← Quay lại trang sách

Chương 6 Cược mạng ở thành Bình An

Thành Bình An nằm phía Đông Bắc Kinh, cách khoảng hơn hai trăm kilomet. Nơi này thuộc phía Tây Nam huyện Tuân Hóa, tiếp giáp với Ngọc Điền và huyện Kế. Hai đầu Nam Bắc đều là dãy Yến Sơn kéo dài, phía Đông là hồ Thúy Bình, ở giữa là đồng bằng màu mỡ, cũng coi như một vùng khá sung túc ở Trực Lệ. Chỉ cần nộp thóc thuế đúng hạn, nơi này sẽ bình yên qua ngày. Cái tên thành Bình An thực là chính xác.

Trưa hôm ấy, một cỗ xe ngựa bánh cao su bon bon chạy trên đường cái dẫn tới thành Bình An. Đôi ngựa kéo xe ngẩng cao đầu ngạo nghễ, hết sức oai vệ, tám chiếc vó nhịp nhàng dận xuống mặt đất vàng, phi như bay. Hai bên đường đều là nhà dân, chùa miếu và kênh mương từ thời Thanh, chưa nhuốm khói lửa chiến tranh nên có một vẻ nên thơ rất riêng.

Ghế đánh xe bên trái là Hoàng Khắc Vũ, bên phải là Phó Quý. Hoàng Khắc Vũ mặc áo chẽn đen như vệ sĩ, nhưng có vẻ bứt rứt căng thẳng. Trong khi đó Phó Quý liên tục nhìn sang hai bên cỗ xe, chừng như sát thủ có thể thình lình xông ra từ bất cứ bụi cỏ nào. Hai bên thắt lưng Phó Quý phồng lên, e rằng không chỉ đem một khẩu súng.

Hứa Nhất Thành ngồi trong xe, dựa lưng vào thành ghế, nhắm mắt dưỡng thần. Y đã cởi bỏ bộ đồ tây, thay sang áo lụa kiểu tàu, còn đeo một cặp kính râm tròn. Hai ngón cái y đeo hai chiếc nhẫn ngọc trong veo, tay vân vê hai hạt hạch đào tía, rất ra dáng một tay buôn đồ cổ mới phất.

Bộ đồ và xe ngựa đều do tông thất nhà Thanh tài trợ, để Hứa Nhất Thành cải trang thành một tay lái buôn xuống thôn quê tìm mua cổ vật, dĩ nhiên phải phô trương thanh thế. Đổi lại, Hứa Nhất Thành buộc phải đồng ý cho Hải Lan Châu đi theo.

Hải Lan Châu lúc này đang ngồi cạnh Hứa Nhất Thành, mặc một bộ đồ tân thời trắng tinh, đội mũ đính hoa cánh bướm cực lớn, vành mũ bằng ren che khuất quá nửa mặt, chỉ để lộ đôi môi anh đào xinh xắn, trông rất Tây. Cô tì cánh tay đeo găng mảnh dẻ lên bậu cửa sổ, hờ hững chống cằm nhìn ra ngoài, thỉnh thoảng lại ồ lên kinh ngạc.

Hứa Nhất Thành biết tông thất nhà Thanh nhất định sẽ phái người đi cùng để giám sát, song không ngờ lại là Hải Lan Châu. Thành Bình An vốn không yên ổn, Vương Thiệu Nghĩa tàn độc xảo trá, lỡ có biến, Hải Lan Châu chân yếu tay mềm, chẳng rõ sẽ gặp phải chuyện gì. Dục Phương phải hết lời bảo đảm rằng Hải Lan Châu sẽ tự lo cho mình, Hứa Nhất Thành mới miễn cưỡng đồng ý.

Nhìn Hải Lan Châu ăn mặc như đi chơi, Hứa Nhất Thành chợt thấy tò mò, không hiểu cô nàng này tháo vát đến nhường nào mà được tông thất tin tưởng làm vậy. Có điều y không hỏi ra miệng, mà nhìn lảng đi rồi nhắm mắt dưỡng thần. Hiện giờ y phải tập trung toàn bộ tinh lực để đối phó với Vương Thiệu Nghĩa, không hơi đâu quan tâm những việc khác.

Để ý thấy thay đổi nhỏ này, Hải Lan Châu bèn đổi sang một tư thế tao nhã hơn, còn khẽ ngáp duyên. Không khí trong xe êm ả mà gượng gạo.

Chuyến này đến thành Bình An, ngoài Hải Lan Châu, Hứa Nhất Thành còn định dẫn theo ba người: Phó Quý, Hoàng Khắc Vũ, Lưu Nhất Minh. Nhưng vụ nổ súng thình lình chen ngang khiến Hứa Nhất Thành buộc phải để Lưu Nhất Minh ở lại kinh thành lo việc khác.

Phó Quý hỏi y đến thành Bình An rồi định thế nào, Hứa Nhất Thành chỉ đáp gọn lỏn hai chữ: làm lợi.

Vương Thiệu Nghĩa được gọi là Gia Cát ác, chứng tỏ hắn rất thông minh, mà cách tư duy của người thông minh có thể dự đoán được, chỉ có suy nghĩ của kẻ điên mới khó lường. Vương Thiệu Nghĩa tàn độc tới đâu cũng vẫn hành động xoay quanh lợi ích, chỉ cần để hắn thấy có lợi thì bọn họ sẽ được an toàn.

Còn về phần làm sao để Vương Thiệu Nghĩa thấy có lợi, thì phải trông vào Hứa Nhất Thành.

Xe ngựa chẳng mấy chốc đã tới trước cổng thành Bình An, có hai tên lính mặc quân phục Phụng Thiên đứng gác. Cánh quân của Mã Phúc Điền, Vương Thiệu Nghĩa trên danh nghĩa đang nằm dưới quyền Nhạc Triệu Lân quản lý, nên có nơi đóng quân cố định. Tréo ngoe ở chỗ, lính Phụng Thiên tại đây còn tử tế hơn quân Phụng Thiên chính quy trong thành Bắc Kinh. Nghe nói Hứa Nhất Thành đến thu mua cổ vật, lính gác chỉ kiểm tra qua quýt rồi cho vào luôn. Chỉ hiềm, ánh mắt chúng cứ hau háu nhìn Hải Lan Châu. Phó Quý phải trừng mắt mấy lần, chúng mới chịu thôi.

Thành Bình An vô cùng tấp nập, cửa hàng, quán cơm, hiệu bạc, tiệm tạp hóa cái gì cũng có, thậm chí còn thấy cả một rạp hát, tuy không phồn hoa bằng kinh thành, song những gì cần có đều đầy đủ cả. Hải Lan Châu từ trong xe nhìn ra, bất giác trầm trồ, “Tôi cứ tưởng ổ giặc cướp phải bẩn thỉu hỗn loạn lắm, không ngờ cũng chẳng khác gì thị trấn bình thường.”

“Thỏ không ăn cỏ gần hang, ai chẳng muốn sống tiện nghi thoải mái.” Hứa Nhất Thành bình phẩm ngắn gọn. Chớ thấy cảnh tượng yên bình mà lầm, toán giặc cướp này hung tàn nhất vùng Trực Lệ, những kẻ coi thường chúng đều đã chết cả, hơn nữa còn chết rất thê thảm.

“Đã nguy hiểm như vậy, sao anh còn nhúng vào?” Hải Lan Châu chợt hỏi, đây là lần thứ hai cô hỏi câu này.

Lần này ngồi trong khoang xe chật hẹp, Hứa Nhất Thành chẳng trốn đi đâu được. Y trầm ngâm giây lát rồi đáp khẽ, “Tôi muốn trả thù cho một người bạn, nhưng không chỉ có thế.”

Hải Lan Châu hơi nghiêng đầu tỏ vẻ khó hiểu, đợi y giải thích thêm. Nhưng Hứa Nhất Thành không nói gì nữa. Y không muốn nhiều lời với người trong tông thất, bởi ghét vẻ trịch thượng của họ. Hải Lan Châu cũng cảm nhận được thái độ bài xích của y, liền tủm tỉm cười, “Tôi biết anh vẫn nghi ngại, nhưng tôi không giống bọn họ, tôi chỉ thương cha tôi. Đông lăng bị trộm, ông ấy là người đau đớn nhất, đêm không ngủ ngon giấc. Tôi đi với anh chẳng qua là để trọn chữ hiếu với cha, đích thân giúp ông gỡ mối phiền não này.”

A Hòa Hiên đã luống tuổi, gác lăng từ thời trẻ đến tận bây giờ, vậy mà sự nghiệp cả đời đột nhiên bị phủ định, khiến ông khó tránh khỏi chịu đả kích. Hứa Nhất Thành gật đầu vẻ thấu hiểu, với tay vén mành xe nhìn ra ngoài rồi chợt thở dài, “Đông lăng bị trộm, cha cô đau khổ, tông thất lo lắng, nhưng những kẻ khác thì chưa chắc.”

