Chương 54
Căn phòng của nữ tu sĩ giản dị đến mức gần như trơ trụi: những bức tường bằng đá xám, một cái giường, một ghế tựa, một ghế cầu kinh trên đó có đặt một cuốn Kinh Thánh. Toàn bộ đồ vật trang trí chỉ bao gồm một cây thánh giá bằng thiếc, gắn vào đầu giường, một chiếc tủ đựng đầy sách và một chiếc đồng hồ treo tường. Một cửa sổ nhỏ hình bầu dục trổ cao trên tường để lọt vào một luồng sáng nhợt nhạt. Bà xơ già nằm trên tấm ga giường, hai chân đặt song song, hai bàn tay đặt trên ngực, mắt nhìn lên trần nhà.
Mẹ bề trên cúi xuống bên bà, thì thầm điều gì đó vào tai bà trước khi quay lại phía hai viên cảnh sát. Xơ Marie-du-Calvaire chầm chậm quay đầu về phía họ. Đôi mắt bà mờ đục: một tấm màng mỏng màu trắng vẫn còn ánh lên sắc màu của đại dương.
- Tôi đi đây, mẹ bề trên nói. Hai người sẽ tìm được lối ra dễ dàng thôi.
Bà biến mất, không nói thêm lời nào mà đóng cánh cửa lại sau lưng. Xơ Marie-du-Calvaire nhăn mặt nhỏm dậy, bước đi như một con rùa già về phía cốc nước mà bà cầm lên uống một cách bình thản. Chiếc áo chùng màu đen của bà rủ xuống đất, tạo nên ảo tưởng như bà đang bay. Rồi bà quay trở lại giường, ngồi lên đó và tựa chiếc gối vào tường.
- Sắp đến giờ cầu kinh rồi. Dù hai người muốn gì, tôi cũng yêu cầu nói ngắn gọn thôi.
Mặc dù tuổi tác đã cao, giọng nói của bà vẫn thô nhám, khiến người ta nghĩ đến tiếng giấy bị vò nhàu. Lucie lại gần bà.
- Trong trường hợp này, chúng tôi sẽ không vòng vo. Chúng tôi muốn bà kể cho chúng tôi nghe về những bé gái mà bà đã chăm sóc vào đầu những năm 1950. Trong số đó có Alice Tonquin và Lydia Hocquart. Chúng tôi cũng muốn bà nói với chúng tôi về Jacques Lacombe và vị bác sĩ đi cùng ông ta.
Bà xơ dường như ngừng thở. Bà chắp hai bàn tay chai sạn trước ngực. Đằng sau tấm màng rõ ràng là do đục thủy tinh thể, hai mống mắt bà dường như giãn ra.
- Nhưng… Tại sao?
- Bởi vì, đến tận hôm nay, vẫn có những kẻ giết người để giữ bí mật những gì mắt bà đã nhìn thấy, Sharko tiếp lời, tựa người vào chiếc ghế cầu kinh.
Một khoảng im lặng khiến họ có thể nghe thấy giọng hát của các xơ ở phía xa.
- Hai người đã làm thế nào để tìm ra tôi? Chưa từng có ai đến nói với tôi về câu chuyện xưa cũ ấy. Tôi sống xa lánh mọi người, ẩn náu, và đã không ra khỏi đây từ hơn năm mươi năm nay. Năm mươi năm dài đằng đẵng.
- Mặc dù ẩn náu, bà vẫn có tên trên sổ đăng ký của tu viện. Cuốn sổ đăng ký đó được quy định là không bao giờ lọt ra ngoài những bức tường này, nhưng bởi vì một năm nữa tu viện của bà sẽ đóng cửa, nên cuốn sổ đã được chuyển đến trung tâm lưu trữ quốc gia.
Bà già khẽ mở miệng, bà hít thở nhiều lần để lấy hơi. Lucie có cảm giác đôi đồng tử của bà càng giãn rộng hơn nữa, như thể chúng đang vẫy gọi những luồng ánh sáng từ một thời kỳ đã bị phá hủy.
- Bà đừng lo. Chúng tôi không đến đây để tố cáo bất cứ điều gì, cũng không xét lại những việc làm của bà trong quá khứ. Chúng tôi chỉ tìm hiểu xem điều gì đã có thể xảy ra với những bé gái đó giữa các bức tường của bệnh viện Mont-Providence, trong những năm tháng ấy.
Bà xơ cúi đầu. Những vạt khăn màu trắng che khuất khuôn mặt bà, chỉ để lộ bóng dáng của một sự hiện diện.
