Chương 8
Hội cô hồn của Đoãn đã gây nhiều sự nháo nhác ở nơi bán vé và nhà chờ của khách đi tàu. Nhiều người bị rạch túi, bị mất cắp vặt. Một tuần phải đến một đôi lần hành khách bị mất túi, mất ba lô bởi bọn “ôm bom”. Đặc biệt có một “con lỏi” hay đi vơ vất ở sân ga rồi chốc chốc lại luồn lách ở chỗ đông người. Nhác trông thì nó như một đứa ăn xin nhưng nhoáng cái đã có người bị mất ví, bị gạy túi và rồi từ lúc ấy cho đến tít mãi ngày hôm sau không ai thấy mặt mũi con lỏi đâu nữa. Tài thế, loắt choắt như con chuột nhắt mà móc túi thần tình. Ai cũng nghi là “con lỏi” lấy nhưng để bắt được tận tay, day được tận mặt thì chưa.
“Con lỏi” ấy là Mĩm Giò Lụa, loại “chíp hôi” trong con mắt thường tình nhưng lại là tay “làm ăn lợi hại” của HỘI CÔ HỒN.
Đoãn Bụi sau vụ ôm bom trượt của ông khách đi tàu Nam ra đã bị Công an Ga bắt đưa lên quận giam mấy ngày. Những ngày Đoãn bị giam, Mĩm đều mua quà rồi nhờ người mang đi tiếp tế cho chị, Đoãn sau những ngày lăn lóc trong nhà tạm giữ đã rút vào hậu trường, sống lánh bằng cách mua quả mít, quả bưởi bày bán trước cửa ga. Cứ hễ gặp bác “cảnh sát trật tự” ở đâu là Đoãn lại đon đả, thưa chào. Vốn có học nên Đoãn ăn nói lưu loát, đâu ra đấy.
- Thưa bác, bác đã thấy cháu thật sự cải hóa chưa. Ngày nào cháu cũng kiếm đôi ba quả mít, dăm quả bưởi bày bán lấy tiền lãi nuôi thân. Thưa bác, có được những đồng tiền lương thiện trên tay chúng cháu mới thấm hết lời dạy của các bác.
Giọng Đoan cứ thơn thớt ra thế trước các nhà chức trách. Phải nói là Đoãn nhũn như con chi chi để tránh phải gọi lên phường. Sợ nhất đối với Đoãn là phải đi trường, đi trại. Đấy lá bề ngoài. Còn bề trong, Đoãn bảo Mĩm:
- Chẳng có nghề gì ngon ăn bằng nghề ấy đâu, Giò Lụa ạ! Chị làm thế này chẳng qua là che mắt thế gian thôi. Chị cứ ngồi hàng đây nhưng có “mồi” nào sơ hở là chị sẵn sàng “ôm” ngay. Ít nữa bọn “cá” nó ngơi ngơi tay là chị gác đao, gác mẹt. Ngồi ê cả lưng suốt ngày mà không bằng nửa phút ngoáy tay của em.
Còn Gốm thì bụng đã phưỡn ra như cái gió mẹ. Cái thai trong bụng Gốm đã lớn ềnh ễnh trước mắt thiên hạ. Con ai, Gốm không cần biết. Từ ngày ra ga nhập Hội Cô Hồn với Đoãn và Mĩm, Gốm lấy sự lang chạ tối tối làm thú vui kiếm tiền của mình. Bao nhiêu gã đàn ông vãng lai trên thân thể Gốm không hề tính. Chửa thì đẻ, thì nuôi, Gốm nghĩ nôm na như vậy. Và khi đã ì ạch, nặng nề rồi, Gốm nói với Đoãn xin tạm đổi nghề. Đoãn cho là phải nên ngày ngày đến lò bê về cho Gốm mấy chục cái bánh mỳ bày bấn trước cửa ga bên cạnh mẹt mít và bưởi của mình. Như vậy là địa bàn Ga còn mỗi Mĩm trong Hội Cô Hồn hoạt động. Vậy mà chuyện mất cắp, chuyện ôm bom không tuần nào là không xảy ra với hành khách đi tàu. Câu chuyện về “con lỏi” ăn cắp nhanh như điện ngày càng được thêu dệt nên một cách phong phú và lạ lùng. Thoắt ẩn, thoắt hiện. Kinh dị hơn là ăn cắp được cả tiền đút trên túi áo ngực của một ông khách nước ngoài cao đến gấp đôi người nó. Chính vì chuyện mất của người khách ngoại quốc này mà Đoãn không cho Mĩm lảng vảng ở Ga nữa. Theo Đoãn, công an sẽ tìm cách lần ra thủ phạm. Những ngày này Mĩm còn lảng vảng ở ga giờ nào là nguy hiểm giờ ấy. Chính Đoãn đã bị công an gọi lên hỏi về chuyện này.
- Cô chả biết đứa lấy tiền của ông khách nước ngoài?
Đoãn trợn mắt, cãi:
- Cháu không biết ạ!
- Cô nói dối. Theo ông khách mô tả, có ai đó công kênh một đứa bé lên vai đứng phía sau trong lúc ông ta đang ngắm mấy thứ hàng bày trong tủ kính. Ông ta còn có cảm giác túi ngực mình động đậy. Vậy mà, nhoáng một cái...
- Dạ, thật tình, cháu không biết ạ!
- Cô cứ nghĩ kỹ đi. Giúp đỡ công an tìm ra việc này là cô có thành tích. Còn không... Tuy hơi mất thời gian một tý nhưng chúng tôi sẽ quyết tâm tìm ra. Mà tìm ra, cô hiểu chứ, đứa lấy cắp ấy chỉ có việc đi trại...
Đoãn cúi mặt, ấp úng:
- Dạ, cháu sẽ cố mặc dù cho đến bây giờ cháu xin thề danh dự trước các bác là cháu chưa biết đứa nào lấy cắp.
Đứa ấy là Mĩm. Mĩm đã nhờ một đàn anh ở hội khác công kênh mình lên với cái khăn mùi xoa mà nó đã nhanh trí vứt lên nơi mái hiên cửa hàng, ngay trên đầu ông khách nước ngoài. Mĩm lấy được tiền và cả chiếc khăn mùi xoa trên mái.
Chị em Mĩm đã phải “nôn” ra số tiền đã lấy cắp được. Đoãn bảo Giò Lụa:
- Cái này khó trôi lắm Mĩm ạ! Ăn rồi không khéo hóc là chết. Bọn Cá đã gọi chị lên hỏi. Trả họ thôi!
Mĩm nghe chị ngay. Hôm sau, cũng nghe lời chị, Mĩm lên xe buýt đi lánh nạn.