“Ồ? Tại sao vậy?” Hải Lan Châu thắc mắc.

“Cô không biết bây giờ Trung Quốc hỗn loạn đến độ nào đâu. Khắp nơi điên cuồng đào bới mộ cổ, lấy đồ tùy táng đem bán, rất nhiều tay buôn đồ cổ tự bỏ tiền ra thuê đám trộm cắp quật mồ, còn mình đợi bên trên, chuyển từng rương đồ ra ngoài, thứ gì không chuyển được thì phá hủy. Ai nấy hăng say đào xới đến đỏ cả mắt, ngay đất báu như Đông lăng, chỉ cần có kẻ dám cắn miếng đầu tiên, những tên khác sẽ xúm lại như sói đói, gặm sạch không còn một mảnh.”

Hải Lan Châu trợn tròn mắt, cô mới du học trở về, không biết trong nước lại rối loạn tới mức này.

Hứa Nhất Thành siết chặt tay vịn, giọng có phần kích động, “Thầy Lý Tế tôi mở khoa Khảo cổ điền dã ở Thanh Hoa là muốn thay đổi thực trạng này, đưa nó vào quỹ đạo học thuật chính quy. Buôn bán cổ vật suy cho cùng chỉ vì cái lợi riêng, khảo cổ mới thực là nghĩ cho lợi ích chung. Cô du học ở Anh, hẳn cũng biết thế giới văn minh trân trọng và bảo tồn di sản văn hóa thế nào rồi. Nếu Trung Quốc cứ loạn lạc thế này, e rằng văn vật sẽ bị trộm cắp sạch, lòng người tan tác hết, đến gốc rễ cũng bị đánh cắp mất.”

Hải Lan Châu đột ngột hỏi, “Nói vậy thì, nếu vụ trộm Đông lăng không liên quan tới người bạn của anh, anh vẫn sẽ giúp đỡ điều tra ư?”

“Phải!” Hứa Nhất Thành đáp không mảy may do dự, “Đây không chỉ là vấn đề của một người hay của riêng tông thất, mà là mối nguy với toàn bộ lịch sử Trung Quốc. Tôi chỉ sợ một khi kẽ hở hôi của Đông lăng mở ra, đám trộm mộ sẽ thỏa sức cướp bóc, không sao cứu vãn nổi nữa. Sau Đông lăng sẽ đến Tây lăng, sau Tây lăng còn có Minh lăng; Hà Nam có Tống lăng, Thiểm Tây có Đường lăng, Hán lăng. Nghĩ mà xem, nếu các lăng mộ này đều bị khoắng sạch thì đất nước này còn gì đây? Bất luận thế nào cũng không thể để việc như vậy xảy ra được!” Nói tới đây, giọng y run lên.

Hải Lan Châu sững sờ nhìn Hứa Nhất Thành. Trong ấn tượng của cô, Hứa Nhất Thành luôn mỉm cười bình thản, thực không ngờ y cũng có lúc kích động như vậy. Lịch sử Trung Quốc ư… Hải Lan Châu đăm đăm nhìn gương mặt đau xót sau lớp kính đen, cứ ngỡ Hứa Nhất Thành chỉ là một chuyên gia giám định cao tay, chẳng ngờ y còn ôm lý tưởng lớn như vậy.

Hứa Nhất Thành đeo lại kính cho ngay ngắn, khôi phục dáng vẻ con buôn, chỉ có giọng nói vẫn sang sảng, “Thế nên về công hay tư, tôi cũng phải điều tra đến cùng. Điểm này thì cô Hải Lan Châu cứ yên tâm.”

Hải Lan Châu tháo găng tay ren, chìa bàn tay ra trước mặt Hứa Nhất Thành, nhoẻn cười, “Anh đã đích thân đến thành Bình An, tôi còn gì không yên tâm chứ. Có điều xem như cũng hiểu được suy nghĩ của anh, hiện giờ chúng ta đang đứng trên cùng một chiến tuyến, vậy là đủ rồi.” Cô đột ngột đổi giọng, thái độ thân thiết hẳn, Hứa Nhất Thành cũng chẳng so đo, bèn chìa tay ra, đôi bên hào sảng bắt tay nhau.

Hải Lan Châu thấy tay y ấm sực, tiếc rằng vừa siết chặt đã thả ra ngay, cô không có cơ hội cảm nhận thêm.

Cuối cùng xe ngựa cũng đỗ lại trước quán trọ lớn nhất trong thành. Hứa Nhất Thành vừa xuống xe đã nhập vai theo kế hoạch, vung tiền đặt ngay ba gian phòng đẹp nhất. Thấy y rộng rãi, hiển nhiên chủ quán trọ cũng tươi cười niềm nở, phục vụ chu đáo. Nhận phòng xong xuôi, Hứa Nhất Thành xua tên bồi đi, gọi ba người kia vào phòng rồi trình bày đại khái kế hoạch của mình.

Trước đây qua điều tra, họ đã xác định trong số những đồ bồi táng bị trộm, mới chỉ có khánh đồng thếp vàng và chuỗi tràng hạt hổ phách được tuồn ra thị trường, phần lớn các món còn lại chắc chắn vẫn nằm trong tay đám trộm mộ. Rất nhiều kẻ sau khi quật mộ còn om hàng dăm ba năm, đợi sóng yên biển lặng mới đem ra bán, nhưng hai tên này thì đừng hòng. Dưới tay chúng còn một hai nghìn binh mã, hằng ngày phải mất một khoản tiền lớn để nuôi quân. Với đám quân phiệt, chẳng có gì hấp dẫn hơn bạc trắng cả. Nếu Vương Thiệu Nghĩa tham gia vụ trộm Đông lăng, hẳn giờ chúng đang nôn nóng tẩu tán đống đồ kia để sung vào quân lương.

Nhưng buôn bán cổ vật lại có lề lối riêng của nó. Những tang vật này quá nhạy cảm, nếu khơi khơi mang vào tiệm bán, khoan nói tới chuyện bị ép giá, chưa chừng còn bị trói lại đưa lên quan. Nên Vương Thiệu Nghĩa không thể tự thân đi bán mà phải tìm một tay buôn đồ cổ đáng tin cậy, thay hắn âm thầm thủ tiêu tang vật.

Đây là lý do Hứa Nhất Thành cải trang thành một lái buôn đi thu mua cổ vật. Chỉ cần chiếm được lòng tin của Vương Thiệu Nghĩa, thay hắn thủ tiêu tang vật, sẽ biết đám đồ tùy táng ấy đang ở đâu, vậy là chuyến đi tới thành Bình An này thành công rực rỡ.

Những người khác không có ý kiến gì trước kế hoạch này. Hứa Nhất Thành bảo Hoàng Khắc Vũ đi tìm chủ quán trọ, nhờ đem bày một con cóc vàng bằng đồng.

Lái buôn thu mua đồ cổ chia làm hai loại. Một là tự đi xuống nông thôn, tha thẩn khắp nơi tìm kiếm, gọi là “lần tràng hạt”, ý chỉ phải lần từng hạt từng hạt, rất vất vả, nhưng dễ kiếm được đồ tốt, lại mua được với giá hời; còn một loại khác gọi là “đợi thỏ”, thường bày một con cóc vàng trên đầu đặt chồng tiền xu ở nơi đông đúc nhất, tin tức nhanh nhạy nhất khu vực, ví như quán trọ. Làm thế có nghĩa thông báo với dân bản xứ rằng tôi tới tìm mua hàng, trong nhà có thứ gì quý giá có thể đem đến quán trọ mua bán trao tay luôn, ôm cây đợi thỏ.

Hai loại này khác biệt rất nhỏ. Những vựa đồ cổ như Hà Nam, Thiểm Tây, lái buôn thông thường đều lần tràng hạt, tìm lần lượt từng chỗ, bởi có nhiều hàng tốt. Còn đợi thỏ thông thường là ngang qua những nơi không có nhiều di tích cổ cho lắm, lạ nước lạ cái, lại chưa chắc đã kiếm được hàng tốt, bèn công khai rao để người ta tự tới tận cửa.

Hứa Nhất Thành bày cóc vàng ra đồng nghĩa với giăng một bản thông báo, loan tin tới tất cả dân chúng trong thành Bình An, kể cả Vương Thiệu Nghĩa rằng: tôi đi qua đất báu, tiện thể thu mua cổ vật, ai muốn bán xin cứ liên hệ.

Lát sau Hoàng Khắc Vũ trở về, vẻ mặt là lạ, Hứa Nhất Thành hỏi thế nào rồi, Hoàng Khắc Vũ đáp trên tủ quầy đã bày tận ba con cóc vàng. Cũng có nghĩa là đã có ba tay buôn cổ vật nữa đến thành Bình An, đều định đợi thỏ.

Quanh thành Bình An chẳng có di tích gì, từ xưa đến nay cũng chẳng phải đô thành lớn, rất hiếm lái buôn tìm đến đây. Lần này lại mọc ra tận bốn người, quả là quái lạ.

