Chương 7 Ghi chép về đồ cổ China
Chuyện này phải kể từ khi Hứa Nhất Thành rời Bắc Kinh.
Lưu Nhất Minh vốn định theo họ tới thành Bình An nhưng Hứa Nhất Thành giao cho cậu một nhiệm vụ quan trọng hơn, đó là nghĩ cách điều tra chủ mưu vụ tập kích trước nhà hàng Hồng Tân. Lưu Nhất Minh mừng như mở cờ trong bụng, bởi được giao nhiệm vụ quan trọng này chứng tỏ chú Thành đã coi cậu là thân tín. Giờ chính cậu cũng không rõ mình dốc lòng dốc sức như vậy là để đưa Hứa Nhất Thành lên ghế chưởng môn hay vì thần tượng y nữa.
Hoàng Khắc Vũ làm vệ sĩ, chỉ cần đi theo chú Thành là được. Còn điều tra vụ tập kích vừa cần trí tuệ lại cần cả khả năng hành động, chỉ mình cậu mới làm được, Lưu Nhất Minh tin thế.
Viên đạn nọ đã được tìm thấy trong nhà hàng Hồng Tân, thoạt tiên nó xuyên qua bả vai một cảnh sát, bắn vỡ cửa kính rồi găm sâu vào một cây cột sơn đỏ bên trong. Vốn dĩ Sở Cảnh sát cũng chẳng đủ trình độ kỹ thuật để giám định, may mà Phó Quý quen một tay mê súng ống du học Đức về, điều tra hộ dưới tư cách cá nhân, còn tham vấn mấy người bạn phương Tây, cuối cùng mới rút ra được kết luận: viên đạn này do Anh sản xuất, đặc chế cho súng trường Lee Enfield băng đạn ngắn mẫu 5*. Loại súng này chế tạo rất phức tạp, nên không thể xếp vào trang bị quy chuẩn đồng bộ trong quân đội, chỉ sản xuất hai mươi nghìn cây là ngừng. Nhưng so với loại súng trường được sản xuất đại trà thì khả năng ngắm bắn tầm xa tốt hơn hẳn, nên thường được tư nhân thu mua.
❖ Còn được gọi là carbine rừng rậm, phiên bản ngắn và gọn nhẹ hơn đời trước, dành cho lực lượng không quân châu Âu.
Ở Trung Quốc rất ít người có loại súng này. Nói cách khác, hôm đó ở nhà hàng Hồng Tân không thể là đạn lạc của lính Phụng Thiên lảng vảng gần đó, mà nhất định có kẻ chủ tâm mưu sát Hứa Nhất Thành. Hơn nữa kẻ mưu sát lại có khẩu Lee Enfield băng đạn ngắn mẫu 5 hiếm có khó tìm, chứng tỏ thế lực đằng sau rất mạnh.
Lưu Nhất Minh không hiểu gì về súng ống, song cũng biết sau khi rời khỏi nòng súng, đạn sẽ bay thẳng. Cậu quay lại nhà hàng Hồng Tân, đứng trước cây cột bị đạn găm vào, nheo mắt nhìn qua cửa sổ, ngắm thẳng dãy nhà dân trước nhà hàng Hồng Tân.
Tầm bắn của Lee Enfield băng đạn ngắn mẫu 5 phải đến một nghìn yard, tương đương một kilomet. Lưu Nhất Minh chỉ cần lấy nhà hàng Hồng Tân làm tâm, vẽ một đường tròn bán kính một kilomet, những mái nhà dân trong phạm vi này đều có khả năng là vị trí sát thủ ngắm bắn. Cậu lại loại những gian rõ ràng không hợp để bắn tỉa, cuối cùng khoanh vùng được một căn nhà ngói nhỏ. Nhà này bỏ hoang đã lâu, không ai sinh sống, lại ở ngay bên đường, sát thủ có thể leo lên mái mai phục, xong chuyện rồi lập tức bỏ đi mà không bị một ai phát hiện.
Lưu Nhất Minh không tìm được dấu vết gì tại đó, nhưng lại hỏi thăm được một nhân chứng trong số cư dân xung quanh. Đó là một bà cụ sống cùng con trai, tối hôm ấy cụ cãi cọ với con dâu, bị đuổi ra khỏi nhà. Bà cụ vừa tức vừa thẹn, cứ tần ngần trước ngõ đi cũng dở ở không xong. Cụ trông thấy một người từ ngõ sau đi qua, dáng rất cao, chắc chắn không phải láng giềng quanh đây. Thấy kẻ nọ đeo súng, bà cụ ngỡ là thương binh quân Phụng Thiên nên nín bặt không dám lên tiếng. Tính thời gian thì việc đó xảy ra vào khoảng hai tiếng trước vụ tập kích.