Nơi lánh nạn của Mĩm vẫn là bến xe của cái thị xã nhỏ ven thành phố. Bọn chíp trai bắt Mĩm uống nước cống dạo nọ kết nạp Mĩm vào hội của mình. So với dạo trước Mĩm vẫn nhỏ thó, gầy nhom như thế nhưng đã lanh lợi, đanh đá lên rất nhiều. Hàng ngày chúng tụ tập ở bến xe làm đủ mọi việc mà người ta thuê mướn. Quét sàn xe cho mấy anh phị lái. Bê chõng, bê ghế cho mấy bà hàng nước. Gánh nước thuê cho quán phở. Xếp hàng mua vé cho mấy người lười nhác không chịu chen chúc để ăn tiền chênh lệch. Vác bao tải, vác mía từ trên xe xuống cho mấy bà buôn chuyến... Tất cả những việc lam lũ của bến xe, hễ có ai gọi, ai ới là bọn trẻ xô vào xin việc. Bụi bậm, bẩn thỉu và cực nhọc nhưng có tiền. Có tiền là có cái bánh mì, khúc sắn đút vào họng. Có tiền là có thuốc lá phì phèo cho bọn chíp trai và quả táo, quả khế cho chíp gái. Chúng ở với nhau thành bầy. Lem luốc, rách rưới từ chân đến tóc. Nhiều lúc chúng như chui từ ống khỏi xuống, từ dưới cống lên. Hò hét om sòm. Chửi bới vong mạng. Cỗ lúc đấm đá nhau nữa. Nhưng rồi, đứa nhiều, đứa ít góp nhau lại rồi chia đều bằng nhau miếng ăn, miếng uống. Theo luật giang hồ của lũ trẻ bụi đời làm được đồng nào ăn hết đồng ấy. Sống hôm nay biết hôm nay. Đồng tiền kiếm được trong túi là đồng tiền nóng. Của thiên phải trả địa. Không đứa nào kể chuyện gia đình mình cho nhau nghe. Chúng như từ trời rơi xuống, từ đất nứt lên. Không ông bà, cha mẹ. Không thân thích ruột thịt. Gọi nhau là tao mày. Yêu nhau quá thì đấm thì chửi. Ghét nhau quá cũng đấm, cũng chửi. Không có ai là người lớn trước chúng nó. Chỉ có đồng tiền thuê mướn là có quyền sai bảo bọn chíp. Tối đến, hiên nhà, ghế đá, gốc cây là giường, là chiếu của chúng. Chúng nằm đủ kiểu. Co quắp ôm nhau. Có đứa nằm thẳng đuỗn như đã chết rồi. Có đứa dựa vào góc tường ngủ ngồi. Tiếng muỗi là âm thanh ngọt ngào nhất ru chúng nó vào giấc ngủ...
Đấy là gương mặt lương thiện nhất của bọn chíp khi chúng có việc làm mặc dù với những đồng tiền công rẻ mạt. Còn bất kể lúc nào, trong ngày, trong đêm, hễ một ai đó sơ hở là chúng sẵn sàng thực thi cái phần ác rất bản năng trong tâm hồn trẻ con của mình. Móc ví, rạch túi,áy là chuyện thường tình nếu có điều kiện. Kéo quân phụ nữ chỗ đông người đề lừa lấy đồ. Cắt dây cao su đèo hàng. Giật túi xách tay. Giả đấm đá nhau để người lớn cúi xuống can ngăn là “rạch túi sau”, “móc túi ngực...”.
Khi có bóng công an xuất hiện là đứa nọ nháy đứa kia lảng tránh. Khi bị người mất của nắm được tay là khóc lóc van xin hoặc nhào vào giả cách đánh hôi, lập mẹo giải thoát cho đồng đội.
Bọn chíp khi ẩn khi hiện, khi lành, khi dữ. Lắm lúc thương đến chảy nước mắt nhưng cũng nhiều khi giận muốn băm vằm, đó là tâm lý của những người lương thiện bị hại. Còn chúng... không có phía sau đề nương tựa còn phía trước thì mịt mù. Cái dạ dầy là cơ quan sống ngày ngày bắt chúng phải tìm mọi cách để sinh tồn khi không muốn chết. Trẻ con thường sợ ma và không biết chết là gì... Bọn chíp này như một bầy động vật không ai chăm sóc. Và cái dạ dày trẻ con rất háu ăn kia đã biến chúng thành những con vật hoang nhưng láu lỉnh bởi vì chúng đã được sinh ra từ con người.
Mĩm hơn hẳn bọn chíp trai uống nước cống nọ vì nó có Gốm Sư Tử từng là bà Hộ pháp bảo vệ. Bọn chíp nể Mĩm vì nể Gốm. Lần này vào lằm ăn với chúng. Mĩm lại có thêm sự dày dạn sau những ngày lăn lộn kiếm ăn trên địa bàn Ga với Đoãn Bụi và Gốm. Đoãn là một phụ nữ lớn tuổi có học nhưng hư hỏng. Cuộc đời gió bụi đã là thú vui của một cô nữ sinh ưa sống tự do. Gốm là đồng lõa với Đoãn. Đúng hơn là Đoãn đã lôi kéo Gốm thành đồng lõa. Bây giờ Gốm đã có phần gió bụi hơn, Đoãn và Mĩm đã có phần hơn hẳn tay nghề của chị trong việc “ôm, móc, rạch”. Mĩm phải vào đây với hội uống nước cống là chuyện bất đắc dĩ. “Cá” càn giữ ở sân ga và những phố quanh ga sau vụ mất tiền của ông mũi lõ. Đây là lãnh địa của bọn chíp trai uống nước cống cho nên dù đã đồng ý cho Mĩm vào hội rồi nhưng chúng vẫn ra vẻ khinh khỉnh. Chúng làm như Mĩm vào đây để sống nhờ, sống bám. Mĩm sẽ không dựa bà Gốm Sư Tử ra để nạt chúng. Mĩm sẽ làm mọi chuyện để chúng biết rằng nó vào đây là mượn đất chứ không phải sống nhờ.
Mĩm bảo cả bọn chíp trai:
- Tao sẽ không phải ngửa tay xin chúng mày cho ăn đâu. Có đất là có “mồi”. Có mồi là có nhậu. Có khi Giò Lụa còn chiêu đãi chúng mày nữa.
Mĩm đã làm được tất cả những việc mà bọn chíp trai đã làm ở bến xe. Có lúc mồi của Mĩm mang về còn ngon hơn, nhiều hơn bọn chúng. Nhưng để cả bọn bái phục Giò Lụa hoàn toàn thì phải đến chuyện này...
Có ba người đàn ông. Một tóc đã tiêu muối, râu dê, dáng cò hương vẻ như dân nghiện. Một thấp lùn, bụng phệ, tóc gọng kính. Một to cao, đầu húi cua, hai cánh tay đầy vết xăm màu chàm. Ba người khật khưỡng đi từ trong cái làng nhỏ gần bến xe ra. Họ cười nói oang oang. Mặt người nào cũng phởn phơ, hớn hở. Miệng người nào cũng nhớt nhát men rượu.
Một chíp trai bảo Mĩm:
- Bọn đi chơi bạc về.
- Sao mày biết?
- Tao lạ gì. Hôm nào mấy cha chẳng mò vào đây. Loại này là loại cáo già đấy chíp gái ạ. Chúng mò vào đây để bịp mấy đứa chơi bạc loại gà nhép của làng. Cứ trông mặt mũi thế này chắc chắn là thằng nào cũng chặt túi. Giá mà chúng cho bọn mình mỗi đứa một ít thì thích Mĩm nhỉ.
Lời nói của chíp trai cùng hội nghe tồi tội. Cả ngày hôm nay ít việc quét tước, khuân vác. Cảnh sát trật tự đi dạo nhiều. Cả bọn từ sáng đến giờ méo mặt nhìn nhau. Đến tài rút, móc như Mĩm cũng không dám động tay, động chân. Nó biết trong những ngày đặc biệt như thế này nếu không chịu khoanh tay ngồi im thì sẽ có lúc “sa chân vào đòn” là hết đời...
Mĩm bảo chíp trai:
- Mày có muốn tao lộn mề gà bọn này không?
Chíp trai lè lưỡi:
- Đề nó bẻ gãy tay à. Gái lão loẻo khoẻo như dân nghiện kia biết võ Ka-ra-te đấy.
Mĩm đanh mặt:
- Bất chấp.
Chíp trai bĩu môi:
- Phét! Thách đấy.
Mĩm bày cách cho chíp trai. Chíp trai nghe có vẻ không tin nhưng vẫn thực hiện mẹo của Giò Lụa. Nó vội đứng lên rồi ba chân bốn cẳng chạy vào trong nhà bán vé.
Lúc này ba tay chơi bạc đang ngồi phệt xuống bãi cỏ uống bia với mực nướng. Họ hề hà chuyện trò. Người vung tay, người múa chân. Đã rượu giờ lại bia. Bia thả dàn. Họ uống như voi uống nước...