Hứa Nhất Thành ngả người ra chiếc ghế mây, gõ nhẹ lên đầu gối nói, mấy người kia có lẽ cũng nghe loáng thoáng được chuyện Đông lăng nên chạy đến đây gom hàng, tốt thôi, chỉ cần có người câu được hàng trong tay Vương Thiệu Nghĩa ra là thành công rồi.

“Tôi ra ngoài dạo quanh một vòng đã.” Phó Quý nói, rồi chẳng đợi Hứa Nhất Thành phản ứng đã xoay người đi luôn. Hứa Nhất Thành và Phó Quý vốn ăn ý, chẳng cần nhiều lời, chỉ dặn với theo một câu cẩn thận. Phó Quý không hiểu về đồ cổ, chỉ phụ trách bảo vệ an toàn cho mọi người nên phải ra ngoài xem xét địa hình thành Bình An trước.

Hải Lan Châu đứng dậy mở cửa sổ nhìn ra, gian phòng này nằm ở tầng hai, quay mặt ra đường, trông thẳng xuống con phố lớn duy nhất trong thành. Cô cởi mũ ra, mở cúc cổ cho đỡ bức bí. Hoàng Khắc Vũ thấy thế đỏ bừng mặt, quay người toan rời khỏi phòng, song Hứa Nhất Thành lại quát khẽ, “Khắc Vũ, đừng đi lại lung tung, đối diện có người kìa.” Hoàng Khắc Vũ giật mình, nhưng kịp thời phản ứng được ngay. Cậu liếc thấy một bóng người nhoáng qua cửa sổ căn nhà đối diện quán trọ. Có lẽ Hải Lan Châu vừa bước vào phòng đã nhận ra, nên mới cố ý thả lỏng để người khác thấy mà lơ là cảnh giác.

Cô gái này thực không đơn giản chút nào. Hứa Nhất Thành nghĩ bụng rồi vắt tréo chân, giở báo ra thong dong đọc. Hải Lan Châu ngồi ghé vào mép giường, lấy trong túi ra một chiếc bấm móng tay nhỏ, bắt đầu cắt móng. Chỉ có Hoàng Khắc Vũ lúng túng, đứng không được ngồi cũng không xong, nghĩ lại thì thân phận cậu là vệ sĩ, đứng dựa tường là được.

Chẳng mấy chốc, có tên bồi gõ cửa phòng, cung kính thông báo, “Thưa ông Hứa, bên dưới có người tìm ông.”

Ba người đưa mắt nhìn nhau, không ngờ nhanh như vậy đã có kẻ đưa hàng tới. Song nghĩ kỹ lại thì thành Bình An bé bằng bàn tay, hễ có động tĩnh gì, cả thành sẽ biết ngay.

“Khắc Vũ ở lại trông hành lý, còn cô Hải Lan Châu theo tôi.” Hứa Nhất Thành cắt đặt. Hải Lan Châu cười tươi như hoa, “Anh đừng khách sáo gọi cả tên thế, người ta nghi đấy. Cứ gọi tôi là Anne, đây là tên tôi dùng lúc ở Anh.” Hứa Nhất Thành gật đầu tỏ ý đã hiểu.

Nhân lúc đi xuống, Hải Lan Châu tò mò hỏi, “Sao anh lại bảo tôi đi cùng, để Khắc Vũ lại trông phòng?” Cô biết rõ Hứa Nhất Thành vẫn cảnh giác với mình.

Hứa Nhất Thành đáp, “Thời Thanh, ở Quan Đông có tục, thấy ai dắt lạc đà là biết đi bán thuốc. Bởi người Quan Đông chưa bao giờ thấy lạc đà, không biết chúng rất hiền. Thấy người bán thuốc thuần phục được con vật lớn như vậy nghe lời răm rắp, dân chúng ngỡ hắn phải giỏi lắm, thuốc hắn bán chắc chắn có tác dụng.”

Hải Lan Châu ngẩn người, rồi chợt vỡ lẽ Hứa Nhất Thành đang ví mình với lạc đà. Cô cười tít mắt sán đến, “Thế thì tôi làm lạc đà của anh vậy, anh muốn tôi răm rắp thế nào nào?” Lần này đến lượt Hứa Nhất Thành bối rối, vội sải bước đi thật nhanh. Thấy y lúng túng, Hải Lan Châu che miệng cười khúc khích.

Hai người xuống đến nơi, từ xa đã thấy một lão nông dân đứng trước tủ quầy. Lão đội nón lá, da ngăm đen, cặp mắt sụp xuống dưới tầng tầng lớp lớp nếp nhăn, chỉ còn thấy như một đường chỉ, trước cửa còn chềnh ềnh một gánh phân, tuy đã khô nhưng vẫn bốc mùi thối hoăng hoắc.

Thấy tên bồi gọi lại, lão ta vội khom lưng cúi đầu nói, nghe trên phố kháo có khách thương đến thu mua đồ cổ nên đem tới bán. Hứa Nhất Thành đang đóng vai lái buôn đồ cổ, phải tỏ ra lớn lối, bèn vênh mặt lên xẵng giọng hỏi, ông thì có cái gì?

Ông lão chà mạnh tay vào vạt áo rồi lấy ra một cái gối gốm lủng lẳng cạnh quang gánh. Gối này tạo hình đứa bé mũm mĩm nằm ngửa, hai cánh tay mập mạp cầm phiến lá sen. Phiến lá sen hết sức tinh xảo, thấy rõ cả gân lá cuống lá. Có điều sắc gốm khá nhạt, - hẳn là phủ bụi đã lâu, tuy được cọ qua, nhưng không bóng nổi.

Hứa Nhất Thành đón lấy xem xét, ông lão cũng căng thẳng, rướn cổ nhòm. Hải Lan Châu trừng mắt lườm, lão ta mới cười ngượng, lùi lại mấy bước, sợ chạm vào làm bẩn váy cô. Hứa Nhất Thành săm soi một hồi, còn búng ngón tay vào gối mấy cái nghe tiếng trầm đục.

Gối gốm cũng được liệt vào hàng đồ gốm, nhưng không đáng bao nhiêu tiền. Từ thời Tùy Đường mới có, tới thời Tống thì tràn lan khắp nơi, phần lớn bắt nguồn từ lò gốm dân gian, thôi thì đủ hình đủ vẻ, đủ mọi nguồn gốc, hơn nữa khi chôn cất nhất định phải chôn theo, để người chết gối đầu. Thế nên thứ này phần lớn là trộm mộ đào lên, rất hiếm thấy đồ gia truyền.

Hứa Nhất Thành hỏi ông lão lấy được thứ này từ đâu, lão đáp đầu năm nay cuốc đất đào được, từ bấy đến giờ vẫn để ở nhà chèn vại dưa. Có người nói đây là của báu, vừa rồi lại nghe có lái buôn đến thu mua, nên lão cầm tới thử vận may.

Hứa Nhất Thành xem xét một lượt, cũng đã nắm được đại khái.

Gối gốm chia làm hai loại là gối sống để người sống gối và gối xác, cũng gọi là gối thọ hoặc gối âm, để người chết dùng. Hai thứ này khác nhau ở chỗ, gối sống thì đơn giản tiện dụng, bởi người ta dùng để gối thật, còn gối thọ cứng và hoa lệ, bởi người chết không sợ cấn đầu. Đây rõ ràng là gối xác, có lẽ là gốm Định thời Tống. Màu phôi trắng ngả vàng, men loang lổ như lệ nến, ở góc còn thấy lờ mờ hoa văn bàn chải tre*. Món đồ này rất khó định giá, nói đáng tiền thì gối gốm chẳng bán được bao nhiêu, nhưng bảo không đáng thì lại là gốm Định thời Tống.

❖ Vết dao chuốt để lại trong quá trình tạo hình đồ gốm, vì giống vết bàn chải tre nên gọi là hoa văn bàn chải tre. Đặc điểm này khá nổi bật ở gốm Định, trở thành một trong những đặc trưng của nó.

Ông lão chờ mãi sốt ruột, luôn miệng hỏi món này bao nhiêu tiền. Hứa Nhất Thành trầm ngâm giây lát rồi nhíu mày trả lại, đáp rằng thứ này vừa thô vừa nặng, lại chẳng lấy gì làm tinh xảo, chẳng qua kiểu dáng cũng dễ coi, trả ông hai đồng đại dương. Ông lão cò kè trả thêm được không, Hứa Nhất Thành cười nhạt đáp, “Trong khách sạn còn người khác cũng thu mua đấy, ông hỏi thử xem họ trả bao nhiêu?” Đoạn bồi thêm một câu, “Ông đã hỏi người khác thì đừng hối hận nhé.”

Món này trên thị trường ít nhất cũng phải năm trăm đồng đại dương. Nếu là tay buôn cổ vật đích thực thì phải ra sức chê bai dìm giá, để người bán thấy không đáng tiền, mới ăn chênh lệch được nhiều.