Lưu Nhất Minh hỏi kẻ đó có đặc điểm gì không, bà cụ nghĩ ngợi hồi lâu mới đáp chân phải hắn hình như hơi cà nhắc.
Sau đó Lưu Nhất Minh tới khách sạn Đại Hoa, Đoàn khảo sát phong tục China là tổ chức bị tình nghi nhất, phải tiếp cận gần hơn nữa. Họ cảnh giác Hứa Nhất Thành song lại chưa biết mặt Lưu Nhất Minh, nên cậu rất phù hợp thâm nhập điều tra. Có điều, tới nơi hỏi thăm thì được quản lý khách sạn cho biết, hai hôm trước đoàn khảo sát đã rời Bắc Kinh, đi đâu không rõ, nhưng chưa trả phòng.
Lưu Nhất Minh thất vọng ra về, đúng lúc ấy, cậu thấy một người bước ra khỏi khách sạn. Tuy kẻ này mặc áo khoác ngắn hệt như dân Trung Quốc, song toàn thân lại toát lên vẻ nhạy bén khác hẳn những người xung quanh.
Lưu Nhất Minh xuất thân từ danh gia cổ vật, tài quan sát không thể coi thường. Cậu thoạt nhìn đã nhận ra ngay tuy kẻ này cố che giấu, song chân phải quả có hơi cà nhắc. Cậu hỏi quản lý khách sạn đó là ai, ông ta đáp y không ở đây nhưng thường đến gặp người Nhật trong đoàn khảo sát, còn rốt cuộc là người nước nào thì chẳng rõ, bởi y gần như không bao giờ mở miệng.
Lưu Nhất Minh lập tức nhận định đây là người mình cần tìm. Cậu rời khách sạn Đại Hoa, bám theo kẻ đó đi miết về phía Nam. Kẻ này đi đường luôn ưỡn thẳng lưng, bước chân cũng thẳng tắp, không hề nhìn ngang ngó dọc. Lúc này Bắc Kinh đã ở trong tình trạng chuẩn bị khai chiến. Chiến sự phía Nam ngày càng bất lợi, tin đồn trên báo cũng ngày càng nhiều. Ngoài đường ít người đi lại, có đi cũng rất vội vã. Muốn theo đuôi một kẻ như vậy thực chẳng dễ dàng gì. Lưu Nhất Minh làm bộ thản nhiên như không, dần dần rút ngắn khoảng cách với hắn, hơi thở mỗi lúc một thêm dồn dập. Nếu hắn là sát thủ, phát hiện có người bám theo, nhiều khả năng sẽ ra tay giết luôn, tới lúc đó thì đừng nói báo cảnh sát, dẫu có chạy ra giữa đường hô hoán cũng chẳng ai nghe.
Thấy phía trước là một ngã tư, kẻ kia đi đến lề đường, chợt dừng lại. Lưu Nhất Minh thót cả tim, phía trước rõ ràng không có xe, sao hắn lại dừng? Sực nhớ ra chuyện gì hay đã phát hiện bị bám đuôi?
Lưu Nhất Minh đang cân nhắc xem nên tiếp tục bám theo hay tìm chỗ trốn tạm thì bị một bàn tay từ phía sau thộp gáy, một giọng cà trớn cất lên oang oang, “Cha anh đang tìm anh khắp nơi kia kìa! Còn đi chơi à!” Lưu Nhất Minh chưa kịp phản ứng, bàn tay nọ đã xách cổ áo kéo cậu sang một bên. Lưu Nhất Minh quay lại nhìn, ra là Dược Lai.
Dược Lai cũng không tới thành Bình An, Hứa Nhất Thành sợ nó lên cơn nghiện thì gay. Lúc Lưu Nhất Minh đi điều tra cũng không gọi nó, để nó yên ổn ở nhà. Cậu không ngờ nó lại chuồn ra, còn phá đám mình nữa. Lưu Nhất Minh nhíu mày, đang định nói thì Dược Lai đã trừng mắt, “Anh điên hả? Theo đuôi thế hả?” Nó vươn đầu ra ngó rồi lại cố tình cao giọng, “Muốn mua thuốc phiện thì vay tiền em đây này, sao lại chôm đồ của cha anh đi bán?”