Có tiếng thìa gõ lách cách. Một bé trai sáu tuổi quần cộc rách, mình trần, đầu đội mê nón rách, từ cổ buông xuống một cái túi vải. Theo sau bé trai là một bé gái chừng tám chín tuổi, mắt nhắm nghiền đầy dử, tay cầm chéo hai cái thìa, ngang lưng có một sợi đây đay cuốn quanh có buộc vào đấy một sợi dây đay khác nối vào tay dắt của đứa em trai đi trước. Đấy là hai chị em cô bé hát rong của bến xe. Bố mẹ nó làm nghề dọn vệ sinh trong chợ. Thấy đứa con lớn tuy tàn tật nhưng có giọng hát hay nên họ đã nghĩ ra cách này để kiếm tiền. Ngày ngày bố đưa hai con ra bến rồi đến tối mịt lại đón về. Nhiều người chê bai cách làm ăn này của họ, nhưng ông bố chỉ chặc lưỡi: “Cháu có ăn trộm, ăn cắp đâu mà sợ. Thời buổi khó khăn này, làm cái gì ra được đồng tiền là cứ làm!”
Tiếng thìa gõ lách cách đã đến gần chỗ ba người uống bia nọ. Khi chỉ còn cách chỗ họ ngồi vài bước chân, bé trai dừng lại. Tiếng thìa trên tay chị nó vẫn lách cách đều đều.
- Hát đi mày!
Người đàn ông thấp lùn, tóc gọng kính vừa trẹo mồm nhai mực vừa nói.
- Dạ...
Cô bé mù “dạ” lên một tiếng ngọt ngào theo kiểu dạ của thị nữ trong các vở cải lương có vua mà nó từng được nghe. Đôi mi mắt ướt nhoèn của nó khẽ động đậy nhưng không mở được. Chỉ có cái miệng với cặp môi nhỏ hơi khô tái lại vì hát nhiều khẽ động đậy. Nó cất lời...
Chàng ơi... dù cách trở quan san thiếp vẫn một lời thề non hẹn biển, thể xác có thành hơi tan biến nhưng tâm linh vẫn ngày đêm mong ngóng đợi...
Chờ!
Ba người uống bia vỗ đùi đồm độp trước câu “xuống sể” rất mùi của cô bé mù. Cổ người hát thì ngắn và gầy nhưng lời ca thì lê thê, dai dẳng...
Dù ngày cách, đêm ngăn
Dù chuông vàng, điện ngọc
Áo gấm, hài nhung
Năm canh tỉnh giấc
Lòng em luôn nhớ về một mái nhà gianh
Có duyên lứa chúng mình...
Cuộc đời tươi xinh
Đóa hoa chung tình...
Tiếng vỗ tay rộ lên. Người quây quanh nghe cô bé mù hát ngày mỗi nhiều. Già có, trẻ có. Người nghển cổ, người chen chúc. Ba người đàn ông đã thôi uống bia đẻ có thời gian vểnh tai thưởng thức câu hát ẽo ợt của một đứa trẻ tàn tật như thưởng thức một thứ của lạ.
Câu hát dứt. Cô chị mù đứng thở. Đứa em trai mếu máo lật cái nón mê đội đầu giơ ra trước mặt:
- Con lạy ông, lạy bà, lạy cô, lạy cậu! Chị con tàn tật, bố mẹ con chết sớm...
Người đàn ông to con, tốc húi cua sỉ mũi rồi ha hả cười:
- Chết à, đâu. Bố mẹ chúng mày đang ngồi uống rượu với lòng lợn trong chợ kia kìa. Nhưng...
Người đàn ông cho tay vào túi rút tiền. Anh ta bỗng thất sắc, đứng bật lên loay hoay sờ túi và nhìn quanh. Hai người đàn ông kia cũng đứng bật lên. Cả ba cùng kêu toáng vì mất cắp. Khuôn mặt họ lúc trước ngây ngất, phởn phơ, lúc này nhăn nhúm như quả héo...
Cuộc hát rong tự nhiên tan. Mọi người tản ra như ong vỡ. Còn trơ lại trên bãi cỏ chị em cô bé mù và ba người được bạc bị kẻ cắp vét cạn túi.
Tối ấy Mĩm bảo chíp trai:
- Mày mang tiền đến cho con bé mù.
Chíp trai nhăn mũi:
- Không cần!
Mĩm khó chịu, hỏi lại:
- Vì sao?
Chíp trai giải thích:
- Nó cóc biết chuyện của chúng mình đâu. Tao chỉ nói với chị em nó là ngoài quán bia có mấy ông rất thích nghe mày hát. Mày ra làm sáu câu vọng cổ rồi các ông ấy cho tiền.
Mĩm cười thích thú:
- Hay! Chị em nó không biết hội mình làm phi vụ này. Bọn cá sẽ không có lối mà lần...
Ngừng một lát - rồi ra vẻ người lớn - Mĩm nói tiếp:
- Phải chi trả tiền công cho chị em nó. Ăn chơi sòng phẳng.
Sáng hôm sau. Mĩm đã sai chíp trai nọ gói tiền vào cái giấy rách nhặt được ở đống rác, buộc lại cẩn thận. Nhè lúc thằng em trai của cô bé mù không đè ý, Chíp trai đã đút lọt cái gói tiền vào chiếc túi vải đeo lủng lẳng trước ngực nó.
Có một lần Mĩm bị cả bọn chíp trai gọi là con hâm. Mĩm chửi lại chúng là đồ khốn nạn. Bọn chúng định xông vào xử tội nhưng phải lùi lại vì hai tay Mĩm cầm chắc hai hòn gạch củ đậu. Chuyện không có gì ghê gớm nhưng lũ chíp trai là bọn tham ăn nên chúng rất tức tai trước hành động của Mĩm.
Một cô giáo dạy học ở miền núi về quê vì có điện mẹ ốm nặng sắp chết. Cô giơ bức điện khẩn chen vào mua vé ưu tiên để đi tiếp chuyến xe nữa về nhà. Một chíp trai đã rút được ví của cô. Khi đến lượt mình mua vé, cô mới biết là bị mất cắp. Trong chiếc ví là toàn bộ giấy tờ, số tiền lương lĩnh trước, số tiền vay mượn thêm để về thuốc thang cho mẹ. Cô vào đồn công an khai báo và kêu khóc. Nhìn khuôn mặt giàn giụa nước mắt của cô, Mĩm thấy mủi lòng. Hình như Mĩm cũng có mẹ nhưng chưa ai một lần kể cho Mĩm nghe về mẹ mình nên mẹ là thế nào nó không thể hình dung nổi. Hôm nay nhìn cô giáo khóc vì không còn tiền để mua vé và thuốc thang cho mẹ. Mĩm chợt nhận ra chắc mẹ phải là cái gì ghê gớm lắm nên cô giáo mới đau khổ đến thế kia. Lúc ở nhà Mĩm đã nhiều lần hỏi bà về mẹ nhưng bà chỉ im lặng không nói. Hình như bà sợ bố nên không muốn kể cho Mĩm nghe mẹ là xái gì. Giá lúc này có bà ở đây, Mĩm sẽ ôm chầm lấy bà mà hỏi. Nhưng... Xa quá rồi, lâu quá rồi Mĩm không thấy mặt bà. Tự nhiên nước mắt Mĩm ứ ra. Nó nhìn cô giáo mất ví đang than khóc trong đồn công an mà nhớ bà mình đến cồn cào cả người.
Mĩm đã tìm được tên chíp trai ăn cắp ví của cô giáo. Tên chíp trai chưa kịp nói gì đã bị Mĩm giằng phắt lấy cái ví.
- Mày làm gì?
- Rồi sẽ biết!