“Có người chê thì để tôi xem nào?”

Đang nói thì phía sau quán trọ có người đi ra. Là một tay trung niên dáng hơi đậm, mày rậm, ăn mặc tương tự Hứa Nhất Thành, trước ngực còn đeo đồng hồ quả quýt vàng lủng lẳng. Thì ra tên bồi không chỉ gọi mình Hứa Nhất Thành, mà còn kêu cả một người đợi thỏ khác xuống nữa.

Kẻ kia đi đến, Hứa Nhất Thành gật đầu chào rồi chìa gối ra, “Ông cũng xem qua món này đi?” Hàm ý rằng tôi đã xem rồi, hơn nữa còn trả giá thấp. Nếu không phải thứ quá quý giá thì đối phương thường sẽ thoái thác, bởi chẳng đáng đắc tội với người khác vì món tiền nhỏ ấy.

Nhưng kẻ kia lại giơ tay nhận lấy, săm soi mấy lượt, còn áng chừng trọng lượng rồi hỏi ông lão mấy câu y hệt Hứa Nhất Thành. Ông lão không dám tỏ ra sốt ruột, thực thà có sao đáp nấy. Tay buôn cổ vật nọ nhìn Hứa Nhất Thành rồi nói, “Tôi tăng thêm một đồng đại dương, để lại cho tôi đi.” Hứa Nhất Thành làm bộ bất mãn phản đối, “Này ông bạn, phải có thứ tự trước sau chứ, tôi đã ra giá rồi, ông tự nhiên lại chen vào, phá lệ thế là sao?”

Ngờ đâu kẻ kia cũng chẳng thiết tha, giơ tay nói luôn, “Được rồi tôi không giành đâu, anh cứ mua đi,” rồi quay người bỏ đi. Song Hứa Nhất Thành không chịu buông tha, “Vừa rồi tôi đã ra giá hai đồng đại dương, ông vừa chen vào đã tăng thêm một đồng, giờ lại bảo không mua nữa là sao hả? Cố tình chọc tức tôi à?” Kẻ kia cáu kỉnh gắt, “Sao anh vô lý thế, hỏi mua cũng là phá lệ, không mua cũng phá lệ à?”

Ông lão nơm nớp lại gần, giơ ba ngón tay ra, “Vậy ba đồng đi, được không?” Cặp mắt đùng đục của lão ta sáng hẳn lên vì tiền, rõ cái vẻ khôn vặt. Hứa Nhất Thành cau có, “Vừa nãy đã nói là hai đồng, chỉ đáng bằng ấy thôi. Có giỏi thì bán cho ông ta đi.” Ông lão do dự ra mặt, vừa muốn kiếm thêm đồng bạc lại sợ vuột mất cơ hội, tiến thoái lưỡng nan.

Tay lái buôn kia chẳng buồn cãi cọ với họ, bèn nói: “Được rồi, ba đồng tôi mua, ông đưa đây.” Dứt lời lấy trong túi ra ba đồng bạc trắng lấp loáng, ném cho ông lão, trừng mắt nhìn Hứa Nhất Thành rồi vơ cái gối định lên tầng.

Đột nhiên ông lão nói lớn, “Tôi còn thứ này nữa, ông muốn xem không?” Tay lái buôn kia ngoái lại, nhếch môi định chửi lão ta, nhưng vừa há miệng ra đã thấy ông lão cầm trong tay một khẩu súng lục, họng súng đen ngòm chĩa thẳng vào mình.

“Đợi đã, tôi…” Tay lái buôn chưa kịp nói hết câu đã nghe tiếng đoàng, đầu gối phải tóe máu, ngã nhào từ trên cầu thang xuống, la lên thảm thiết.

Lão nông dân hấp háy mắt, cố tách đống nếp nhăn chồng chéo kia ra. Vẻ mặt tham lam của lão tức thì biến mất, thay vào đó là cặp mắt tàn độc lạnh lùng. Lão chậm rãi đi đến, thấy tay lái buôn ôm chân rên rỉ thì lại giơ súng lên, bồi thêm một phát vào vai gã. Lần này bắn ở cự ly gần, hơn nửa bờ vai nát bét, tay lái buôn rú lên, nằm co quắp dưới đất, run lẩy bẩy. Hải Lan Châu cũng ré lên, nấp sau lưng Hứa Nhất Thành.

Lão nông dân cúi xuống thăm dò hơi thở của gã rồi bảo ông chủ quán trọ, “Khiêng nó xuống đi, đừng để chết, không có chuyện dễ thế đâu.” Vừa nói vừa nhếch miệng cười. Thực ra ngay phát súng đầu tiên, lão đã bắn cho người kia tàn phế, phát thứ hai chỉ để nghe tiếng rên la thảm thiết cho sướng tai mà thôi.

Mấy tay bồi xúm lại ba chân bốn cẳng khiêng lái buôn kia đi, máu nhỏ tong tỏng suốt dọc đường. Trừ Hứa Nhất Thành và Hải Lan Châu, những người khác vẫn thản nhiên, cứ như đây là chuyện cơm bữa.

Lão nông dân lăm lăm súng đi đến trước mặt Hứa Nhất Thành, quan sát y từ đầu đến chân, gấu quần còn vương vệt máu bắn ra. Hải Lan Châu cúi gằm mặt, giữ chặt tay Hứa Nhất Thành, vai run lên. Hứa Nhất Thành giằng tay cô ra mắng, “Đúng là đồ đàn bà ngu ngốc!” Đoạn rút bao thuốc lá Mỹ Nhân trong túi ra, đưa mời lão nông dân một điếu.

Lão cũng chẳng khách sáo, ngậm điếu thuốc rít mấy hơi rồi gật đầu khen, “Xịn đấy.” Lão thong dong hút, Hứa Nhất Thành đứng yên đợi, không nói năng gì.

Hút được nửa điếu lão mới hỏi, “Có biết vì sao tao xử nó mà không xử mày không?” Hứa Nhất Thành đáp, “Biết chứ, ông ta không xịn.” Lão nhướng mày, “Nghe hay đấy, sao lại không xịn?” Hứa Nhất Thành trả lời, “Tôi đang xem hàng của ngài, đã ra giá rồi, ông ta lại đẩy lên, đó là bất nghĩa; đẩy giá lên rồi, tôi nói lý ông ta lại thôi không mua nữa, đó là bất tín; cuối cùng ngài nài thêm, ông ta không thừa cơ ép giá, trái lại còn ném tiền ra rồi đi luôn, đó là bất trí. Người thu mua cổ vật thật chẳng ai làm thế, kẻ này làm gì cũng sai, rõ ràng không phải dân trong nghề, không để tâm vào việc mua bán.”

“Thế mày bảo nó để tâm vào cái gì?”

“Chuyện đó thì tôi không rõ.” Hứa Nhất Thành lại mời điếu khác. Lão nông dân liếc xéo Hứa Nhất Thành, không nhận thuốc mà tóm lấy cổ tay y. Hứa Nhất Thành tái mặt, song không dám vùng ra. Chỉ nghe lão cười khà nói, “Tay nó toàn vết chai dày cộp, thoạt trông đã biết là lính chuyên cầm súng, tưởng đeo cái đồng hồ quả quýt vào là thành người nho nhã được à? Đâu như tay mày thanh mảnh mềm mại thế này, mới giống người vọc đồ gốm sứ thư họa.”

Hứa Nhất Thành rút tay lại cười cầu tài, “Ngài quá khen rồi.”

Lão nông dân thình lình trợn mắt, giọng đanh lại, “Nhưng thành Bình An chó ăn đá gà ăn sỏi, đám thu mua cổ vật cả năm chẳng thèm bén mảng. Mày tới đây đợi thỏ, có phải cũng không để tâm vào chuyện này không?” Lão cố ý kéo dài giọng, nhìn Hứa Nhất Thành, chỉ cần y nói sai một câu, lão cũng chẳng tiếc gì một viên đạn.

Hứa Nhất Thành cười đáp, “Tôi đến đây dĩ nhiên là vì tiền rồi. Nhưng việc có thành được hay không, không phải do tôi, mà phải xem ngài có tác thành cho không?” Lão nhướng mày, nhếch miệng cười hỏi, “Tao quê kệch thế này, tác thành cái gì?” Hứa Nhất Thành nói thẳng, “Đến nước này rồi mà không nhận ra ngài là ai thì tôi nên đập bảng hiệu đi là vừa, ngài bảo có phải không, trung đoàn phó Vương?”

Lão nông dân cười ha hả, ném súng cho chủ quán trọ cạnh đó rồi vỗ vai Hứa Nhất Thành, vẻ tán thưởng, “Thằng này được đấy.” Đây hiển nhiên là Vương Thiệu Nghĩa, hiệu xưng Gia Cát ác. Lão gần như không có bức ảnh nào lọt ra ngoài, Phó Quý ở Sở Cảnh sát cũng chỉ tìm được mấy bản lời khai mâu thuẫn lẫn nhau, tới giờ Hứa Nhất Thành mới biết lão nông dân thấp bé gầy quắt này là Vương Thiệu Nghĩa, thực ngoài sức tưởng tượng.