Người qua đường liếc qua đều cho rằng Lưu Nhất Minh là một tên phá gia chi tử bị người ta bắt được ngay giữa phố. Lưu Nhất Minh tức anh ách, rõ ràng là trò mèo của Dược Lai, sao lại vu cho cậu. Nhưng suy cho cùng Dược Lai làm thế chỉ để cứu cậu, nên cậu không tiện nổi cáu, thầm nhủ thằng ranh này khéo chọn thời cơ báo thù lắm. Dược Lai lại huyên thuyên một tràng rồi kéo Lưu Nhất Minh đi chỗ khác, len lén ló đầu ra nhòm, thấy kẻ kia đã mất dạng.
“Tao mãi mới bám theo được, bị mày phá đám làm mất dấu rồi thấy chưa?” Lưu Nhất Minh cáu kỉnh nhìn Dược Lai. Dược Lai chun mũi cãi, “Anh đi như thế mà cũng gọi là bám đuôi à? Có mà là củ cà rốt dưới ruộng chờ người ta nhổ lên thì có. Anh không nhận ra kẻ kia đứng lại bên đường, tay phải đang chìa ra à, nếu anh lại gần thêm chút nữa, chưa chừng gặp rắc rối to. Không nhờ thằng em đánh lạc hướng hộ, có khi anh chết còn không biết sao lại chết đấy!”
“Hừm, hai hôm trước chẳng biết đứa nào bị tao bám theo thế nhỉ.”
“Đó là thằng em vội đi mua thuốc nên nhất thời lơi lỏng cảnh giác thôi, bình thường em mắt nhìn sáu đường tai nghe tám hướng, đời nào phạm sai lầm như vậy.”
Lưu Nhất Minh bực bội, “Đừng nói nhiều nữa, giờ hắn chuồn mất rồi, làm thế nào đây?”
Dược Lai cười khì, “Anh yên tâm, em có mấy đứa bạn rất giỏi bám đuôi. Có bọn chúng thay phiên nhau theo đuôi, hắn không chạy được đâu. Hiềm nỗi chúng hơi tham lam…” Nói đến đó thì vê vê ngón tay. Lưu Nhất Minh biết thằng nhóc này quan hệ rộng, quen biết đủ hạng người, đây hẳn là muốn thù lao, bèn cau có đáp, “Miễn là tìm được, tao sẽ cho mày tiền, được chưa?” Dược Lai trả lời, “Anh nói thế thì thằng em yên tâm rồi.”
Đám bạn của Dược Lai quả là lợi hại, chẳng bao lâu sau đã báo tin kẻ kia rời khỏi thành từ phía Nam, đi vào một kho hàng gần đó mãi chưa trở ra. Dược Lai lại nằn nèo đòi Lưu Nhất Minh thưởng, cậu đành lấy tiền để dành của mình ra. Cầm được tiền, Dược Lai vẫy tay về phía xa, tức thì ba bốn đứa bé ăn mặc rách rưới bẩn thỉu chạy đến. Bấy giờ Lưu Nhất Minh mới biết, đám bạn mà Dược Lai nói đều là trẻ ăn mày trong kinh thành.
Dược Lai chia hết tiền cho bọn chúng, bảo đi mua kẹo mà ăn. Đám trẻ mừng rỡ chạy ùa đi, chỉ để lại một đứa dẫn đường. Dược Lai nhìn Lưu Nhất Minh, “Bọn nó không cha không mẹ, tội lắm, em cũng chỉ thay anh làm việc thiện thôi.”
Lưu Nhất Minh đanh mặt lại, “Đừng dài dòng nữa, dẫn đường đi.”
Thành Bắc Kinh tấc đất tấc vàng nên khách buôn từ phía Nam đến đều tập kết hàng số lượng lớn ở gần ngoại thành, dần dà tạo thành một khu kho bãi lớn. Kho bãi hết thảy đều là nhà gạch mái bằng, chạy dài thành một dải. Lưu Nhất Minh và Dược Lai tìm đến, phát hiện kho hàng nọ là của tư nhân, bên trên viết mấy chữ Nhật Bản, bốn bề tường bao, còn trồng một hàng cây dương xung quanh, cổng lớn mở về phía Đông, ngựa xe đều qua được. Bên trong có bốn dãy nhà kho dài, ngăn cách bằng vành đai cứu hỏa.