Mĩm nhét vội cái ví vào cạp quần của mình. Rồi từ trong một ngõ vắng cạnh bến xe, Mĩm chạy biến đi trước con mắt ngơ ngác của tên chíp trai...
Cô gái mất tiền được nhiều người thông cảm. Có người an ủi cô bằng lời. Có người xin được giúp cô ít tiền. Cô đã có vé xe để đi, có thêm một ít tiền ăn đường. Cô sụt sùi và phần nào bẽn lẽn, xấu hổ nữa trước lòng tốt của mọi người. Cái không may của cô đã phần nào được chia sẻ. Nhưng ai có thể gánh hết được cho cô cái sự mất mát lớn kia. Cô chẳng thể vui khi những đồng tiền ky cóp về thuốc thang cho mẹ đã không còn. Cô lủi thủi ra xe...
Khi chen được lên xe rồi, sau đó được một anh bộ đội nhường ghế cho ngồi, cô giáo cảm ơn và đặt cái làn đang xách nơi tay lên trước. Mặt cô giáo bật sáng. Trên mặt tấm vải mưa đặt trong làn là chiếc ví màu đỏ. Cô ngỡ mình nằm mơ, cô run run tay sờ vào cái vật có vẻ không thật ấy. Nhưng cô đã nhấc được nó lên. Trong ví vẫn còn nguyên vẹn giấy tờ và tiền nong. Kẻ cắp đã trả lại tiền người mất cắp. Ai đã làm cái chuyện lạ lùng này. Hay là... lúc nãy mình nhầm? Cô giáo đã nghi ngờ cả chính mình khi sung sướng nói chuyện với những người ngồi cùng xe.
Nói cách nào về chuyện này, bọn chíp trai vẫn hậm hực. Ngoài chuyện nói Mĩm là “ con hâm”, chúng còn gọi nó là “con dở người”, “con tâm thần” không có mùa. Ức quá Mĩm nói với bọn chúng:
- Giả sử, cô giáo mất hết tiền về đến nhà mẹ cô giáo lại chết nốt. Tao hỏi chúng mày, người chết có thành ma không nào?
- Ma đứt đuôi, chứ lị!
Cả bọn nhao nhao khẳng định.
- Chị tao bảo - Ý Mĩm muốn nói Đoãn - Những người chết oan chết uổng là thiêng lắm. Họ chết là chết giả thôi. Những người ấy sẽ thành những cô hồn lang thang trên mặt đất, đi mây về gió còn nhanh hơn cả tên lửa, tàu vũ trụ nữa kia. Họ làm gì, bọn mày biết không? Họ sẽ đi tìm bằng được những đứa làm cho họ khổ, họ phải chết oan, chết ức để vặn răng, bẻ cổ. Rồi là chặt chân tay ra từng khúc đem xuống địa ngục cho quỷ sứ giã vụn ra làm chả, làm giò cho Diêm vương uống rượu.
Cả bọn chíp ngớ ra trước câu chuyện của Mĩm. Cái chuyện có vẻ đâu đâu ấy không làm chúng quên được cái chuyện ức kia.
Một chíp trai trợn mắt vặn lại Mĩm:
- Thì sao nào?
- Còn sao nữa. Chúng mày sẽ bị bà cụ mẹ cô giáo vặn cổ nếu bà ấy bị chết thành cô hồn.
Cả bọn chíp trai nín lặng. Tuy ngỗ ngược nhưng chúng vẫn là trẻ con. Mà trẻ con thì cái đáng sợ nhất trên đời là ma. Mĩm cũng tin và sợ như thế. Nó đã làm được việc để bọn chíp trai kia cũng tin và sợ như mình.
Sau chuyện này, Mĩm tìm cách xa lánh dần bọn “Chíp trai uống nước cống”. Trong bụng nó khinh bọn này không rộng lượng và biết ăn chơi như mình. Vả lại,một mình Mĩm là gái giữa cái lũ con trai lộc ngộc kia. Mĩm thấy chán. Lúc nào cũng tao mày. Hơi tý là sửng cồ, đấm đá. Mĩm chẳng biết lấy ai là bạn để trò truyện. Có cô bé mù hát rong thì nó sớm đi, tối về. Tuy cũng lang thang như Mĩm nhưng nó còn có bố, có mẹ. Nó đi hát thế này là đi làm ăn theo lệnh của bố mẹ chứ không “cô hồn” như Mĩm.
Đã hai lần Mĩm về thành phố thăm chị Đoãn và chị Gốm. Dạo này ở ga khó làm ăn. Cảnh sát trật tự được tăng cường. Họ có mặt 24/24 tiếng trong nhà chờ, nơi bán vé. Những giờ cao điểm, tàu về, tàu đi... Hành khách ra vào đông là lúc nào cũng có hai, ba “bác” túc trực. Một vài hội làm ăn đã khăn gói di tản đi làm ăn ở lãnh địa khác. Đoãn Bụi đã than thở với Mĩm về nỗi khó khăn này và than cho cái phận phải ngồi bó gối trước mẹt mít, mẹt bưởi. Còn chị Gốm thì đã chửa vượt mặt. Không biết “nồi cấn vỡ” lúc nào. Hội mới lập mà đã phải xẻ đàn, tan nghé. Đoãn khuyên Mĩm cứ chịu khó ở trong đó với bọn chíp làm ăn, lúc nào ngoài này yên chị sẽ nhắn về. Còn chuyện Đoãn bị một anh thương binh vung nạng đánh cho thâm tím cả người thì chị giấu. Chuyện này nếu chị Gốm không kể lại thì Mĩm chẳng biết...
Hôm ấy, Đoãn đang lúi húi bổ bưởi thì có một anh thương binh chống nạng đi qua. Anh dừng lại gốc cây phía trước mặt. Đoãn thấy anh đặt cái túi du lịch xuống đất rồi lúi húi buộc lại dây giày của bên chân lành. Biết có mồi ngon, Đoãn bỏ quả bưởi đang bổ để nhào đến. Khi Đoãn vừa thò tay định ôm cái xắc du lịch chạy thì đã bị anh quay nạng lại ngáng ngã. Và, cứ thế lấy nạng anh phang tới tấp lên người Đoãn:
- Con khốn nạn! Mày lành lặn thế này mà định ăn cướp của những người què cụt như tao hả?
Đoãn chỉ biết ôm mặt tránh đòn. Công an đến, kẻ ôm bom hụt bị dẫn về đồn. Hồ sơ của Đoãn lại điền thêm một tội. Nhưng đau nhất với Đoãn là câu chửi của người thương binh. Người lành lặn lại đi ăn cướp của người què cụt. Và còn điều này nữa - cái tài ôm bom của Đoãn đã bị “xuống nước” sau chuyện bị mấy cái nạng của anh thương binh tặng vào chân, vào lưng. Đoãn giấu chuyện này vì xấu hổ. Mĩm rất thương nhưng không dám nói lời an ủi. Đến bây giờ, Mĩm chưa một lần phải giáp mặt với công an. Nhưng... với Đoãn, chị luôn luôn là người cưu mang, đỡ đần Mĩm. Chị có tấm lòng như bà ở nhà. Mĩm suốt đời mang ơn cứu giúp của chị.
Mĩm đã tìm được việc làm mới ở bến xe. Việc lần này là cố định và lâu dài. Trong lúc đang buồn nản, hoang mang thì việc được ông Bin Còi nhận cho vào làm chân rửa bát ở quán phở là một hạnh phúc.
