Chương 58
Có thể đặt hàng cuốn sách của James Peterson, nhưng nó không có sẵn trong kho hàng của các nhà sách mà Sharko và Lucie ghé đến. Nhìn thấy nhan đề và đoạn miêu tả ngắn về cuốn sách, một người bán sách sáng suốt đã khuyên họ đến khoa Y thuộc Đại học Montréal - khoa Y lớn thứ ba ở Bắc Mỹ -, và đặc biệt hơn, là đến trung tâm nghiên cứu các bộ môn khoa học thần kinh. Để chứng tỏ sự nhiệt tình, ông còn gọi được điện thoại cho một giáo sư có tên là Jean Basso. Ông đưa ống nghe cho Sharko, và anh cùng vị giảng viên hẹn gặp nhau sau vài giờ nữa, khoảng thời gian để Basso kịp thấm nhuần lại nội dung cuốn sách mà quả là ông đang có và đã từng đọc qua.
Ngồi trên taxi, Lucie và Sharko không nói chuyện nhiều, họ cảm thấy mình đang ở rất gần một thứ hổ lốn bẩn thỉu. Họ đang sượt qua vùng bóng tối từng bao bọc một đất nước, tôn giáo, khoa học, vùng bóng tối ấy đã len lỏi vào các nếp nhăn của những đầu óc bệnh hoạn. Lucie nghĩ đến gia đình cô, nghĩ đến hai đứa con gái mà cô cố gắng nuôi nấng trong sự trong trắng ngây thơ, và trong một thế giới nơi cô vẫn còn muốn đặt niềm tin. Khuôn mặt Clara và Juliette một lần nữa lại chồng lên khuôn mặt Alice và Lydia, những bé gái từng không đòi hỏi gì và cũng không được chừa cho bất kỳ cơ hội nào. Ngày hôm nay, hơn bao giờ hết, Lucie cảm thấy mình bất lực và có thể sai lầm kinh khủng.
Họ đã đến đích.
Trường đại học hiện ra như một con quái vật bằng bê tông và kính, nằm giữa chân phía Tây của ngọn núi Mont-Royal và những dãy phòng ở bất tận dành cho sinh viên. Điều gây ấn tượng nhất chính là cảnh trống rỗng hoang vắng ngự trị nơi này vào giữa mùa hè. Hơn năm mươi nghìn sinh viên vắng mặt, đường phố vắng hoe, những quán cà phê, phòng tập thể thao, hiệu sách cùng những cửa hàng đóng cửa. Cảm giác như đây là một địa điểm ma, nơi chỉ còn lưu lại một phần các nhà nghiên cứu, cũng như một số nhân viên quản lý và bảo trì.
Lucie và Sharko yêu cầu lái xe thả xuống trước những tòa nhà mang phong cách trường Bách khoa đến kỳ lạ và hỏi thăm những người đầu tiên họ gặp. Rốt cuộc, sau một hồi chật vật, họ cũng có được tên tòa nhà: Paul Desmarais.
Tòa nhà nằm ở tận đầu kia. Cách đó một ki lô mét, sau khi họ đi hết những đường hầm kết nối các tòa nhà với nhau, người ta đưa họ vào một văn phòng và giới thiệu họ với giáo sư Jean Basso, giám đốc của cái được gọi là “Nhóm nghiên cứu về hệ thống thần kinh trung ương”, GRSNC. Người đàn ông này trạc năm mươi tuổi, có dáng dấp như Einstein.
Sharko giải thích lại, thật ngắn gọn, ý nghĩa chuyến viếng thăm của họ. Anh mong muốn có được các thông tin về cuốn sách của James Peterson nhan đề Tác động đến não bộ và sự tự do của tâm trí .
- Tôi biết rất rõ. Ai mà lại có thể không biết các công trình của ông ấy về não bộ kia chứ? Một nhà khoa học lỗi lạc, người đã chấm dứt các nghiên cứu của mình quá sớm.
- Ông có biết nguyên nhân của việc chấm dứt đó không?
- Không.
Sharko những muốn thốt lên: “Còn chúng tôi thì biết… Ông ta tiến hành các thử nghiệm không xa đây cho lắm, trên những đứa trẻ chuột bạch trong khuôn khổ một chương trình bí mật của CIA, bên cạnh một nhà làm phim điên rồ có tên là Jacques Lacombe.”
- Thế ông có biết sau đó ông ấy ra sao không?
- Tuyệt đối không biết gì hết. Tôi chỉ quan tâm đến khía cạnh khoa học của con người. Cuộc sống riêng tư, hai người biết đấy…
Ông vung vẩy một cuốn sách bìa đen pha xanh lá dày chừng bốn trăm trang, với cái bìa trứ danh chụp người đàn ông đối diện với con bò mộng. Cuốn sách đã cũ lắm rồi: những trang sách ngả vàng và quăn mép.