- Tôi vẫn rất nhớ Alice và Lydia, làm sao tôi có thể quên được chúng cơ chứ? Tôi chịu trách nhiệm về chúng, trong khu nhà dành cho trẻ mồ côi ở tu viện này, trước khi đến Mont- Providence vì lý do đơn giản là “thiếu nhân sự”. Tôi không bao giờ nghĩ sẽ gặp lại những bé gái tôi từng chăm sóc, nhưng hai năm sau, chúng cũng đến đó, đến Mont-Providence ấy, cùng mười bé gái khác ở tu viện Bác ái… Bọn trẻ chỉ nghĩ đơn giản là chuyển sang sống ở tu viện khác, như người ta thường xuyên làm hồi bấy giờ. Chúng đã quen rồi. Chúng đến đó bằng tàu hỏa, rạng rỡ, sung sướng và vô tư như chúng ta có thể như thế vào tuổi ấy…
Bà ngắt mẩu độc thoại của mình bằng những khoảng lặng kéo dài nặng nề. Ký ức từ từ trỗi dậy.
- Nhưng một khi đã vào bệnh viện Mont-Providence, chúng nhanh chóng hiểu ra mình đang phải đối mặt với chuyện gì. Xen vào giữa những bài thánh ca là tiếng khóc lóc và la hét của người điên. Khuôn mặt sáng sủa của những bé gái mới đến trộn lẫn với khuôn mặt tàn tạ của những đứa trẻ chậm phát triển. Những bé gái này liền hiểu ra rằng chúng vào đó là để không bao giờ thoát ra nữa. Từ những đứa trẻ mồ côi có trí tuệ hoàn toàn khỏe mạnh, dưới ngòi bút của các bác sĩ làm việc cho nhà nước, chúng phải mang vị thế của những kẻ thần kinh. Toàn bộ chuyện đó chỉ vì những lý do tài chính, bởi vì một đứa trẻ thần kinh mang lại cho chính phủ nhiều tiền hơn là một đứa trẻ ra đời bất hợp pháp. Còn chúng tôi, các nữ tu, chúng tôi có nghĩa vụ phải đối xử với chúng đúng vị thế chúng mang. Chúng tôi phải… thực hiện bổn phận của mình.
Giọng bà run rẩy. Ngón tay Sharko co quắp trên lớp gỗ cũ kỹ. Xung quanh họ, chỉ còn mùi của những bức tường xập xệ, những sàn ván cũ kỹ.
- Nghĩa là sao?
- Kỷ luật, bắt nạt, trừng phạt, điều trị… Những đứa trẻ bất hạnh tỏ thái độ chống đối sẽ bị chuyển từ phòng này sang phòng khác, mức độ khắc nghiệt tăng lên, những cánh cửa tự do mỗi lần lại đóng kín thêm một chút. Phòng nữ tu, phòng học nghề, phòng tường xám… Các bé gái mới đến không có quyền giao tiếp với các bé gái trong các phòng khác, nếu vi phạm sẽ bị trừng phạt rất nặng. Như thể họ ngăn chúng thành các ô, kéo chúng xa khỏi sự bình thường để xích lại gần sự điên rồ. Điên rồ, các con ạ… Điên rồ, hai người có biết dù chỉ là mùi vị của nó không? Nó có mùi của cái chết và mùi của sự thối rữa.
Bà xơ hít thở khó nhọc. Hít một hơi dài, thật dài.
- Phòng cuối cùng, nơi người ta phân công cho tôi khi tôi đến Mont-Providence, là phòng Cực hình, một nơi khủng khiếp trông giữ trên sáu mươi bệnh nhân thần kinh trầm trọng đủ các lứa tuổi. Những người loạn trí, những người ngốc nghếch, những người tâm thần phân liệt. Đó cũng là nơi đặt các kho thuốc, dụng cụ phẫu thuật, và cả vaselin nữa…
- Tại sao lại có vaselin?
- Để xoa vào thái dương người bệnh trước khi thực hiện sốc điện.
Những ngón tay có phần móng ngả vàng của bà quắp vào nhau. Lucie không khó khăn gì để có thể hình dung ra những ngày tháng ở một nơi như thế. Những tiếng la hét, chứng sợ chỗ kín, những đau đớn, những tra tấn về tinh thần và thể xác. Người bị giam và người canh chừng bị nhốt trong cùng một chỗ.