Ông Bia Còi vốn là lái xe khách của bến. Ông phục phịch, to béo. Sở dĩ ông phải bỏ nghề lái xe chuyển sang làm nghề bán phở tái là do tội đưa mấy bà buôn nạ dòng lên ngồi ở gần ghế rồi co kéo cãi nhau thế nào khiến cái xe ngã nhào xuống con sông đào đang đầy nước. May mà không ai chết. Ông Bin Còi bị thu bằng nhưng lại xin được cái đăng ký mở quắn phở ở bến xe. Phở ông là phở tái lăn. Ngọt, đậm, ròn, dai. Đủ vị đắng, cay, chua, ngọt, có rượu cắm tăm và bia 33 xuất khẩu chính hiệu Sài Gòn. Ông là loại ăn chơi nên khi mở quán biết cả cách chiều khách ăn chơi. Hàng phở Bin Còi ít khi vắng khách. Có khi cửa quán đóng rồi mà trong bàn ăn vẫn rinh rích tiếng đàn ông, đàn bà nói cười. Khách đông, hàng nhiều nên bát đũa bẩn cũng nhiều. Ông đã thuê hẳn một bà già rửa bát nhưng không xuể. Thuê hẳn một phụ nữ chồng bỏ thái bánh cũng chưa hết việc. Ông có vợ nhưng quyết tâm để lại quê chăn nuôi gà lợn và trồng lúa..Nhiều lần vợ ông gợi ý xin lên, nhưng ông gạt phắt đi với lý do không ai trông nom nhà cửa. Quan trọng hơn là không ai đèn nhang thờ phụng tổ tiên. Ông đã vì làm ăn nên mang tiếng bất hiếu. Bà thì không được phép. Chính vì lý do ấy mà bà vợ không mấy khi được bén mảng lên quán phở của chồng. Còn Bin Còi - ông lấy việc thuê người là chính. Có cái lạ là ông toàn thuê phụ nữ. Mĩm là phụ nữ nhỏ tuổi nhất được ông cho đến ở cùng để tiện sai vặt.
“Ông Bin Còi chả giống bố Ngạnh mình ở nhà tý nào” -Hôm đầu tiên được ông chủ hiệu phở nhận vào làm Mĩm đã có sự so sánh ấy. Đầu tiên là ông cho Mĩm ăn một bát phở to. Không có tái lăn nhưng có những xơ thịt được tước từ xương ninh nhừ ra. Mĩm sụp soạp húp nước dùng. Ăn đến đâu Mĩm thấy tỉnh người ra đến đấy.
- Con ăn nữa không?
Ông Bin Còi đã hỏi như thế khi Mĩm ăn đến sợi phở cuối cùng trong bát. Húp nốt chỗ nước còn lại, nó lắc đầu. Thế là sướng lắm rồi.
- Giờ con đi lo việc nhà cửa, hàng họ cho ba. Lát nữa nếu đói, con cứ việc bảo. Mình có no cái bụng thì mới chắc chân, chắc tay gánh vác công việc được.
Mĩm quét nhà. Mĩm lau bàn ghế. Mĩm gánh nước rồi rửa bát, lau bát. Hàng quán mở ra, Mĩm lấy cái chổi tre quét phía trước cho sạch để khách ra vào thấy mát mắt. Có Mĩm giúp, ông Bin Còi đỡ vướng chân vướng tay vào những việc vặt. Đôi tay ông được rảnh rang bốc bánh, bốc thịt rồi múc nước dùng vào bát. Việc bưng bê đã có Mĩm lo. Việc bát đũa khách ăn xong đa có Mĩm dọn đẹp mang ra phía sau cho bà già rửa. Còn thái bánh, thái thịt là ở sâu phía trong do cái chị chồng bỏ đảm nhiệm. Ông Bin Còi cũng xưng ba với chị như xưng vói Mĩm, cũng cho chị ăn phở như cho Mĩm ăn. Ông Bin Còi bảo chị về làm con nuôi ông đã ngót năm nay. Giờ quán có thêm Mĩm, ông cũng muốn Mĩm làm con nuôi mình. Còn bà già nghễnh ngãng rửa bát thì một ngày trả cho cân gạo với vài hào rau là xong. Việc hàng việc quán là ông trông mong ở hai cô con gái nuôi mà ông coi như con đẻ.
Sau ít ngày ở với ông Bin Còi, qua những người xung quanh to nhỏ Mím mới biết cái chị thái thịt thái phở ấy chẳng phải con nuôi con mày gì cả. Ông Bin Còi nói vậy là để che mắt thế gian. Thực ra chị là vợ lẽ không chính thức của ông. Hai người đã lằng nhằng với nhau từ ngày ông Bin Còi lái xe. Rồi chuyện vỡ ra, chị ấy bị chồng đánh cho một trận, đuổi đi. Cũng lúc ấy ông Bin Còi phải gác bằng lái xe. Ngày mở quán phở, ông nhắn chị về với cái cớ nhận chị làm con nuôi đỡ chân đỡ tay trong lúc mình tuổi già sức yếu. Chị chỉ bằng nửa tuổi ông Bin Còi. Còn ông Bin Còi thì đã có cháu nội, cháu ngoại ở quê. Thảo nào mà khi Ông Bin Còi xưng ba với chị, Mĩm chỉ thấy chị tủm tỉm cười. Còn tối tối, ông cho Mĩm cái chiếu dải trên chiếc bàn ăn phở ở gian ngoài để ngủ. Còn gian trong là chiếc giường cá nhân của ông và chiếc chiếu rách trải dưới nền đất của chị. Ông bảo chị ngủ trong ấy cho tiện để sáng sớm còn dậy thái bánh, thái thịt. Đấy là chuyện của ông Bin Còi, chuyện của người lớn. Mĩm nghe vậy biết vậy. Có người còn dọa Mĩm là ông ấy sẽ nuôi cho trơn lông, đỏ da rồi ông ấy sẽ xơi tái. Chả lẽ ông ăn thịt Mĩm. Chắc người ta ghét nên đổ tiếng cho ông. Còn riêng Mĩm, ở với ông, chỉ thấy ông hiền hiền, hay cười, và hay lấy tay bẹo má mình mắng yêu. Ông thương người và tình cảm hơn bố Ngạnh ở nhà nhiều.
Được ở ổn định lại ăn uống đầy đủ và có vẻ tử tế nữa, Mĩm hồng hào, trắng trẻo ra. Chi ở với ông Bin Còi mới được gần năm mà nó lớn lên trông thấy. Người đẫy ra, chân tay mập dần lên. Mĩm đã có dáng một cô gái. Nhác trông nó hao hao nét dịu dàng thầm kín của mẹ Lụa xinh đẹp ngày xưa. Với gần một năm sống trong đời sống hàng quán nó cũng đã biết rất nhiều, đủ chuyện về các loại người, các cách làm ăn, cư xử. Nó biết mình đã lớn lên. Mái quán của ông Bin Còi đã thành ân nhân thứ hai trong cuộc sống lang thang của nó. Nó nghĩ về ông Bin Còi nhiều hơn là nghĩ về bố Ngạnh. Nó mơ ước sẽ được mãi mãi ở đây làm con ông, hầu hạ ông. Mai kia lớn lên như các chị nó sẽ lấy chồng, sẽ có một gia đình như mọi người. Nó nghĩ về bà. Thương bà nhiều, muốn trông thấy mặt bà nhưng lại sợ. Bên cạnh nỗi nhớ bà, bao giờ trong óc Mĩm cũng lừng lững một ông ác đe đọa đó là bố Ngạnh. Dù trước mắt mọi người nó đã phổng phao về hình thể, ra dáng về lời ăn tiếng nói nhưng vẫn là một đứa trẻ non nớt, yếu đuối cần nhiều sự nhờ vả trong buổi sa cơ, lỡ bước này.