Vương Thiệu Nghĩa nói, “Đừng trách tao tiếp đãi không được chu đáo, thời gian này quá nhiều gian tế mò tới thành Bình An nghe ngóng tin tức, tao không thể không đề phòng. Tao chẳng tin được ai cả, đành phải tự mình đi kiểm tra.” Đoạn lão nghiến răng hàm ken két, vẻ vẫn chưa hết giận. Hứa Nhất Thành nhìn cái gối gốm, “Ngài chọn món này thực là vừa khéo, không đắt không rẻ, độ khó vừa phải, thử là biết có phải người trong nghề không.”

“Hê, thế nên đám lái buôn lớ ngớ nhất định là gian tế, dù không phải cũng là hạng không thạo nghề, chết chẳng oan.” Vương Thiệu Nghĩa ngang nhiên nói.

Tên Vương Thiệu Nghĩa này quả là cảnh giác, ngay một tên lái buôn cổ vật đến trọ, lão cũng phải đích thân gánh phân tới thăm dò. May sao Hứa Nhất Thành là người trong nghề, bằng không chỉ cần lơ là một thoáng, sẽ để lộ sơ hở giống tay thám tử chẳng rõ được ai phái đến kia, không biết còn bị giày vò dở sống dở chết thế nào.

Hứa Nhất Thành nghĩ bụng rồi khum tay vái Vương Thiệu Nghĩa, “Lần này tôi tới thành Bình An là vì nghe loáng thoáng trung đoàn phó Vương đang có hàng muốn bán. Tiếc rằng không biết cách nào móc nối tới ngài, đành học theo Khương Thái Công ngồi chờ ở đây.” Vừa rồi tiếp xúc, y đã biết Vương Thiệu Nghĩa xảo trá đa nghi, thay vì để lão nghi ngờ, chi bằng tự khai nhận trước.

Vương Thiệu Nghĩa thản nhiên đáp, “Bọn tao đường đường là lính Phụng Thiên, giữ chức trách bảo vệ dân chúng chứ nào phải dân buôn bán, lấy đâu ra hàng? Mày nghe ở đâu ra đấy?” Hứa Nhất Thành đáp, “Dục Bành.” Vương Thiệu Nghĩa cười nửa miệng, “Nó ấy à, lúc nào rảnh tao phải vào kinh tìm nó hàn huyên mới được.”

Hứa Nhất Thành cũng cười theo, “Chưa chắc ngài đã gặp được đâu, tôi nghe nói Dục Bành bị tông thất bắt rồi, giờ chẳng biết ở đâu nữa.” Ngầm ý bảo Vương Thiệu Nghĩa, việc lão trộm Đông lăng đã bị tông thất biết rồi. Nói thế này là âm thầm gây áp lực. Vương Thiệu Nghĩa “ừm” một tiếng, vẻ không mấy quan tâm, lại hỏi, “Gần đây tình hình Bắc Kinh thế nào?”

Hứa Nhất Thành lắc đầu, vẻ lo lắng, “Loạn lạc lắm, mỗi ngày một phách. Lúc thì nói tướng Trương sắp chuồn rồi, lúc thì bảo quân phía Nam đã đánh đến ngoại ô, lúc lại kêu chuẩn bị đàm phán hòa bình, chẳng ai biết chắc được cả.” Vương Thiệu Nghĩa vặn, “Loạn lạc như thế mà mày còn bụng dạ đi thu mua đồ cổ à?”

“Thời loạn mua cổ vật, thời bình bán cổ vật, bọn tôi vốn kiếm tiền theo cách ấy mà.” Hứa Nhất Thành cười nói thẳng.

Vương Thiệu Nghĩa ngẩn người, không ngờ kẻ này lại thực dụng đến vậy, rồi phá lên cười. Hứa Nhất Thành thừa cơ lấy danh thiếp cung kính đưa ra, “Bất luận có hàng hay không, tôi cũng rất hân hạnh được gặp trung đoàn phó Vương. Tôi tên Hứa Nhất Thành, xin đợi ở quán trọ này, chờ ngài sai bảo.”

“Thế thì cứ đợi đi.”

Vương Thiệu Nghĩa cầm danh thiếp, chẳng hứa hẹn gì, quay người bỏ đi. Ngang qua Hải Lan Châu, lão dừng chân, nhếch miệng cười bảo, “Cô nhóc vừa rồi hét cũng được đấy, nhưng còn hơi non, phải về rèn diễn xuất thêm đi.” Hải Lan Châu tái mét mặt, luống cuống lùi lại. Vương Thiệu Nghĩa cười ha hả, giơ ngón tay nhăn nheo quệt vào chiếc cằm nõn nà của cô, “Đã dám đến thành Bình An này, đâu còn sợ tí máu me ấy nữa?” Đoạn đi thẳng ra khỏi quán trọ, quẩy gánh phân lên, lại biến thành lão già quê kệch, đi một bước lắc lư một bước.

Hứa Nhất Thành và Hải Lan Châu quay lại phòng. Vừa bước vào, Hải Lan Châu đã xiêu người đi, suýt nữa ngã bệt xuống đất, may có Hứa Nhất Thành đỡ lấy. Áp lực từ Vương Thiệu Nghĩa quá lớn, cô gần như không chịu nổi. Hứa Nhất Thành nói, “Đã bảo đừng đi mà cô cứ cậy mạnh, giờ rút lui vẫn còn kịp, để tôi bảo Khắc Vũ đưa cô về.”

Hải Lan Châu cắn môi, “Tôi không về đâu! Tôi phải thay cha bắt bọn trộm mộ!” Hứa Nhất Thành khuyên, “Việc này Dục Phương đã ủy thác cho tôi rồi, cô cần gì phải vẽ vời thêm chuyện.” Hải Lan Châu lắc đầu, “Không, Vương Thiệu Nghĩa đã biết mặt tôi rồi, giờ tôi đi, nhất định lão sẽ nghi ngờ.”

Nghe cô nói cũng có lý, Hứa Nhất Thành thở dài, không nói thêm nữa. Hải Lan Châu hỏi tiếp theo phải làm gì? Hứa Nhất Thành đáp, “Vương Thiệu Nghĩa đã biết mục đích chúng ta đến đây, tiếp theo chỉ ngồi chờ thôi. Đừng quên trên tủ quầy ngoài cóc vàng của chúng ta ra, còn ba con nữa, chết một con vẫn còn hai.”

Một lúc sau, Phó Quý quay lại. Hứa Nhất Thành hỏi thế nào rồi, Phó Quý đáp, “Vừa ra khỏi cửa đã bị người ta dính lấy, bám theo đi lòng vòng cả buổi.” Xem ra thành Bình An này ngoài lỏng trong chặt, nhìn thì lơi lỏng song họ vừa vào thành đã bị giám sát chặt chẽ.

Bên trong phòng lặng đi, cảm giác lần này khác hẳn ban nãy, như bị nhốt vào lồng vậy. Vương Thiệu Nghĩa có ý gì, chẳng ai biết được, càng không biết thứ gì đang đợi mình, nhổ lông hay cắt tiết làm thịt hoặc còn gì khác. Hứa Nhất Thành nhận xét, “Lão vẫn đang thăm dò chúng ta, nếu ta manh động bỏ chạy ắt sẽ đâm đầu vào đường chết.”

Hải Lan Châu lườm y, “Vừa rồi còn có người đuổi tôi đi kia đấy, nói như anh thì chẳng phải đó là tự tìm cái chết ư.” Hứa Nhất Thành không nói lại cô, đành gượng cười giở báo ra đọc tiếp.

Suốt cả buổi chiều, bên ngoài quán trọ không có động tĩnh gì khác, dĩ nhiên cũng chẳng ai tới bán đồ. Tối đến, Hứa Nhất Thành gọi ông chủ mang lên vài món ăn, rồi cùng mấy người kia ăn trệu trạo dăm miếng. Y chẳng lấy gì làm nôn nóng, cầm sách lên thong dong giở đọc. Trái lại Hải Lan Châu có phần bồn chồn, cứ đi đi lại lại trong phòng, Hoàng Khắc Vũ trước sau giữ im lặng, còn Phó Quý tháo súng lục ra, lau hết lần này đến lần khác.

Đến mười giờ tối, thành Bình An cửa đóng then cài, không một ánh đèn, im lìm tối tăm như một tòa thành chết. Người trong phòng vốn định ai về chỗ nấy nghỉ ngơi, chợt nghe tiếng bước chân giẫm lên ván gỗ cót ca cót két, rợn cả người. Chẳng mấy chốc, ánh nến vàng vọt đã đến trước cửa, rồi “kẹt” một tiếng, chủ quán trọ đẩy cửa bước vào, nói bằng giọng vô cảm, “Các vị mang theo hành lý lên đường thôi.”

