← Quay lại trang sách

◄ 7 ►

Bà Sigsby đang đợi Stackhouse ở tầng F. Dưới này rất lạnh, và bà đang mặc một chiếc áo len khoác ngoài áo com lê. Bà gật đầu với gã. Stackhouse gật đầu lại và đẩy xe vào đường hầm nối Khu nửa trước với Khu nửa sau. Đường hầm đúng là một định nghĩa về sự thực dụng, với sàn bê tông, tường vòm gạch và đèn huỳnh quang gắn trên trần. Một vài chiếc đèn nhấp nháy, tạo cho đường hầm một cảm giác như thước phim kinh dị, một số bóng đã cháy. Ai đó đã dán một chiếc nhãn của đội bóng bầu dục New England Patriots trên một bức tường.

Lại thêm một sự bất cẩn, bà ta nghĩ. Thêm một sự lơ đãng.

Cánh cửa ở cuối hành lang dẫn tới Khu nửa sau có biển báo KHÔNG PHẬN SỰ MIỄN VÀO. Bà Sigsby sử dụng thẻ của mình và đẩy cửa mở. Phía bên kia là một sảnh thang máy khác. Hành trình đi lên ngắn ngủi đưa họ tới một phòng chờ chỉ hơi đỡ thực dụng hơn cái đường hầm đã đưa họ tới Khu nửa sau. Heckle - tên thật là bác sĩ Everett Hallas - đang chờ họ. Ông ta nở một nụ cười rộng ngoác tới mang tai và liên tục chạm tay vào khóe miệng. Nó khiến bà Sigsby nhớ đến cậu bé Dixon bị ám ảnh với việc dụi mũi. Nhưng Dixon chỉ là một đứa trẻ, còn Hallas ở độ tuổi năm mươi. Làm việc ở Khu nửa sau phải trả giá, cũng giống như kiểu tác động người ta phải chịu khi làm việc trong môi trường ô nhiễm phóng xạ.

“Xin chào, bà Sigsby! Xin chào, giám đốc an ninh Stackhouse! Thật tuyệt khi được gặp anh! Chúng ta nên gặp nhau thường xuyên hơn nhỉ? Tuy nhiên, tôi rất lấy làm tiếc về hoàn cảnh đã đưa đẩy anh đến đây ngày hôm nay!” Ông ta cúi xuống và vỗ nhẹ vào bọc vải đang cuốn Maureen Alvorson. Rồi chạm tay vào khóe miệng, như thể vỗ vào một vết rộp chỉ mình ông có thể nhìn thấy hay cảm nhận. “Mới chỉ đi được nửa chặng cuộc đời, tình-tính-tang.”

“Chúng tôi cần phải giải quyết nhanh việc này”, Stackhouse nói. Theo bà Sigsby nghĩ, ý của ông ta là chúng tôi phải nhanh chóng biến khỏi đây. Bà ta khá đồng tình. Đây là nơi xử lý những chuyện tương tự, bác sĩ Heckle và Jeckle (tên thật là Joanne James) là những chuyên gia, nhưng điều đó cũng không khiến bà thấy dễ chịu hơn khi ở đây. Chưa tới bao lâu mà bà đã có thể cảm nhận được bầu không khí của nơi này. Giống như đứng trong một môi trường điện từ thấp.

“Ồ, tất nhiên rồi, ông luôn bận rộn và chẳng bao giờ hết việc cả, những tình huống rối ren, hết việc này đến việc khác, tôi biết chứ, xin mời đi lối này.”