Trong lúc Mĩm hy vọng nhiều ở chốn nương thân nơi quán phở thì ông Bin Còi đã mang tai họa đến cho nó. Tội ác không thể hết khi trong lòng người còn ẩn khuất những bóng tối. Bóng tối ấy đã đi ra từ tâm địa của Bin Còi. Đau thay tên đồng lõa với thứ bóng tối nhơ nhuốc ấy lại là người đàn bà thái bánh, thái thịt nọ. Một thằng đàn ông tóc đã bắt đầu bạc với một con đàn bà vì tham của mà ruồng rẫy chồng con đi làm đệm thịt cho kẻ khác đã xúm lại vật đổ con bé ra giường. Đứa đè tay, đứa đè chân. Đứa lấy giẻ, đứa cầm thừng. Mồm Mĩm bị nhét chặt bằng mớ xô màn lau bát. Cổ tay, cổ chân nó đều bị nút thừng rồi kéo căng ra, buộc quặt xuống bốn chân giường. Quần áo nó bị xé rách bươm...
Con đàn bà quỳ trước đầu giường, tay giữ chặt đầu Mĩm không cho lúc lắc, quẫy cựa.
Bin Còi đã chiếm đoạt Mĩm một cách man rợ như thế.
Sáng hôm sau chờ cho Mĩm hoàn hồn trở lại, Bin Còi vẫn ra giọng “ba con” nói với nó:
- Ba cần con là ba cần cái ấy. Công ba bỏ ra nuôi con là để cho ba con mình có được những cái như tối hôm qua.
Mĩm ôm mặt khóc. Đến bây giờ nó vẫn chưa hiểu hết những cái gì đã xảy ra với nó đêm qua. Nó khiếp sợ rồi ngất đi. Có phải người ta nói ông ấy ăn tái mình là như thế không?
Bin Còi vuốt tóc rồi ôm vai Mĩm:
- Đấy...Ba chỉ cần có thế. Ba có đánh đập gì con đâu mà con phải kêu ầm lên.
Mĩm vẫn khóc. Thì ra những cái vuốt má, nắn đùi; những lúc xoa thái dương, đấm lưng cho ông ấy là để cho cái lúc nửa đêm qua ông ấy thục tay vào trong áo, trong quần Mĩm mà sờ soạng, cấu véo. Mĩm đã đỏ mặt phản ứng, kêu ầm lên. Phố vắng lặng vì đã ngủ say cả. Nhè lúc ấy, ông ta đã gọi chị thái bánh, thái thịt vào. Hai người hùa nhau. Một thân một mình Mĩm làm sao chống nổi. Mĩm bị căng ra trên chiếc giường sắt.
Bin Còi lim dim đôi mắt ngái ngủ:
- Đấy- Vẫn cái giọng kể cả - Ba chỉ cần con có thế. Nếu con đồng ý thì ở lại ba nuôi. Bằng không, con đi cũng được. Sau này có chết đói chết khái cũng đừng oán ba là vô lương tâm.
Lại ra đi nữa ư? Đi đâu? Chị Đoãn sau lần “ôm bom” thứ ba bị bắt quả tang đã phải đi trại. Còn chị Gốm bây giờ vừa ôm con vừa bán bánh mỳ. Hội chíp ngoài bến xe đã được công an gom lại đưa đi trường. Có đi bây giờ Mĩm sẽ lại bơ vơ. Làm ăn một mình, không hội không bè dễ bị tóm, bị bắt.
Bin Còi lên giọng:
- Thế nào? Con đi hay con ở?
Mĩm chỉ khóc.
- Tùy son - Bin Còi rắn giọng - Nhưng nếu hở chuyện này ra cho ai biết là tao giết!
Mĩm lau nước mắt lẳng lặng đi mở cửa, dọn quán. Bin Còi nhìn theo khẽ gật đầu.
Tối ấy Mĩm được ngủ yên. Nhưng, tối sau và nhiều nhiều tối sau nữa, Mĩm phải vào nằm chung giường với Bin Còi. Bin Còi, quấn quýt Mĩm và bỏ rơi người đàn bà thái bánh. Mĩm thì chẳng biết gì hơn ngoài chuyện nhắm mắt phục vụ ông chủ. Nó coi đó như cái béo tai, câu chửi tục của những người có tiền thuê mướn.
Nhưng số phận lại tiếp tục hành hạ Mĩm. Trong mắt của người đàn bà thái bánh, Mĩm không còn đáng yêu, đáng thương như trước. Lúc này Mĩm đang là người tranh cướp mất quyền lợi của thị. Thị đã từng giữ đầu Mĩm cho Bin Còi nhưng đấy là sự nuông chiều của một nô lệ với ông chủ thích của lạ. Thị làm thế để muốn được lòng Bin Còi. Muốn Bin Còi quan tâm, chăm bẵm đến mình nhiều hơn. Nào ngờ... Thị đã bày cỗ cho ma xơi. Cái con nhóc Mĩm mới nứt mắt ra mà đã giỏi mồi chài đến thế. Bin Còi đã quên thị khi có Mĩm. Thậm chí Bin Còi còn đuổi hẳn thị ra nằm trên chiếc bàn ăn hôi hám mà Mĩm đã từng nằm. Con đĩ non đã cướp mất cơm chim của thị. Rồi không khéo, mai kia nó hất thị ra lề đường để độc chiếm một mình cũng nên?
Trò mèo mả gà đồng thật nhưng vẫn là chuyện trai trên, gái dưới, vẫn là chuyện ghen tuông muôn thuở. Mĩm chưa hiểu chuyện này nhưng người đàn bà thái bánh nọ rõ hơn ai hết cái sự thiệt thòi của kẻ mất quyền ôm ấp. Thị đã nổi tam bành từ lâu nhưng vẫn phải nín lặng vì sợ Bin Còi.
Nhân có việc hỉ của họ hàng, Bin Còi phải về quê. Hắn giao cửa hàng cho người phụ nữ thái bánh trông nom. Bin Còi đi hôm trước thì nửa đêm hôm sau, Mĩm bị thị vật ngửa ra giường rồi trói nghiến lại như hôm bị Bin Còi làm nhục. Vẫn động tác xé quần xé áo hôm ấy nhưng hôm nay thay vào cái dáng hùng hục của thằng đàn ông mất dạy là những làn roi tre. Thị thái bánh toàn nhè chỗ kia của Mĩm để đánh. Thị đánh cho tiệt những cái thói lẳng lơ của con đĩ non đi. Thị đánh cho mà biết là không có báu gì “mấy cái thứ ấy” mà lôi ra để tranh cướp của người ta...
Đòn ghen trả thù thật ghê gớm. Người đánh, người bị đòn. Cả hai đều là nạn nhân. Những nạn nhân hành hạ nhau. Trong sự tức tối đến mù quáng, cái thị thái bánh kia có biết đâu mình có hơn gì cái kẻ đang bị đánh.
Sớm hôm sau Mĩm thất thểu xách túi quần áo ra khỏi quán. Nó bị dọa giết nếu gan lì ở lại. Không ngờ cái chị thái bánh, thái thịt suốt ngày lầm lì ấy lại ác đến như thế. Mĩm chỉ một mực xin được ở lại để hầu hạ ông Bin Còi và chị mà không được. Cả chuyện Mĩm xin được nán lại mấy ngày đợi ông Bin Còi ra chị cũng không nghe. Chị còn đe sẽ đưa Mĩm lên công an tố cáo...(!)
Mĩm quay lại Ga bế cháu và phụ bán bánh mỳ với chị Gốm. Sau trận đòn ghen người nó thân tàn ma dại. Nó ít ăn, ít ngủ. Nó chỉ dám khai với chị Gốm là bi đòn do móc túi. Gốm tin và thương nó hơn.
- Thôi cứ ở đây chạy bánh về cho chị bản. Lúc nào chị bận thì trông cháu giúp. Ít nữa, khỏe lên chị em mình sẽ nghĩ cách vào ga làm ăn tiếp.