Câu này nghe hết sức âm u rùng rợn. Hứa Nhất Thành hỏi, “Đây là ý của trung đoàn phó Vương à?” Ông chủ lạnh lùng đáp, “Anh không đi cũng chẳng sao, tôi sẽ bẩm lại.” Hứa Nhất Thành đưa mắt cho mấy người kia, cả đám đành lục tục đi theo, nháy mắt đã rời quán trọ, ra phố lớn.

Một hàng năm người nối nhau đi giữa đường phố vắng tanh, chủ quán trọ cầm đèn dẫn đầu, trông như đi gọi hồn. Chẳng mấy chốc, họ bị dẫn vào một nơi tối om. Mượn ánh nến, Hứa Nhất Thành nhận ra đây là miếu Thành Hoàng.

Trong miếu bao trùm bầu không khí rờn rợn, Thành Hoàng lão gia ngự chính giữa, hai bên là Đầu Trâu Mặt Ngựa, Hắc Bạch Vô Thường, thảy đều là tượng đất, mặt mày hung tợn. Phía trên đầu tượng Thành Hoàng còn treo bức hoành phai màu đề bốn chữ “Hạo nhiên chính khí”, hai bên là đôi câu đối “Làm việc gian tà, mặc ngươi thắp hương vô ích; Giữ lòng ngay thẳng, gặp ta không lạy chẳng sao”, nét chữ không tồi, song lúc này đọc được lại thấy trào phúng khôn tả.

Chẳng để họ đợi lâu, Vương Thiệu Nghĩa đã từ sau đại điện đi ra. Lão thay sang quân phục, lưng giắt khẩu súng lục quân dụng Mauser, binh lính vây quanh như hồn ma bóng quế, mặt mày cứng đờ, tay lăm lăm súng trường.

“Tới giờ rồi, theo ta xuống âm tào địa phủ dạo một chuyến đi.” Vương Thiệu Nghĩa nhếch mép cười, trỏ Hứa Nhất Thành và Hải Lan Châu.

Hoàng Khắc Vũ và Phó Quý toan đi theo, song bị đám lính giơ súng trường ngăn lại. Vương Thiệu Nghĩa nói chúng ta đi bàn chuyện mua bán, dẹp súng ống đi. Hai người nhìn nhau, tự biết lão cố ý muốn tách họ ra, nhưng người ta có súng, hễ phản kháng sẽ bỏ xác tại chỗ. Hứa Nhất Thành kéo tay Phó Quý, đưa mắt trấn an. Nếu Vương Thiệu Nghĩa muốn giết họ thì đã giết từ lâu, cần gì đợi đến bây giờ. Phó Quý và Hoàng Khắc Vũ chẳng biết làm sao, đành theo một tên lính ra ngoài.

Đợi họ đi khỏi, Hứa Nhất Thành mới bước lên, đưa thuốc ra mời, “Trung đoàn phó Vương nói xuống âm tào địa phủ nghĩa là sao vậy?”

Vương Thiệu Nghĩa nhận điếu thuốc đáp, “Anh đến tìm ta để mua hàng còn gì? Không xuống dưới làm sao bàn chuyện mua bán được?” Dứt lời chìa tay mời Hứa Nhất Thành đi ra sau miếu.

Hứa Nhất Thành và Hải Lan Châu ra sau miếu Thành Hoàng, thấy có một gian buồng trên lợp ngói dưới xây gạch, tường quét ve đỏ thẫm, rộng chưa đầy ba mét vuông, song ngưỡng cửa cao gần một mét. Thoạt trông thấy căn buồng nọ, Hứa Nhất Thành nhíu mày hỏi Hải Lan Châu, “Cô đã bao giờ vào miếu Thành Hoàng chưa?” Hải Lan Châu lắc đầu, “Tôi từ nhỏ sang Anh du học, chỉ mới nghe nói chứ chưa vào bao giờ?” Hứa Nhất Thành dặn, “Vậy cô nhớ cẩn thận nhé.” Hải Lan Châu ngạc nhiên, bèn hỏi tại sao. Hứa Nhất Thành còn chưa kịp đáp, Vương Thiệu Nghĩa đã giục họ bước vào.

Hai người nhấc cao chân bước qua ngưỡng cửa mới thấy trong buồng trống trơn, chính giữa nền nhà có một cái hố đen ngòm, nom như đường hầm. Bên cạnh có thang gỗ bắc xuống dưới, chẳng biết thông đến tận đâu.

“Mời.” Gương mặt Vương Thiệu Nghĩa thoắt sáng thoắt tối dưới ánh đèn lồng, trông quái dị khôn xiết.

Hứa Nhất Thành bám thang leo xuống, thấy đường hầm rất sâu, nồng nặc mùi ẩm mốc. Xuống đến cuối thang, y thấy Hải Lan Châu cũng đang từ từ tụt xuống. Hình như cô sợ bóng tối, tay cứ run run. Vừa quờ thấy Hứa Nhất Thành, cô liền tóm chặt cánh tay y, giữ khư khư bên mình.

Trước là Hứa Nhất Thành và Hải Lan Châu, sau đến Vương Thiệu Nghĩa và chủ quán trọ, bốn người lần lượt xuống hầm cả. Chợt nghe rầm một tiếng, bên trên đã đóng nắp hầm lại, xung quanh tức thì tối như hũ nút. Hứa Nhất Thành cảm giác trong bóng tối hình như còn những người khác, song chỉ nghe được tiếng thở và bóng dáng thấp thoáng, chẳng rõ có bao nhiêu. Móng tay Hải Lan Châu sắp găm vào thịt y, cô run rẩy hỏi có phải ma không? Hứa Nhất Thành không trả lời thẳng, chỉ dặn cô chuẩn bị tâm lý.

“Xạch” một tiếng, chủ quán trọ quẹt diêm thắp ngọn đèn lồng bằng giấy trắng, chiếu sáng cả căn hầm. Hải Lan Châu chợt rú lên, suýt nữa bấm vào tay Hứa Nhất Thành ứa máu.

Đèn vừa sáng, cô mới thấy những cái bóng xung quanh đều là ma, con nào con nấy mặt xanh nanh vàng, dữ dằn hung tợn, thôi thì đủ cả ma chết treo lưỡi thè lè, ma ngã chết mặt bê bết máu, ma chết chém ngang lưng tay xách bộ lòng, còn cả ma bị cọp vồ, ma chết đuối v.v… con nào con nấy đều chết thê thảm, đứng đầy bốn mặt tường, người hơi đổ về phía trước, như sắp sửa xồ ra, những đôi mắt trống rỗng không có con ngươi cơ hồ dán cả vào Hải Lan Châu.

Hải Lan Châu mặt vàng như nghệ, run lên bần bật. Hứa Nhất Thành vỗ lưng cô, dịu giọng, “Đừng sợ, tượng đất ấy mà.” Hải Lan Châu định thần nhìn kỹ mới phát hiện tất cả đều là tượng, nhưng được làm hết sức sống động, lớp dầu quét bên ngoài lấp loáng dưới ánh đèn vàng vọt, trông như thật vậy.

Hứa Nhất Thành giải thích, “Cô lớn lên ở nước ngoài nên không biết, phía sau miếu Thành Hoàng đều có một gian hầm gọi là gian Âm ti, bên trong thờ tượng các loài ma quỷ để du khách tham quan, coi như được dạo qua âm tào địa phủ một vòng miễn phí.” Hải Lan Châu đưa mắt nhìn, vẫn chưa hết kinh hoảng, tuy biết rõ những thứ này là giả, song không khí quả thực hết sức rùng rợn.

Vương Thiệu Nghĩa cười nói, “Lần này cô hét mới là thực, giỏi lắm, tiến bộ đấy.”

Nếu là miếu Thành Hoàng ở thị trấn hay thành thị lớn thì gian Âm ti còn la liệt mấy chục tượng ma quỷ để nhắc nhở người đời chớ làm việc ác. Có điều thành Bình An chỉ là một địa phương nhỏ, nên gian Âm ti chỉ có chừng bảy tám pho. Hứa Nhất Thành nhìn quanh, nhận ra ở đây không phải chỉ toàn tượng quỷ. Chính giữa gian Âm ti kê một chiếc bàn vuông, đã có hai người ngồi bên bàn, một gầy một béo, đều mặc áo kiểu Trung Quốc. Họ nhìn sang Hứa Nhất Thành, không nói năng gì, ánh mắt không lấy gì làm thiện chí, song cũng mang vài phần sợ sệt.

Vương Thiệu Nghĩa mời Hứa Nhất Thành ngồi xuống bên bàn, Hải Lan Châu buông tay y ra, đứng bên cạnh, mặt cúi gằm, không dám nhìn xung quanh. Hai người kia cũng chẳng chào hỏi gì, cụp mắt vờ ra vẻ bình thản.