Từ phòng chờ có những chiếc ghế xấu xí, xô pha cũng xấu xí không kém, và một ti vi màn hình phẳng cũ kỹ, họ bước vào một sảnh rộng với sàn trải thảm dày màu xanh - ở Khu nửa sau, thỉnh thoảng những đứa trẻ sẽ ngã quỵ và đập những cái đầu quý giá của chúng xuống sàn. Những chiếc bánh xe rời khỏi lối đi một cách nhanh chóng. Chỗ này trông giống hành lang ở tầng phòng ở của Khu nửa trước, ngoại trừ các cánh cửa đều khóa. Phía sau một căn phòng, bà Sigsby nghe thấy tiếng đập cửa ầm ầm và tiếng la khóc khản tiếng đang kêu gào “Thả tôi ra!” và “Ít nhất hãy cho tôi một viên thuốc giảm đau chết tiệt chứ!”

“Iris Stanhope”, Heckle nói. “Tôi e là hôm nay cô bé cảm thấy không khỏe. Tuy nhiên, một số người mới đến của chúng tôi đang duy trì tình trạng rất tốt. Chúng tôi có một bộ phim tối nay, hai người biết đấy. Và pháo bông vào ngày mai.” Ông ta cười khúc khích và chạm tay vào khóe miệng, khiến bà Sigsby nhớ đến - thật kỳ cục - Shirley Temple.

Bà vuốt lên mái tóc để đảm bảo nó vẫn thẳng thớm. Tóc vẫn thẳng nếp, tất nhiên rồi. Những gì bà đang cảm thấy lúc này - âm thanh vo vo chạy dọc theo làn da, cảm giác nhãn cầu trong hốc mắt của mình đang rung lên - không phải do giật điện gây ra.

Họ đi ngang qua phòng chiếu, bên trong có hơn một chục chiếc ghế kiểu cách sang trọng. Ngồi ở hàng ghế đầu là Kalisha Benson, Nick Wilholm và George Iles. Chúng đang mặc những bộ áo liền quần màu xanh đỏ. Cô nàng Benson miệng ngậm một cây kẹo thuốc lá; Wilholm đang hút một điếu thuốc lá thật, khói thuốc xám xịt quẩn quanh trên đầu. Iles đang xoa nhẹ thái dương cậu ta. Benson và Iles quay lại nhìn khi họ đẩy xe lăn qua với cái bọc vải nặng nề, Wilholm vẫn tiếp tục nhìn chằm chằm vào màn hình trống. Con ngựa bất kham này đã mất dần sự hung hăng, bà Sigsby nghĩ một cách thỏa mãn và hài lòng.

Nhà ăn nằm phía ngoài phòng chiếu, bên kia hành lang. Nó nhỏ hơn nhiều so với nhà ăn Khu nửa trước. Ở đây luôn có nhiều trẻ em hơn, nhưng chúng ở Khu nửa sau càng lâu, chúng càng ăn ít đi. Bà Sigsby cho rằng một người chuyên về ngôn ngữ Anh sẽ gọi đây là điều mỉa mai. Ba đứa trẻ hiện đang ở nhà ăn, hai đứa đang xì xụp món gì đó giống như yến mạch, đứa còn lại - một cô bé khoảng mười hai tuổi - chỉ ngồi nhìn chiếc bát đầy thức ăn trước mặt. Nhưng khi cô bé nhìn thấy họ đi ngang qua với chiếc xe đẩy, mặt cô bé bừng sáng.

“Xin chào! Các người có gì thế? Đó là một người chết, đúng không? Có đúng thế không? Có phải cô ấy tên là Morris? Một cái tên thật buồn cười cho một người phụ nữ. Có lẽ tên là Morin mới đúng. Tôi có thể nhìn chứ? Mắt cô ấy có còn mở không?”

“Đó là Donna”, Heckle nói. “Mặc kệ con bé. Nó sẽ tới phòng chiếu phim tối nay, nhưng tôi mong con bé sẽ sớm chuyển đi. Có lẽ cuối tuần này. Đến những đồng cỏ xanh hơn, tình tính tang. Bà biết đấy.”