Đất ga là đất dễ kiếm ăn. Vác thuê vài bao tải cũng đủ tiền mua cái bánh mỳ kẹp thịt. Bổ quả mít, quả bưởi như Đoãn Bụi đã làm cũng kiếm được hai bữa cơm rau. Ăn ngon thì khó. Chứ ăn thường thì ngồi lê ở vỉa hè cũng có. Gốm vì bận con nên có vẻ yên phận. Mĩm cũng bám theo sự yên phận ấy của chị mà sống. Vẫn là kiếp lang thang. Ngày phơi mặt ra giữa bụi đường, bụi chợ, tối tối lại ngả cái phản gỗ bán hàng của bà hàng khô ra mắc màn lên ngủ. Hai chị em với đứa nhỏ co quắp, ôm ấp lấy nhau cũng xong đêm.
Đêm dưới mái chợ thật yên tĩnh đối với Mĩm mà sao những nỗi hãi hùng của ngày qua thinh thoảng vẫn bừng lên trong giấc ngủ chập chờn, mỏi mệt của nó. Gốm thỉ nằm là gáy. Đứa nhỏ có khi lăn ra góc phản gần rơi xuống đất chị cũng không biết. Mĩm cứ hễ nhắm mắt là lại thấy Bin Còi và người đàn bà thái bánh, thái thịt. Họ lúc nào cũng lăm lăm tay roi, tay thừng sẵn sàng đánh trói Mĩm.
- Ối... ối...
Mĩm hay bất ngờ thét lên như thế trong đêm. Ấy là lúc nó nửa mê, nửa tỉnh. Ấy là lúc nó có cảm giác mình bị lột trần. Rồi sau đó là Bin Còi như súc gỗ nặng đè lên người nó. Nó đau đớn, ngột ngạt. Nó vùng vẫy và kêu thét lên “ối ối”. Người đầm đìa mồ hôi, chân tay lạnh toát, run rẩy. Nó muốn cầu cứu chị Gốm mà không dám gọi. Chị có thức bây giờ cũng chẳng ích gì. Họa chăng chị giúp nó bớt sợ được chút ít. Còn khi chị đặt mình xuống, gáy ò ò là lất cả nỗi hoang mang, lo lắng của nó lại chỉ có nó chịu. Giá là chuyện gì Mĩm có thể kể hết. Còn chuyện này... Mĩm không thể. Nó đã chớm vào thì con gái. Nó biết chuyện kia mà vỡ ra chỉ tổ xấu hổ. Cho dù đó là chị Gốm.
Đêm nào Mĩm cũng ở trong tâm trạng ấy, cho đến một ngày nó không gượng dậy được nữa, nằm bệt ở một góc sân ga với cái chăn rách đắp ngang người và gói quần áo gối đầu...
Bà Tầm đã ở thành phố gần một tháng trời. Mới đầu bà ở trọ, ăn cơm hàng. Được hai ba ngày có bà cụ bán nước chè vối mách, bà Tầm tìm đến xin ở nhờ sư cụ của một ngôi chùa nhỏ trong phố. Bà bạch hết sự tình gia cảnh của mình cho sư cụ nghe. Vị tăng già động lòng trắc ẩn đã cho bà Tầm ở nhờ một góc nhà tổ.
Ngày ngày bà Tầm lang thang hết phố nọ đến phố kia tìm cháu. Bà vào các cửa hàng ăn uống. Bà lân la hàng buổi ở bến xe, bến tàu. Đâu có đông người tụ tập là bà Tầm đến. Đâu có trẻ con vui đùa, chơi nhảy là bà Tầm sà vào rồi nhìn kỹ mặt từng đứa. Bà đi đến mỏi chân, bà hỏi đến vã miệng mà chưa thấy. Ai cũng bảo không nghe, không biết. Trẻ con lang thang ở phố nhiều. Nơi chúng hay đàn đúm tụ họp là nhà ga, bến xe, bến tàu. Nhà ga bà cũng đã đến đó mấy lần nhưng chỉ thấy trẻ con lạ chứ không thấy cháu mình. Bà mò ra cả bến tàu thủy ở tít mãi nơi bãi sông. Chỉ có nước, có cát với ồn ào bao nhiêu người lạ. Bà vào hỏi khắp các đồn công an. Nhiều chú nhiệt tình cho bà xem những hồ sơ có ảnh trẻ con. Bà soi đi soi lại vẫn không thấy đứa nào có khuôn mặt giống Mĩm. Hay là cháu bà đã chết sông, chết suối ở đâu? Hay là nó bị bắt cóc mất rồi.
Thành phố thì bao nhiêu là nhà, bao nhiêu là đường, bao nhiêu là người. Cứ tiện phố nào là bà đi, tiện ai là bà hỏi. Bà không tiếc lời nói, không nản chân bước. Cuối cùng bà vẫn vô vọng. Tiền mang theo đã tiêu hết mà cháu vẫn bặt vô âm tín. Bà có biết đâu lúc ấy cháu bà đang ở với Bin Còi, cái nơi chỉ cách chỗ bà đi tìm vài hào ô tô buýt.
Bà Tầm về lại làng. Người bà hốc hác, sọm đi. Trông bà chỉ có da bọc xương. Hai hố mắt bà trũng sâu. Bà không đói ăn nhưng đói ngủ. Sau mỗi hôm đi tìm cháu không thấy là bà lại chong chong thức. Muốn ngủ không ngủ được. Đấu óc lúc nào cũng vẩn vơ cái tóc, cái tai, cái mặt, cái mũi con cháu Mịn. Và đêm nào cũng vậy, cứ gần sáng bà mới chợp mắt được một lát.Nhưng nào có được ngủ ngon. Lúc ấy là lúc Mịn hiện về. Người nó xơ xác như cọng rơm, cọng rạ. Nó cứ nhìn bà trừng trừng. Bà hỏi nó không nói, bà gọi nó không thưa. Rồi sau đó là nó ngồi sụp xuống ôm lấy gối bà nức nở khóc. Lúc nó khóc là lúc bà tỉnh. Mà đã tỉnh rồi là không tài nào nhắm mắt tiếp được. Lúc ấy bà chỉ còn việc vã vã ít nước lạnh lên mặt rồi ra ngõ ăn hào sắn, sau đó là xách bị, chống gậy lang thang tìm cháu.
Bây giờ tay trắng vẫn hoàn trắng tay. Bà Tầm than thở hết nỗi niềm với làng với xóm. Bà khóc, nhiều người khóc theo. Ai cũng thương cảnh bà già nua lặn lội hàng tháng trời tìm cháu mà không thấy. Đúng là xảy một ly đi một dặm. Nhỡ tay đánh con, chửi cái, nó uất ức bỏ đi là mất. Nhỡn tiền đấy, bao nhiêu công lênh của bà rồi chú Công cũng bỏ ra hàng mấy tuần liền mà nào có thấy. Vậy mà lúc nghe tin bà Tầm về đến cổng làng, Ngạnh đã đóng cửa, bỏ nhà lên trên Cống Đen uống rượu.
Công là người đến hỏi thăm bà Tầm đầu tiên. Giờ mọi người đã về hết rồi anh vẫn còn nán lại. Anh nói với bà:
- Ngay sau hôm bà đi, con cũng đi. Biết là bà không muốn phiền đến vợ chồng con nhưng con không nỡ lòng nào để bà phải lặn lội một mình. Thằng Ngạnh đã thế chẳng lẽ con cũng thế nốt thì còn ra gì nữa.
Bà Tầm chỉ thở dài. Bà biết Công đã vì bà mà bỏ nhà bỏ cửa đi hàng chục ngày trời. Nó cũng lăn lộn chỗ nọ chỗ kia như bà. Bà chỉ loanh quanh ở trong thành phố, còn nó lên ngược xuống xuôi. Sức vóc thì có đấy, nhưng tiền nong đâu mà phung phí dọc đường.
Bà ngại là bà ngại chỗ ấy.