Chủ quán trọ cầm đèn lồng giấy trắng, cung kính đứng phía sau. Vương Thiệu Nghĩa tự kéo ghế nghênh ngang ngồi xuống ngay bên dưới cửa hầm. Lão nhìn quanh rồi trỏ thẳng lên trên, “Quỷ môn đóng lại, coi như chúng ta đã bước xuống âm tào địa phủ, cách biệt âm dương, ở đây trời không biết, đất không hay, càng không liên quan tới nhân gian. Các vị có gì cứ nói trắng ra, đừng giấu giếm úp mở nữa.”

Nghe lão nói, mọi người đều thấy ớn lạnh, bất giác rụt cổ lại, như đang ở âm tào địa phủ thật vậy. Cả căn hầm chỉ có một cửa, còn bị Vương Thiệu Nghĩa chốt chặt. Lão muốn gì thì làm nấy, trời không biết, đất không hay, gọi ai cũng vô ích. Mấy người ngồi đó đều như cá nằm trên thớt, mặc lão xà xẻo.

Chủ quán trọ xách đèn đứng sau lưng Vương Thiệu Nghĩa, không trông rõ nét mặt, chỉ thấy một cái bóng, chẳng khác nào phán quan. Hứa Nhất Thành cười thầm trong bụng, Vương Thiệu Nghĩa cố tình chọn nơi rùng rợn thế này, e rằng còn dụng ý khác. Chỉ riêng bầu không khí âm u này cũng đủ làm người ta nhụt hẳn nhuệ khí rồi.

Hài lòng với phản ứng của họ, Vương Thiệu Nghĩa chìa tay nói, “Ba vị đây đều là thương lái đến thành Bình An mua hàng thật, xin mời làm quen với nhau đi.” Hai người kia lạnh nhạt khum tay vái chào rồi giới thiệu tên. Người gầy tên Cao Toàn, nói giọng Thiên Tân; kẻ béo tên Biện Phúc Nhân, nói đặc giọng Sơn Tây, cả hai chỉ báo tên họ, tuyệt nhiên không nhắc mình đến từ đâu, người của tiệm nào, có thể thấy vẫn đề cao cảnh giác.

Bấy giờ Hải Lan Châu mới biết trên tủ quầy quán trọ đặt bốn con cóc vàng nghĩa là có bốn tay buôn đồ cổ đến tìm mua hàng. Vương Thiệu Nghĩa đích thân đến kiểm tra, loại một tay thám tử cải trang, còn lại ba người đủ tư cách được mời xuống Âm ti.

Đợi mọi người chào hỏi xong, Vương Thiệu Nghĩa nheo mắt, “Ta phải hỏi trước điều này, làm sao các vị biết được chuyện anh em ta làm ở Đông lăng?”

Hứa Nhất Thành lúc trước đã trả lời rồi, nên thản nhiên nói là nghe từ Dục Bành, còn hai kẻ kia ấp úng mãi không đáp được. Vương Thiệu Nghĩa đập bàn gằn giọng, “Vừa nãy ta đã nói đấy, Quỷ môn đóng lại rồi, không được phép giấu giếm úp mở nữa! Trước mặt bấy nhiêu ác quỷ thế này mà còn dám nói dối sẽ gặp quả báo đấy!” Thấy hai người kia vẫn phân vân, Vương Thiệu Nghĩa cười nhạt, “Chúng ta nói thẳng ra đi. Việc ta quật mộ nhà Ái Tân Giác La là cơ mật, chỉ anh em trong nhà mới biết. Các người đến thành Bình An, nhất định là vì nội bộ chúng ta đã có kẻ để lộ tin này. Ta không trách tội các người, âu cũng vì kiếm tiền cả mà, nhưng kẻ không giữ được bí mật nhất định phải giải thích rõ ràng. Các người cho ta biết tên kẻ tiết lộ thì chúng ta tiếp tục bàn chuyện mua bán, còn không nói ta sẽ xử luôn các người, cứ suy nghĩ đi.”

Cả gian Âm ti tức thì lặng phắc. Hai người kia cúi gằm mặt, căng thẳng đấu tranh tinh thần. Ngồi trong căn hầm tối tăm, lại bị ma quỷ vây quanh, con người ta vốn đã chịu áp lực quá sức, nên Vương Thiệu Nghĩa chỉ nói vài câu đã lay chuyển được phòng tuyến tâm lý của họ.

Hứa Nhất Thành khẽ thở dài, câu này của Vương Thiệu Nghĩa quả là lợi hại, chẳng khác nào phân hóa lợi ích giữa hai người kia với tên nội gián, những kẻ này là thương nhân buôn bán kiếm lời, có bao giờ đếm xỉa đến nghĩa khí, vì lợi ích, chúng chẳng từ việc gì không làm cả.

Quả nhiên, hai người kia mỗi người khai ra một cái tên. Vương Thiệu Nghĩa gật đầu, rỉ tai nói nhỏ với chủ quán trọ mấy câu. Chủ quán trọ đặt đèn xuống, trèo lên trên mở nắp hầm dặn dò vài lời rồi lại trở xuống. Chẳng bao lâu sau, bên ngoài vang lên hai tiếng súng giòn đanh, làm Cao Toàn và Biện Phúc Nhân giật bắn mình. Vương Thiệu Nghĩa nhếch mép cười, “Các vị xem, cứ ăn ngay nói thật có phải thoải mái không? Được rồi, chúng ta vào việc chính đi.”

Chủ quán trọ cầm một cái túi đặt lên bàn rồi lần lượt lấy từng món ra. Thoắt chốc trên bàn đã xếp đầy một đống. Có mũ phượng đính ngọc trai, chăn kinh dệt bằng tơ vàng, tượng Phật ngọc lớn nhỏ, tượng Phật phỉ thúy, các loại pháp khí bằng vàng bạc, đá quý to cỡ quả trứng gà, tổng cộng hơn hai mươi món. Dưới ánh đèn nhập nhoạng, Hứa Nhất Thành chỉ nhìn thoáng qua, thấy hầu hết đều khớp với danh sách đồ bồi táng của Thục Thận hoàng quý phi bị mất. So với những thứ này, chiếc khánh đồng thếp vàng và chuỗi tràng hổ phách chúng chia cho Dục Bành thực chẳng đáng một xu.

Cao Toàn và Biện Phúc Nhân sáng mắt lên, bởi những món này đều là hàng cứng cả. Hàng cứng nghĩa là bản thân chất liệu của thứ đó đã đáng tiền rồi, ví như viên ngọc lục bảo to bằng quả trứng gà, không cần xem niên đại, chỉ riêng viên đá đã có thể bán giá trên trời; trái với nó là hàng mềm, ví như tranh chữ, vốn chẳng đáng một đồng, chẳng qua nhờ dính đến danh nhân nên giá mới vọt lên.

Những món này không phải vàng thì là ngọc, nếu bán ra thị trường ít nhất cũng phải hơn trăm nghìn đồng đại dương. Bằng không đám lái buôn như họ cũng chẳng cất công lặn lội đến tận đây khi mới nghe được phong thanh. Hứa Nhất Thành chợt nghe Hải Lan Châu phía sau thở gấp, bèn đằng hắng thật khẽ, ý bảo cô bình tĩnh lại. Vương Thiệu Nghĩa cười nói, “Đàn bà con gái thấy trang sức vàng bạc đều như thế cả.”

Cả đám cười rộ lên, không khí cũng nhẹ nhõm phần nào. Vương Thiệu Nghĩa nói, “Những thứ này ta phải mạo hiểm lấy từ lăng phi tần của Đồng Trị ra đấy, các vị đừng để uổng công ta.”

Cao Toàn cười nịnh nọt, “Trung đoàn phó Vương khéo lo, nhà Thanh đã mất bao lâu nay, ai dám đến rầy rà ngài chứ?” Biện Phúc Nhân vội tiếp lời, “Đúng thế, Đông lăng cũng đã bỏ hoang, chi bằng lấy đồ trong đó ra tạo phúc cho người sống còn hơn để đám người chết khư khư giữ làm của riêng.” Vương Thiệu Nghĩa gật đầu liên hồi, rồi đột nhiên hất hàm, nhìn chòng chọc Hứa Nhất Thành, “Sao anh không nói câu nào tâng bốc ta?” Hứa Nhất Thành đáp, “Đào mồ quật mả ắt tổn hại âm đức. Tôi đến thành Bình An để kiếm tiền, không dám tranh tài miệng lưỡi.”

Hai kẻ kia cau mày châm chọc, “Anh cũng xuống Âm ti rồi, còn vờ cao đạo nỗi gì?” Đoạn quay ra ton hót Vương Thiệu Nghĩa, “Kẻ này vô lễ, trơ tráo nói láo, ắt có lòng khác!” Cả hai đều tính toán rằng, đống đồ này phải chia làm ba, nếu bớt được một đối thủ cạnh tranh thì mình ắt có thêm đôi phần.