- Tôi sẽ cố gắng tóm tắt ngắn gọn và giải thích rõ ràng với hai người. Cần phải biết rằng đối với các nhà khoa học thời kỳ đó, những gì diễn ra trong đầu chúng ta, nhìn chung, là một cái hộp đen khổng lồ. Vốn có tài năng thiên phú, Peterson quan tâm đến thứ gì đó căn bản trong ngành khoa học thần kinh: điều gì xảy ra giữa các dữ liệu cảm giác đầu vào - mắt nhìn thấy đèn đỏ - và các hành vi đầu ra - bàn chân nhấn vào chân phanh? Đâu là những cơ chế được triển khai trong cái hộp đen trứ danh đó, để rồi từ một âm thanh, một mùi vị, ta đạt được kết quả là một cử chỉ hoặc một hành vi? Nguyên tắc căn bản định hướng công trình nghiên cứu của Peterson chính là nguyên tắc tabula rasa : theo nguyên tắc này, đầu óc của một đứa trẻ sơ sinh chỉ là một tấm bảng tinh khôi, trên đó kinh nghiệm sẽ viết lại những thông điệp và từ đó phát triển các vùng khác nhau của bộ não, mỗi vùng tương ứng với riêng từng giác quan. Nói tóm lại, nguồn gốc của các ký ức, các phản ứng cảm xúc, các năng lực vận động, các lời nói, các ý nghĩ, những thứ tạo nên một cá nhân, lúc ban đầu nằm ở bên ngoài cá nhân đó. Peterson đã điều hành cả đống thử nghiệm mang tính nền móng trên động vật để bênh vực các giả thuyết của ông ấy. Chẳng hạn, những con khỉ bị ông ấy tước bỏ nhiều giác quan ngay khi mới ra đời. Những con mèo bị ông ấy kích thích thị giác liên tục. Trong trường hợp tước bỏ giác quan, bộ não không phát triển, còn trong trường hợp kích thích thái quá các giác quan, bộ não đạt khối lượng cao hơn khối lượng trung bình. Điều này chứng tỏ rõ ràng là cấu trúc não bộ được hình thành dựa trên vốn liếng cảm giác. Trong cuốn sách này, chúng ta cảm nhận được niềm say mê của Peterson đối với sự tác động qua lại giữa các giác quan và bộ não.
Lucie tìm cách bám sát những khám phá mới đây của mình:
- Thuật ngữ hội chứng E có nói lên điều gì với ông không?
- Tuyệt đối không.
- Thế còn thuật ngữ lây nhiễm qua đường thần kinh?
- Ý cô muốn nói gì?
- Lan truyền bạo lực và sự hung hãn qua các giác quan chẳng hạn? Những hình ảnh, những âm thanh, mãnh liệt đến nỗi chúng tác động và làm biến đổi cấu trúc não bộ của một cá nhân nhất định, cá nhân đó bắt đầu hành động và kéo theo sự thay đổi hành vi của một loạt các cá nhân xung quanh mình?
Lucie tự cảm thấy ngạc nhiên trước câu mà cô vừa thốt ra, nhưng rốt cuộc, đó chẳng phải là bản tổng kết những nghiên cứu của họ đó sao?
Vị giáo sư đưa tay xoa cằm.
- Giống như một hiện tượng lây nhiễm do virus ư? Sau bệnh nhân số 0, căn bệnh sẽ lây lan thông qua những người xung quanh? Giả thuyết của cô thật thú vị, nhưng…
Vị giáo sư ngừng một lúc trước khi nói tiếp. Ông có vẻ băn khoăn.
- Tôi phải thú nhận với hai người là tôi chưa từng nghe thấy điều gì tương tự. Chuyện này đáng phải suy ngẫm. Có lẽ tôi sẽ phải để tâm đến nó nhiều hơn. Nói cho cùng, có thể Peterson đã tiến hành một nghiên cứu bí mật. Nhất là khi ông ấy thực sự quan tâm đến các vùng não bộ thuận lợi cho bạo lực phát sinh, đặc biệt là với các bầy khỉ.
Sharko và Lucie nhìn nhau.
- Theo cách thức nào?
- Ông ấy đã chứng tỏ rằng những con khỉ bị thương tổn trong vùng não Broca và hạch hạnh nhân sẽ phát triển các hành vi xã hội bất bình thường, dẫn đến việc chúng mất khả năng kiểm soát các phản ứng thất vọng và giận dữ. Peterson còn đi đến chỗ cho chúng tấn công lũ hổ. Nhờ vậy, ông ấy nhận thấy một vùng hạch hạnh nhân bị suy giảm bất thường ở những con vật tự nhiên trở nên hung hãn. Như thể phần não bộ này đã bị teo đi. Ông ấy chưa hề có bất cứ lời giải thích nào cho tình trạng teo não này.