- Thôi con ạ - Bà Tầm bảo Công - Cái số bác nó thế. Giời để cho con bé nó sống, sau này lớn lên biết nghĩ, nó sẽ tìm đường về. Nhược bằng nó không may chết đi cũng là mát cái phận nó. Chứ cứ ở mãi với cái thằng bạc ác bất nhân này rồi nó cũng chết dần chết mòn. Thật là giời quả báo bác. Có người mẹ nào biết được đứa con mình đẻ ra nó thế nào. Giá biết được thà như cây một bóng còn hơn con ạ!
Công im lặng nghe bà Tầm nói. Anh muốn an ủi bà mà cảm thấy vô vị khi Ngạnh vẫn trơ ì như đá hộc. Sự gánh vác, đỡ đần của anh liệu có ích gì khi người con trai dứt ruột đẻ ra của bà vẫn như người dưng nước lã. Sự tận tình của anh có làm bà vơi đi cái nặng nề của cảnh ngộ. Anh càng sán vào lo lắng chuyện tìm kiếm Mịn thì Ngạnh càng lảng ra. Mịn vẫn chưa thấy. Bà Tầm u uất hơn. Còn Ngạnh, từ ngày Công đi tìm Mịn, hắn đã không thèm nhìn mặt bạn. Lòng tốt của Công đang bị hiểu lầm hay là nó đang cố tình vùi lấp?
Bà Tầm đã phần nào giải đáp được nỗi u uẫn ấy cho Công. Bà bảo anh:
- Con càng ân cần với bác bao nhiêu càng khiến bác đau lòng bấy nhiêu. Giá thằng Ngạnh nhà này được như con.
Bà Tầm sụt sùi khóc. Nỗi đau của bà là thế. Nhưng anh không thể bò rơi bà. Dù sao cũng một thời Ngạnh là bạn của Công. Công không thể thay Ngạnh trong lòng bà. Và anh cũng không thể coi Ngạnh là kẻ bỏ đi, không thèm nhòm ngó đến khi anh còn là bạn. Con người lắm lúc nôm na như khoai, như sắn nhưng cũng lắm lúc rối rắm phức tạp như bụi rậm, hang, hốc. Từ trước đến nay Công toàn nhìn Ngạnh với góc độ là một thằng cố chấp, gàn dở. Nhiều lần to tiếng Công chỉ biết mắng bạn mà chưa biết hỏi bạn rằng vì sao nó lại như thế. Chả lẽ trong bộ óc nó chỉ đen xì một màu thù hận, nghi kị. Chả lẽ trong trái tim nó không biết rung động trước những điều phải trái, máu mủ. Chả lẽ trong Ngạnh chỉ có cái hình bên ngoài là người còn bên trong toàn là nanh với vuốt. Công đã tự lật lại vấn đề và cảm thấy tâm trạng mình nhẹ nhõm lên rất nhiều khi nghĩ đến Ngạnh.
Trời tối lúc nào mà cả hai không hay biết. Hai bà con bên nhau như hai bóng nhờ nhờ bất động.
Công bật lửa tìm đèn. Gian nhà bỗng quang hẳn lên trong màu vàng đục của ánh sáng đèn dầu.
- Bà ơi, giờ bà đi nghỉ đi kẻo mệt. Con về...
Bà Tầm khẽ gật đầu thay cho tiếng trả lời. Công ra đến cổng rồi, anh ngoảnh vào vẫn thấy bà ngồi như lúc anh chào ra về. Bà như đang muốn hóa đá vì không tìm thấy cháu. Cống thấy lo thực sự. Cứ kiểu này không khéo bà Tầm sẽ chết vì sầu não.
Công không về nhà vội. Anh đi thẳng ra đầu làng định len Cống Đen tìm Ngạnh. Vừa may đến gốc đa, anh thấy Ngạnh đang ngất ngưởng đi về.
- Ngạnh đấy phải không?
- Ai?
- Công đây!
- Không dám!
Ngạnh lại ngất ngư bước tiếp. Công đứng chặn ngang. Anh cầm tay Ngạnh. Ngạnh sửng cồ vùng ra;
- Mày định đánh tao đấy à?
Công kéo Ngạnh lại gần gốc đa:
- Đánh đấm gì. Ngồi xuống đây tao nói chuyện.
- Chuyện chó gì mà nói. Buông ra!
- Ơ kìa... Ngạnh!
Ngạnh đang say nên không thể khỏe như Công. Công ấn Ngạnh ngồi xuống chỗ rễ đa dưới chân rồi anh cũng ngồi xuống theo.
Công hỏi Ngạnh:
- Mày có biết hôm nay bà cụ về không?
- Biết.
- Sao mày lại bỏ đi uống rượu?
- Thích!
- Mày quá lăm!
- Bà ấy còn quá gấp mười tao.
Công bá cổ Ngạnh. Mùi rượu nồng nặc phả ra. Kiểu này là Ngạnh uống nhiều.
- Tao hỏi, bà ấy có phải là mẹ mày không?
- Đẻ ra tao nhưng là mẹ con Lụa, bà cái Mịn.
- Chả lẽ bà ấy ép mày lấy Lụa.
- Ôi dào... Chuyện từ tám hoánh còn nhắc.
- Thì thôi. Này Ngạnh...?
Ngạnh nghiêng ngả đầu. Công nghe rõ cả tiếng cộc cộc của đầu Ngạnh va vào đầu mình...
- Nói gì, nói lắm...
- Mày có phải là bố cái Mịn không?
Ngạnh líu lưỡi:
- Phải mà không phải. Người làng bảo nó giống tao. Tao thì bảo nó giống con Lụa.
- Nhưng vẫn là con mày!
- Tùy...
Ngạnh đã muốn ngủ trên vai Công:
- Mày muốn bà cụ sống hay bà cụ chết?
Ngạnh giật bắn người lên. Hai tay Ngạnh quờ quạng:
- Sao... bà ấy chết à?
-...
- Nói đi!
Ngạnh chụp lấy ngực áo của Công. Công thấy tay Ngạnh run run. Hình như câu chuyện giữa kẻ say với người tỉnh, trong sự lỗ mỗ, chệch choạc của lời nói - Ngạnh dã bộc lộ cho Công thấy được cái nét cơ bản của tình mẹ con qua câu hỏi thảng thốt ấy. Ngạnh đã hiểu lầm câu nói của Công. Nhưng chính từ sự hiểu lầm ầy mà Công đã nhận được một tín hiệu vui từ phía con người tưởng như chỉ có chai lì và ngang bướng. Lúc này - Công cười thầm - thế ra rượu cũng có ích cho sự khám phá về nhân cách con người:
- Thôi, lạnh rồi. Để tớ đưa cậu về!
- Mặc tao!
Ngạnh loằng ngoằng bước. Anh ta không còn đi vững nữa. Thân thể Ngạnh đã hết thăng bằng, chúi bên nọ, ngoẹo bên kia. Công dìu Ngạnh mà lắm lúc cũng mất đà theo. Tuy vậy, Công cũng đã dìu được Ngạnh!
- Mẹ nó... Tí thế mà cũng say.
-...
- Muốn uống cho chết mà cóc chết được.
Ngạnh về đến nhà thì đã lả hẳn trên tay Công. Tuy vậy anh ta vẫn còn đủ sức hé mắt nhìn bà Tầm:
- Bà về đấy à?
- Ngạnh say quá, bà ạ!
Công nói với bà Tầm rồi dìu Ngạnh đặt ngay ngắn trên giường. Vừa dính người xuống chiếu Ngạnh đã khò khò ngáy. Công nhìn Ngạnh mà thấy tội, thấy thương. Anh kéo tấm chăn chiên lên đắp ngang bụng cho bạn.
Bà Tầm từ dưới nhà bếp lên. Trên tay bà bưng một chậu nước ấm. Bà giặt chiếc khăn bông rồi lau mặt cho Ngạnh. Lúc này trông Ngạnh ngoan như một đứa trẻ.