Bà Sigsby biết. Có Khu nửa trước, có Khu nửa sau... và có nửa sau của Khu nửa sau. Điểm cuối cùng. Bà ta lại đưa tay lên vuốt tóc. Mái tóc vẫn y nguyên. Tất nhiên rồi. Bà ta nhớ lại chiếc xe ba bánh của mình hồi còn rất nhỏ, nước tiểu âm ấm dính trong quần khi bà ngồi lên chiếc xe và đạp quanh lối đi. Bà nghĩ đến dây giày bị tuột ra. Bà nghĩ đến chiếc xe đầu tiên của mình, một chiếc...

“Đó là Valium!”, cô nhóc tên Donna hét lên. Cô bé nhảy lên, làm đổ cái ghế. Hai đứa trẻ khác nhìn cô ấy đăm chiêu, một đứa với nước yến mạch chảy xuống cằm. “Plymouth Valium, tôi biết là nó! Chúa ơi, con muốn về nhà! Chúa ơi, hãy ngăn đầu của con lại đi!”

Hai hộ tá trong trang phục màu đỏ xuất hiện từ... từ đâu bà Sigsby cũng không biết. Bà ta cũng không quan tâm. Họ giữ chặt tay cô bé.

“Được rồi, hãy đưa con bé về phòng.” Heckle nói. “Dù vậy, không có thuốc. Chúng ta sẽ cần tới cô nhóc vào tối nay.”

Donna Gibson, người đã từng chia sẻ những bí mật con gái với Kalisha khi cả hai còn ở Khu nửa trước, bắt đầu la hét và vật lộn. Các hộ tá kéo cô bé đi với đầu mũi giày của cô nhóc lết trên thảm. Những suy nghĩ đứt quãng trong đầu bà Sigsby bắt đầu mờ đi, rồi mất dần. Tiếng kêu vo vo vẫn chạy dọc trên làn da của bà, thậm chí giờ đây xuất hiện cả ở những vết trám trên răng, dù sao nó vẫn còn đó. Tại đây lúc nào cũng như vậy, giống như ánh đèn huỳnh quang chập chờn trong hành lang.

“Bà ổn chứ?” Stackhouse hỏi bà Sigsby.

“Tôi ổn.” Tôi chỉ cần biến khỏi đây.

“Tôi cũng cảm nhận được nó. Nếu điều này giúp bà dễ chịu hơn.”

Hoàn toàn không. “Trevor, anh có thể giải thích cho tôi tại sao những xác chết cần hỏa táng nhất định phải đẩy qua khu vực sinh sống của đám trẻ không?”

“Có hàng tấn đậu ở Beantown”, Stackhouse trả lời.

“Cái gì?” Bà Sigsby hỏi. “Anh vừa nói gì cơ?”

Stackhouse lắc đầu như muốn rũ bỏ nó khỏi tâm trí. “Tôi xin lỗi. Nó chợt xuất hiện trong đầu tôi...”

“Đúng, đúng”, Hallas nói. “Có rất nhiều... ừm, có thể nói là không khí hôm nay lưu thông kém.”

“Tôi biết nó là gì”, Stackhouse nói. “Chỉ là tôi phải nói cái điều đó ra, vậy thôi. Cảm thấy như...”

“Nghẹn thức ăn”, bác sĩ Hallas nói thẳng-thừng-và-thực-tế. “Còn câu trả lời cho câu hỏi của bà, bà Sigsby, đó là... không ai biết.” Ông ta cười khúc khích và đưa tay chạm vào khóe miệng.

Tôi chỉ cần biến khỏi đây, bà lại nghĩ. “Bác sĩ James đâu, bác sĩ Hallas?”

“Đang ở trong phòng. Hôm nay cô ấy cảm thấy không khỏe, tôi e là vậy. Nhưng cô ấy gửi lời hỏi thăm tới bà. Hy vọng bà khỏe, khỏe như vâm, cực kỳ khỏe mạnh, tình tính tang.” Ông mỉm cười và trông giống Shirley Temple một lần nữa - tôi dễ thương đúng không?