- Với sự trợ giúp của những bé gái khỏe mạnh, chúng tôi chăm sóc cho những người bị bệnh. Cọ rửa phòng của họ, cho họ ăn uống, hỗ trợ các y tá trong việc điều trị. Ẩu đả và tai nạn xảy ra hằng ngày. Ở nơi đó có đủ loại người điên, từ những người vô hại nhất cho đến những người nguy hiểm nhất. Tất cả các lứa tuổi bị trộn lẫn vào nhau. Đôi khi, những đứa trẻ mồ côi có thái độ ngập ngừng hoặc phản ứng không tốt sẽ phải sống một tuần trong một phòng cách ly, bị trói vào một chiếc giát giường và điều trị bằng Lagarctil, thứ ma túy mà các bác sĩ ưa dùng.
Bà giơ tay lên. Mỗi khi bà thực hiện một cử chỉ, lớp vải đen trên quần áo của bà lại kêu sột soạt giống như vải kếp. Có vẻ như cả bà cũng bị xâm chiếm bởi một dạng thức khác của điên loạn. Bà không nguyên vẹn khi ra khỏi Mont-Providence.
- Những bé gái khỏe mạnh bị rơi vào phòng đó, những đứa mạnh mẽ nhất, những đứa ngang bướng và chắc chắn cũng là những đứa thông minh nhất, không có bất kỳ cơ may nào thoát ra. Các y tá đối xử với chúng theo cùng cách họ đối xử với các bệnh nhân tâm thần, không có bất cứ sự phân biệt nào. Còn tiếng nói của chúng tôi, những người chăm sóc chúng hằng ngày, chẳng có mấy sức nặng. Chúng tôi phục tùng và tuân thủ các mệnh lệnh, hai người hiểu không?
- Mệnh lệnh nào?
- Mệnh lệnh của mẹ bề trên, mệnh lệnh của Giáo hội.
- Alice và Lydia đã vào phòng Cực hình?
- Đúng thế. Giống như tất cả các bé gái đến từ bệnh viện Bác ái. Một lượt đổ xô vào phòng Cực hình như thế là điều không thể hiểu nổi, và là một ngoại lệ.
- Tại sao?
- Thông thường, những đứa trẻ mới đến sẽ ở trong các phòng khác. Chỉ có một số đứa sau đó mới bị đưa vào phòng Cực hình, đôi khi là sau nhiều năm, bởi vì chúng cư xử không tốt và không ngừng nổi loạn. Hoặc đơn giản là bởi vì chính chúng cũng đã phát điên.
- Những đứa trẻ mồ côi, Alice và những bé gái khác ấy, sau đó chúng ra sao?
Những ngón tay của bà xơ già co rút lại trên cây thánh giá.
- Rất nhanh chóng, chúng được điều trị bởi bác sĩ phụ trách phòng Cực hình. Người ta gọi ông ta là Ngài quản lý. Ông ta chưa đầy ba mươi tuổi, ria mép mỏng màu vàng, và ánh mắt khiến máu ta đông lại. Chính ông ta là người thường xuyên đưa một số đứa trẻ sang các phòng khác nơi không ai được quyền tiếp cận. Nhưng những đứa bé gái đó đã kể lại cho tôi nghe. Người ta bắt chúng tập trung trong các phòng, để chúng đứng đó chờ đợi, suốt nhiều giờ đồng hồ liền. Có cả những chiếc ti vi và những chiếc loa, chúng phát ra những tiếng đôm đốp, những tiếng động, để khiến chúng giật mình. Rồi có một người đàn ông quay phim chúng, lúc nào ông ta cũng đi cùng bác sĩ kia… Alice rất quý người quay phim đó, con bé gọi ông ta là Jacques. Con bé và ông ta rất hợp nhau, đôi khi nó còn được nhìn thấy ánh sáng ban ngày nhờ ông ta. Ông ta đưa nó đi chơi xích đu ngoài công viên, cách xa tu viện, ông ta chơi đùa với nó, cho nó xem các con vật, quay phim nó. Tôi tin rằng ông ta chính là tia hy vọng nhỏ nhoi của con bé.
Sharko nghiến chặt hai hàm răng. Anh hoàn toàn có thể hình dung ra một tia hy vọng sẽ như thế nào trong tay một gã như Lacombe. Anh hỏi:
- Trong những căn phòng ấy, các bé gái chỉ phải đợi, xem phim và giật mình thôi sao? Không có những thử nghiệm khác… bạo lực hơn à?
