chạm đến điểm dừng lung lay trên một bờ đá cao khoảng một mét so với mặt nước. Và ở đây, đúng như Maureen đã hứa, mũi thuyền của một con thuyền ọp ẹp lấp ló dưới một tấm bạt xanh đang dập dềnh cùng với những lá thông. Thuyền được buộc vào một gốc cây chết khô.
Sao bà Maureen biết được nơi này? Có phải bà ấy đã được nghe ai nói? Chuyện này dường như không đủ chắc ăn, không hề khi cuộc đời của một cậu bé có lẽ phải phụ thuộc vào chiếc thuyền ọp ẹp cũ kỹ đó. Có lẽ trước khi bà ấy ốm yếu tới vậy, bà đã tìm thấy nó trong một chuyến dạo bộ. Hoặc bà và một vài người khác - có thể là một vài người phụ nữ ở nhà ăn mà bà có vẻ thân thiết - đã đến đây từ ngôi làng giống-như-quân-đội của họ để đi dã ngoại: bánh mì kẹp với coca hoặc một chai rượu vang. Điều này không quan trọng lắm. Chiếc thuyền đã ở đây.
Luke lội xuống, nước chỉ đến cẳng chân cậu. Cậu cúi xuống và vốc hai tay đầy nước đưa lên miệng. Nước sông lạnh và có vị còn ngọt hơn cả việt quất. Khi cơn khát của cậu tan biến, cậu cố gắng tháo dây buộc thuyền ở gốc cây, nhưng các nút buộc rất phức tạp và thời gian vẫn đang trôi đi. Cuối cùng, cậu dùng dao để cưa đứt sợi dây, và việc này khiến lòng bàn tay phải cậu lại chảy máu. Tệ hơn, thuyền ngay lập tức trôi đi.
Cậu lao tới, chộp lấy mũi thuyền và kéo nó trở lại. Bây giờ cả hai lòng bàn tay cậu đều đã chảy máu. Cậu cố gắng kéo tấm bạt ra, nhưng ngay khi cậu buông mũi thuyền, dòng nước lại bắt đầu kéo nó đi. Cậu tự nguyền rủa mình vì đã không kéo bạt phủ ra trước. Không có đủ đất để đậu thuyền, và cuối cùng cậu làm điều duy nhất có thể: vắt nửa thân trên qua một bên thuyền và chui dưới tấm bạt mà bằng cách nào đó dính đầy mùi tanh của vải bố cũ kỹ, sau đó nhích người dần đến băng ghế giữa cho đến khi cậu hoàn toàn chui vào trong thuyền. Cậu nhoài người vào một vũng nước và nằm trên một thứ gì đó dài và góc cạnh. Lúc này, con thuyền đã được dòng nước nhẹ nhàng kéo đi, phần đuôi thuyền trôi đi trước tiên.
Mình đang có một cuộc phiêu lưu, Luke nghĩ. Đúng vậy, khá phiêu lưu đối với mình.
Cậu ngồi dậy dưới tấm bạt. Nó cuộn lại quanh cậu, tạo ra cái mùi thậm chí còn khó ngửi hơn. Cậu đẩy và kéo bạt ra bằng bàn tay chảy máu cho đến khi nó rơi hẳn sang một bên mạn thuyền. Nó trôi lềnh bềnh bên cạnh thuyền, rồi bắt đầu chìm dần. Thứ góc cạnh mà cậu đã nằm lên hóa ra là một mái chèo. Không giống như chiếc thuyền, nó còn tương đối mới. Maureen đã để lại chiếc khăn, có phải là bà cũng đã để lại mái chèo cho cậu? Cậu chắc chắn bà không có khả năng đi xuống con đường khai thác gỗ cũ với tình trạng sức khỏe hiện tại, chứ đừng nói đến con dốc cuối cùng đó. Còn nếu bà ấy đã làm vậy, ít nhất bà ấy xứng đáng với một bài thơ sử thi để vinh danh. Và tất cả chỉ vì cậu đã tìm kiếm một số thứ giúp bà trên Internet, những thứ mà bà có thể tự tìm thấy nếu bà không quá bệnh? Cậu hầu như không biết nghĩ sao về chuyện đó. Hãy mặc kệ. Cậu chỉ biết mái chèo đây rồi, và cậu phải sử dụng nó, dù cậu có mệt mỏi hay không, tay cậu có chảy máu hay không.