Dần dần, hai viên cảnh sát đã hiểu ra hành trình của Peterson và tầm quan trọng trong các phát hiện của ông ta. Mỗi giây trôi qua họ càng nắm rõ hơn điều cốt lõi của hội chứng E. Lucie chậm rãi lật giở từng trang cuốn sách. Những bức ảnh đen trắng cũ kỹ đập vào mắt cô. Những con mèo có hộp sọ kết nối với hàng chục điện cực. Những con khỉ với những hộp điện to tướng bắt vít trên đầu. Rồi chính bản thân Peterson, mặt đối mặt với con bò mộng: vẫn là bức ảnh được dùng làm bìa.
Lucie chỉ vào cuốn sách, hỏi vị giáo sư:
- Hình ảnh này có ý nghĩa gì?
- Ấn tượng đấy chứ, phải không? Peterson cũng từng là một trong những nhân vật tiên phong trong kỹ thuật kích thích sâu vào bộ não. Hoặc làm thế nào để tác động đến các hành vi cá nhân thông qua xung điện.
Sharko đột nhiên cảm thấy thoáng như có lửa đốt ở vùng bụng. Kích thích sâu vào bộ não… Thuật ngữ bị gạch chéo này trong báo cáo của bác sĩ pháp y, liên quan đến phát hiện khủng khiếp tại Gravenchon. Mohamed Abane có một đoạn ống nhựa màu xanh lá bên dưới da, ngang với khu vực xương quai xanh, và vị bác sĩ pháp y đã đề xuất kỹ thuật kích thích sâu vào bộ não như một trong những cách giải thích khả dĩ cho sự tồn tại của đoạn ống đó.
- Hãy giải thích giúp chúng tôi, anh buông thõng, giọng không âm sắc.
- Galvani, 1791: cơ đùi ếch co lại dưới kích thích điện. Thử nghiệm này sẽ được Volta lặp lại vào năm 1800, rồi đến Dubois và Reymond vào năm 1848. Ta tiến thêm hai mươi năm: vào năm 1870, Fritsch và Hitzig nhận thấy rằng việc kích thích điện vào bộ não ở những con chó bị gây mê tạo ra những cử động tại chỗ trên thân thể và trên các chi. Sau đó ta nhảy cóc đến năm 1932, về một thử nghiệm sẽ có ảnh hưởng mạnh mẽ đến Peterson: việc kích thích não bộ ở những con mèo không bị gây mê sẽ kéo theo những hành vi vận động rất có tổ chức và các phản ứng cảm xúc: kêu meo meo, gừ gừ, gầm gừ giận dữ…
Thật khủng khiếp. Lucie dễ dàng hình dung ra Peterson, ngồi trong góc phòng thí nghiệm, đang mở các hộp sọ để tiếp cận bộ não của những con vật còn sống và hoàn toàn tỉnh táo.
-… Tiến hành nghiên cứu trên các động vật không được gây mê là một bước tiến lớn, bởi vì người ta nhận ra rằng điện chính là nền tảng cơ sở, không chỉ của các cử động, mà của cả các cảm xúc. Chính trong tay Peterson, sẽ nảy sinh kỹ thuật kích thích sâu vào não bộ, nghĩa là việc cấy vào bộ não các điện cực kết nối với một hộp điều khiển cho phép gửi đi các xung điện. Những chiếc hộp to tướng mà cô nhìn thấy, thưa cô, được gắn vào hộp sọ những con khỉ này, không là gì khác ngoài phiên bản tương đương của các bảng điện. Khi di chuyển những phím điều khiển nhỏ bằng kim loại, ta sẽ kích thích các vùng não bộ khác nhau và do đó gây ra các phản ứng khác nhau. Đương nhiên, hệ thống này còn vô cùng thô thiển và nhiều khiếm khuyết, nhưng nó đã hoạt động.
Tất cả những chuyện này rất rõ ràng. Sharko hình dung ra một loạt những công tắc mà người ta hết bật lại tắt, những công tắc tác động đến giấc ngủ, sự giận dữ, khả năng vận động. Sẽ xảy ra chuyện gì nếu ấn vào nhiều công tắc cùng một lúc? Lũ mèo sẽ cảm thấy thế nào nếu chúng nghe thấy chính mình đang kêu meo meo mà không thực sự muốn kêu? Chắc hẳn vô số thử nghiệm đã được tiến hành, trong kinh hoàng và tàn bạo.