- Không. Nhưng không nên tin rằng tình trạng bị động đó không có ảnh hưởng gì. Đám trẻ mồ côi rất căng thẳng và hung hãn sau khi ra khỏi đó. Điều này càng làm gia tăng những trừng phạt mà chúng phải đối mặt trong phòng Cực hình. Một vòng luẩn quẩn. Không có bất cứ cách nào để thoát khỏi chứng điên loạn, nó ở khắp nơi. Ở bên ngoài và ở bên trong.
- Chúng có kể với bà về một thử nghiệm với lũ thỏ không?
- Đúng là đôi khi có thỏ trong phòng, chúng bị nhốt trong một góc, theo như lũ trẻ kể với tôi. Nhưng… Chỉ có thế… Tôi chưa bao giờ thực sự hiểu được mục đích của những việc làm đó.
- Chuyện đó kết thúc thế nào?
Bà xơ lắc đầu, đôi môi nhăn nhúm lại.
- Tôi không biết. Tôi không chịu đựng nổi nữa. Tôi đã dâng hiến toàn bộ cuộc đời mình để phụng sự Chúa và các tạo vật của Người, thế mà tôi lại rơi vào địa ngục chốn trần gian, để mình bị sự điên rồ xâm chiếm. Tôi đã viện cớ gặp vấn đề sức khỏe, rồi trốn khỏi Mont-Providence. Tôi đã bỏ rơi chúng. Những đứa bé gái mà chính tôi đã nuôi nấng ở đây.
Bà làm dấu thánh và cuống cuồng hôn lên cây thánh giá. Quãng im lặng tiếp theo thật khủng khiếp. Lucie đột nhiên cảm thấy rất lạnh.
- Tôi đã quay trở về tu viện cũ của mình, tu viện của các xơ áo xám. Mẹ Sainte-Marguerite lòng lành vô cùng đã che giấu và bảo vệ tôi. Người ta đã tìm kiếm tôi, tin tôi đi, và tôi không biết điều gì sẽ xảy ra nếu họ tìm thấy tôi. Nhưng nắm xương già của tôi vẫn sống sót qua thế kỷ, và trí nhớ của tôi không bao giờ quên những điều khủng khiếp từng diễn ra ở đó, sâu bên trong bệnh viện tâm thần Mont-Providence… Ai có thể quên từng ấy bóng tối cơ chứ?
Lucie nhìn thật sâu vào đáy đôi đồng tử mờ đục của bà. Không ai có thể quên lãng bóng tối. Không ai cả.
Sự thật đang thoát ra, ở đây, bây giờ, từ đôi môi già nua này. Bị xáo trộn tự đáy lòng, tuy nhiên Lucie vẫn giữ được những phản xạ của một cảnh sát.
- Viên quản lý đó, chúng tôi cần biết danh tính của ông ta.
- Tất nhiên… Ông ta tự gọi mình là bác sĩ James Peterson. Đúng ra, đó là cái tên mà chúng tôi nghe thấy. Bởi vì ông ta luôn ký tên là Bác sĩ Peter Jameson. James Peterson, Peter Jameson… Đến tận hôm nay tôi vẫn không biết danh tính thực sự của ông ta là gì. Có một điều chắc chắn, đó là ông ta sống ở Montréal.
Sharko và Lucie trao nhau một cái nhìn ngắn gọn. Họ đã có được mắt xích cuối cùng. Bà tu sĩ đứng dậy, đi về phía tủ sách và quỳ xuống, mắt ngấn lệ.
- Ngày nào tôi cũng cầu Chúa cho những đứa bé gái tội nghiệp mà tôi bỏ lại đó. Chúng từng là những đứa bé gái của tôi. Tôi đã chứng kiến chúng lớn lên, giữa những bức tường này, trước khi tất cả chúng tôi rơi vào cái bệnh viện điên rồ ấy.
Lucie cảm thấy có chút thương hại với người phụ nữ khốn khổ này, người sẽ chết đơn độc, trong đau đớn.
- Bà chẳng thể làm gì cho chúng được. Bà cũng bị mắc kẹt trong hệ thống và những đức tin của bà. Chúa chẳng liên quan gì đến chuyện này.
Bằng đôi bàn tay run rẩy, xơ Marie-du-Calvaire nâng cuốn Kinh Thánh lên rồi bắt đầu đọc khe khẽ. Lucie và Sharko hiểu rằng họ không còn việc gì để làm trong căn phòng này.
Họ lặng lẽ đi ra.