Song Vương Thiệu Nghĩa chỉ hờ hững đáp, “Anh Thành nói phải lắm, chúng ta đã quật mộ người ta thì cũng không nên huênh hoang khoác lác. Thực ra ta cũng không vì bản thân mà vì nuôi sống hơn hai ngàn quân đấy thôi. Người phải ăn cơm ngựa phải gặm cỏ, lo toan cho họ no đủ cũng chẳng dễ dàng gì…” Dứt lời lão vươn tay đẩy đống châu báu ra giữa bàn, “Ta muốn thủ tiêu tang vật, các người muốn kiếm tiền. Có điều việc buôn bán chỉ có thể do hai người thực hiện, hôm nay các vị lại kéo đến những ba, làm ta hơi khó nghĩ.”

Cả ba đều nín thở, tự biết Vương Thiệu Nghĩa đang đi vào vấn đề chính. Lão nói, “Ta nghĩ đi nghĩ lại, chẳng biết làm sao mới phải, đành hỏi ý trung đoàn trưởng Mã Phúc Điền. Trung đoàn trưởng Mã dù sao cũng là người từng trải, lại hiểu biết. Ông ấy hỏi ta những thứ này liệu bán được bao nhiêu tiền? Ta nói ít nhất cũng phải hơn trăm nghìn đồng bạc. Ông ấy lại hỏi tiền lương của quân ta một tháng bao nhiêu? Ta đáp hơn năm mươi nghìn. Ông ấy nói dù chú bán hết cũng chỉ được ba tháng tiền lương, làm sao đủ? Phải nhìn xa ra chứ? Ta nghĩ cũng phải, mộ phi tần có đào mấy ngôi lên cũng chỉ đủ chi tiêu một hai năm, thấm tháp vào đâu! Muốn đào phải đánh một quả thật lớn!”

Nói tới đây Vương Thiệu Nghĩa gạt đống châu báu trên bàn ra, “Chút của cải này chỉ là thêm nếm thôi. Hôm nay mời các vị đến đây, là muốn bàn một vụ mua bán lớn hơn. Nói đến phú quý nhất Đông lăng thì phải là mộ Lão Phật Gia. Các vị có hứng thú không? Chúng ta ăn trên chiếu của Từ Hi thái hậu đi!”

Lời vừa thốt ra, tất cả đều bàng hoàng. Gương mặt đầy nếp nhăn của Vương Thiệu Nghĩa dưới ánh nến trông còn dữ dằn hung tợn hơn cả đám tượng ma quỷ xung quanh.

Người Bắc Kinh có tuổi vẫn còn nhớ cảnh tượng đám tang Từ Hi năm ấy, quả thực xa hoa tột độ, e là trước nay chưa từng có. Còn những kẻ chuyên buôn bán cổ vật như họ, dĩ nhiên cũng đã đọc Bút ký hiên Ái Nguyệt do chú cháu Lý Liên Anh* viết, thừa biết đồ bồi táng trong mộ Từ Hi nhiều vô kể, đứng đầu trong số các lăng mộ, nếu quật toàn bộ lên thì sẽ là một món tiền kinh thiên động địa.

❖ Thái giám tâm phúc của Từ Hi.

Vương Thiệu Nghĩa dám tính chuyện quật mộ Từ Hi, đủ thấy dã tâm và liều lĩnh đến độ nào. Mộ Thục Thận hoàng quý phi đời nào sánh nổi với mộ Từ Hi. Tuy bấy giờ dân chúng đua nhau đào mồ quật mả nhưng ngang nhiên bàn việc lớn nhường này, ai chẳng chột dạ.

Thấy họ đờ ra vì sợ, Vương Thiệu Nghĩa cười khà, “Trộm mộ cũng như chơi gái, lần đầu bao giờ chẳng căng thẳng rụt rè, nhưng có lần thứ nhất sẽ có lần thứ hai, dần dần là quen thôi.”

Nghe lão đùa mà chẳng ai cười nổi. Bất luận là Hứa Nhất Thành hay hai người Cao Toàn, Biện Phúc Nhân đều nhanh nhạy nhận ra, vừa rồi Vương Thiệu Nghĩa nói rằng “ăn trên chiếu của Từ Hi thái hậu”.

Từ thời Dân Quốc mới có tục ăn trên chiếu. Sau khi thành lập nước Trung Hoa Dân Quốc, các nơi loạn lạc không thôi, mồ mả liên tục bị đào bới, không ai ngăn nổi. Bắt đầu có những tay buôn đồ cổ bỏ tiền ra thuê bọn trộm cướp chuyên đào mồ lấy đồ tùy táng. Về sau đám trộm mộ cảm thấy thế thì thiệt cho mình quá, bèn làm ngược lại, trước tiên ngắm sẵn một ngôi mộ, rồi mời vài tay lái buôn tới, quật lên bán ngay tại chỗ, ai ra giá cao thì được. Vì cả đám người vây quanh mộ chầu hẫu đợi như quây quanh chiếu rượu nên gọi là “ăn trên chiếu”.

Trước tiên lái buôn cổ vật phải bỏ ít tiền cho bọn trộm mộ, coi như đặt cọc. Cầm tiền đặt cọc rồi chúng mới bắt đầu quật mả. Bất luận đào được gì trong mộ thì tiền cọc cũng sẽ không trả lại. Vương Thiệu Nghĩa nói “ăn trên chiếu của Từ Hi thái hậu”, hẳn là định thu tiền cọc của họ trước rồi mới khai quật.

Cao Toàn đập bàn trước tiên, “Được! Trung đoàn phó Vương đã có hùng tâm tráng chí, tôi xin xả thân bồi quân tử.” Biện Phúc Nhân chẳng chịu lép, hùa theo ngay, “Trong mộ Từ Hi đều là máu mỡ của dân cả. Trung đoàn phó Vương thay nhân dân đứng ra lấy lại có gì mà không được.” Vương Thiệu Nghĩa lại đưa mắt nhìn sang Hứa Nhất Thành hỏi, “Anh thấy sao? Sợ rồi à?” Hứa Nhất Thành điềm tĩnh đáp, “Chắc các vị cũng biết mộ Từ Hi lớn đến thế nào. Đó đâu phải phần mộ tầm thường mà nói đào là đào được. Cái khác không nói, nhưng cửa mộ nằm ở đâu? Có ai biết không? Nếu không biết lối vào hầm mộ thì có huy động mấy trăm người đào bới cũng phải mất vài ngày. Dầu chính phủ Bắc Kinh chỉ là bù nhìn, nhưng làm rầm rộ như vậy ắt sẽ đến tai họ. Trung đoàn phó Vương đã nói muốn quật mộ Từ Hi, thì cũng nên cho chúng tôi biết ngài định quật thế nào đã? Tiền quý thật đấy, nhưng phải giữ mạng mới tiêu được.”

Vương Thiệu Nghĩa cười ha hả, “Anh hỏi đúng chỗ quan trọng rồi đấy. Để ta nói cho các vị yên tâm. Năm xưa mộ Từ Hi khi xây cất đến bước cuối cùng có để lại tám mươi mốt thợ đá bít kín lối vào mộ. Vốn dĩ những người này đều đã bị diệt khẩu, nhưng có một người họ Khương, trong lúc đang thi công bị đá lớn rơi trúng, bất tỉnh nhân sự. Thái giám giám sát ngỡ y đã chết, sợ làm bẩn địa cung bèn cho người lôi ra ngoài ném vào khe núi. Nhưng về sau y dần tỉnh lại, trốn về làng mai danh ẩn tính, sống đến tận bây giờ.”

Ba người không ngờ còn có chuyện như vậy, nếu là thật thì việc định vị mộ không thành vấn đề. Cao Toàn mừng rỡ hỏi, “Lẽ nào, lẽ nào trung đoàn phó Vương đã tìm được tay thợ đá đó rồi ư?”

Vương Thiệu Nghĩa đáp, “Chưa, nhưng đã có manh mối rồi, chẳng bao lâu nữa sẽ tìm được thôi.” Ngừng một lát, lão chợt nhìn quanh, “Các vị xem, chuyện cơ mật như vậy mà ta cũng tiết lộ cho các vị, đủ thấy tấm lòng thành rồi chứ? Giờ đến lượt các vị, thể hiện chút thành ý đi thôi.”

Ba người nhìn nhau, thầm nghĩ đây là vòi tiền còn gì. Song Vương Thiệu Nghĩa lại vênh mặt lên, “Lần này ăn trên chiếu, chúng ta thay đổi hình thức đi, các vị khỏi cần ăn, thay ta tẩu tán hàng là được.”

Lệ án trên chiếu thông thường là lái buôn đặt tiền cọc, trộm mộ đào đồ lên giao cho lái buôn là xong, tiền cọc là để đề phòng lỡ như dưới mộ không có gì thì đám trộm mộ cũng khỏi công cốc. Ý Vương Thiệu Nghĩa là trong mộ Từ Hi nhất định có báu vật, không cần đoán m