Vị giáo sư tiếp tục nói, tiết lộ một sự thật tàn khốc và rất đỗi thực tế:
- Peterson là người ưa thực chứng, ông ta muốn gây ấn tượng mạnh. Liên quan đến con bò, chỉ đơn giản là ông ta đã cấy các điện cực vào các vùng vận động trong não bộ của con vật. Hộp điều khiển được giấu khỏi tầm nhìn của nhiếp ảnh gia, và Peterson giấu một chiếc điều khiển từ xa bằng sóng vô tuyến trong lòng bàn tay. Khi ông ta ấn một cái nút, một dòng điện sẽ ức chế các vùng vận động và ngăn cản không cho con vật nhúc nhích. Tác động diễn ra là tức thì, giống như ta dừng sững một hình ảnh bằng máy quay.
Sharko đưa hai tay lên ôm trán. Với căn bệnh tâm thần phân liệt và những buổi điều trị ở bệnh viện Salpêtrière, anh đã chứng kiến các nhà khoa học có khả năng làm được những gì, nhưng đến mức độ này thì…
Jean Basso nhận ra sự bối rối của anh, ông mỉm cười.
- Thật khó tin, đúng không? Tuy nhiên, đấy là chuyện từ năm mươi năm trước. Ngày nay, kích thích sâu vào não bộ đã trở thành một kỹ thuật thịnh hành và tương đối phổ biến. Mọi thứ đều được thu nhỏ. Hiện nay, máy kích thích điện được luồn dưới da, gắn với các điện cực cấy dưới hộp sọ bằng dây dẫn. Chính các bệnh nhân sẽ sở hữu một điều khiển từ xa cho phép họ thực hiện hoặc không thực hiện việc kích thích. Như thế, người ta có thể giảm nhẹ một số căn bệnh: Parkinson, các rối loạn ám ảnh cưỡng chế, và sắp tới là các triệu chứng trầm uất hoặc mất ngủ mãn tính. Các quy trình đang được xây dựng.
Sharko cố gắng xua đuổi ý nghĩ quái gở đang lớn dần trong đầu anh. Ý nghĩ đó vượt quá phạm vi của lý trí. Tuy nhiên, anh vẫn mạo hiểm đặt câu hỏi:
- Thế ông có nghĩ rằng người ta có thể thực hiện điều tương tự với sự hung hãn không? Kích hoạt nó và ức chế nó tùy ý, chỉ với một… cái điều khiển từ xa?
Đương nhiên, anh đang nghĩ đến trường hợp bệnh nhân số 0. Đến nhân tố kích hoạt trong vụ thảm sát, có thể kiểm soát theo cách khoa học thay vì phó mặc cho tính ngẫu nhiên của một quá trình chờ đợi dài dằng dặc.
- Mọi chuyện đều có thể xảy ra. Thật khủng khiếp khi phải nói ra, nhưng dòng điện luôn mạnh hơn ý chí và trí tuệ. Với kỹ thuật kích thích sâu vào não bộ, người ta có thể ngừng tim, xóa bỏ hoặc tạo ra giấc ngủ, các ký ức. Có vô vàn khả năng. Khó khăn nằm ở chỗ làm sao đưa các điện cực chạm được tới vùng có liên quan, để gửi nhân tố kích hoạt điện tử chính xác vào đúng vị trí. Một mặt, các điện cực dài phải xuyên qua não theo đúng nghĩa đen của từ này, và do đó, đi qua các vùng vận động, ngôn ngữ, ký ức, điều này không phải không có tác hại gì, nó gây ra những vấn đề mà chúng ta chưa biết cách giải quyết. Sau đó, nỗi lo ngại lớn nhất là bản thân vùng não bộ cần tác động. Liên quan đến bạo lực, hạch hạnh nhân có kích thước rất nhỏ, đảm đương đa chức năng và có liên kết với các vùng vô cùng nhạy cảm. Một xê xích nhỏ, dù chỉ một phần mi li mét, thế là bệnh nhân của anh sẽ mất trí nhớ, trở nên điên loạn, bị liệt. Chính vì thế, việc lập ra các quy trình thử nghiệm để hợp thức hóa việc sử dụng các thiết bị cấy ghép đòi hỏi thời gian và tiền bạc. Trong lĩnh vực phẫu thuật thần kinh, không có chuyện được nhầm lẫn. Kỹ thuật đầy hứa hẹn và mầu nhiệm này vừa là thiên đường vừa là địa ngục trong tận cùng não bộ… Đấy, tôi tin rằng đó là tất cả những gì chúng ta có thể nói về cuốn sách này.
Sharko gấp cuốn sách lại và đặt nó trước mặt. Không còn câu hỏi nào nữa, hai viên cảnh sát chào nhà khoa học và ra ngoài, với cảm giác chính não họ cũng sắp đầu hàng đến nơi.