Ít nhất cậu cũng biết cách sử dụng mái chèo. Cậu là một cậu bé thành phố, nhưng Minnesota là vùng đất của mười ngàn hồ nước, và Luke đã ra ngoài câu cá với ông nội (người thích tự gọi mình là “lão già câu cá vược đến từ Mankato”) nhiều lần. Cậu ngồi xuống ghế giữa và trước tiên, sử dụng mái chèo để đưa đầu thuyền về phía hạ lưu. Khi làm được điều đó, cậu chèo thuyền ra giữa sông, lòng sông rộng khoảng tám mươi mét ở khúc này, và khua mái chèo. Cậu cởi giày, đặt lên chiếc ghế cứng phía sau để cho khô. Một cái gì đó được in trên ghế bằng sơn đen mờ, và khi cậu cúi người lại gần, cậu có thể đọc được dòng chữ S.S Pokey. Điều này khiến cậu cười toe toét. Luke gối đầu lên khuỷu tay, ngước nhìn những ngôi sao ngổn ngang trên trời, và cố gắng thuyết phục mình rằng đây không phải là một giấc mơ - cậu thực sự đã trốn thoát.
Từ đâu đó ở bên trái phía sau lưng cậu phát ra tiếng còi tàu hỏa. Cậu quay lại và thấy một đèn pha sáng chói lóe qua những tán cây, lúc đầu quét đến ngang thuyền của cậu, sau đó vụt mất. Cậu không thể nhìn thấy đầu máy hay đoàn tàu đang chạy, có quá nhiều cây cối chắn ngang, nhưng cậu có thể nghe thấy tiếng ầm ầm của những toa xe hàng và tiếng bánh xe thép khổng lồ chạy trên đường ray. Đó là câu trả lời cuối cùng dành cho cậu. Đây không phải là sự ảo tưởng chi tiết đến khó tin trong đầu cậu như lúc cậu nằm trên giường ở Chái nhà Phía tây. Có một chuyến tàu thực sự ở đằng kia, có lẽ đang hướng đến Khúc Sông Dennison. Cậu đang ở trên một chiếc thuyền thật sự, trôi về phía nam trên dòng chảy chậm và rất đẹp này. Những ngôi sao thực sự ở phía trên đầu cậu. Tay chân bà Sigsby sẽ đuổi theo cậu, tất nhiên, nhưng...
“Mình sẽ không bao giờ đến Khu nửa sau. Không bao giờ.”
Cậu đặt một tay lên mặt ghế in chữ S.S Pokey, và nhìn bốn làn rẽ sóng nước nhỏ xíu nhanh chóng trôi về phía sau cậu trong bóng tối. Cậu cũng từng ngồi nhìn theo những làn nước trước đây, trên chiếc thuyền đánh cá nhỏ bằng nhôm của ông nội với động cơ hai thì, rất nhiều lần, nhưng cậu chưa bao giờ - thậm chí khi mới chỉ là một đứa trẻ bốn tuổi coi mọi thứ đều mới mẻ và kỳ diệu - choáng ngợp trước cảnh tượng của những sóng nước đó, cho tới bây giờ. Nó như nói với cậu, với sức mạnh của sự mặc khải, rằng bạn phải bị cầm tù thì mới hiểu được đầy đủ nhất tự do là gì.
“Mình sẽ chết trước khi cho phép họ đưa mình trở lại.”
Cậu hiểu rằng điều này là sự thực, và nó có thể trở thành sự thực, nhưng cậu cũng hiểu rằng ngay bây giờ thì chưa. Luke Ellis giơ bàn tay bị dao cứa và đang chảy máu vào màn đêm, cảm nhận luồng không khí tự do ùa qua, và cậu bắt đầu khóc.