Trước cổng kho có người canh gác, không thể lẻn vào được, tường bao bốn bề lại cao ngất, Lưu Nhất Minh và Dược Lai phải nấp trong miếu thổ địa gần đó. Cậu hỏi, “Có chắc là trông thấy tên kia đi vào đây không?” Dược Lai gật đầu đáp bọn trẻ lang thang kia ngày nào cũng tha thẩn khắp trong ngoài thành, mấy chuyện đầu đường cuối ngõ này ở Bắc Kinh không ai rành rẽ hơn chúng.
Đi cùng hai đứa là một thằng khỉ con quần áo rách rưới, mũi còn lem vết bùn, tóc tai bù xù như tổ quạ. Thấy Dược Lai, nó vươn cánh tay gầy nhẳng ra, nắm tay siết chặt. Dược Lai hỏi mày tìm được của báu gì thế, thằng nhỏ đáp xe ngựa từ trong kho kia chạy ra đánh rơi, em nhặt được đấy. Dược Lai huých Lưu Nhất Minh, cậu đành miễn cưỡng cho nó một viên kẹo.
Thằng khỉ con bỏ tọt viên kẹo vào miệng, chóp chép rồi mới xòe tay, trong lòng bàn tay là một gói giấy dầu nho nhỏ. Dược Lai vừa trông thấy đã tái mặt, rụt người lại như chạm phải điện. Lưu Nhất Minh lấy làm khó hiểu, còn chưa mở ra sao đã sợ thế? Dược Lai né ra thật xa, tay run lẩy bẩy, “Anh mở ra đi…” Lưu Nhất Minh mở gói giấy dầu ra, thấy một thứ đen đen được ép thành bánh tròn, bèn quay sang hỏi Dược Lai đó là gì. Dược Lai hổn hển đáp, “Đây, đây chính là Kim Đan lần trước em mua đấy, chỉ chưa ép khuôn đóng hộp thôi… Này này anh cầm xa ra đi, kẻo em lại lên cơn bây giờ.”
Lưu Nhất Minh bàng hoàng nhìn kỹ lại, thấy quả thực giống thứ Dược Lai mua ở lầu xanh lần trước. Cậu hỏi, “Chú Thành cho mày thuốc cai rồi cơ mà?” Dược Lai nhớn nhác đáp, “Dù thế cũng đừng đưa thuốc tới trước mặt em chứ, thôi thôi em tránh đi đây, anh tự nghĩ nhé.” Thấy nước mắt nước mũi lại sắp chảy xuống, nó vội dạt ra thật xa.
Lưu Nhất Minh hỏi thằng khỉ con trên xe toàn thứ này à, thằng khỉ con gật đầu, lại nói trong kho còn nhiều hơn. Lưu Nhất Minh kinh hãi, vốn chỉ định điều tra sát thủ ám sát chú Thành, chẳng ngờ lại tìm ra cả một kho thuốc phiện sống. Kho hàng lớn thế này, nếu chứa đầy Kim Đan thì số lượng phải nhiều đến ngần nào?
Cậu nhớ Dược Lai từng nói Kim Đan là hàng Nhật sản xuất tại Đại Liên. Nhưng cậu nghĩ mãi không ra người của Đoàn khảo sát phong tục China sao lại chạy đến kho thuốc phiện này? Lẽ nào chúng lấy tiếng khảo cổ để bán thuốc phiện? Xem ra sự việc ngày càng diễn biến theo chiều hướng kỳ quái.
Lưu Nhất Minh ném bánh thuốc phiện quý giá xuống đất, dùng chân giẫm tới khi nát vụn mới thôi. Cậu gọi Dược Lai lại, Dược Lai mặt mũi bơ phờ, nghe nói cả kho hàng toàn thuốc phiện sống thì trợn tròn mắt, “Thế, thế có khi đủ cho cả Hoa Bắc hút nửa năm ấy chứ, đây chẳng phải là ép chết người ta sao?”
Lưu Nhất Minh hỏi ép chết cái gì, Dược Lai lắc ngón tay đáp, “Ở Bắc Kinh chủ yếu là thuốc nội hiệu Chim Ưng, không bằng Kim Đan, chỉ được cái rẻ. Nếu người Nhật Bản tung ra lượng hàng lớn thế này, giá sẽ giảm mạnh, hàng nội không còn đất sống nữa.”
Còn thế nữa. Lưu Nhất Minh nheo mắt, nghĩ sâu hơn Dược Lai.
Năm Dân Quốc thứ nhất, Bắc Kinh từng cấm ngặt thuốc phiện, nhưng ngay sau đó Viên Thế Khải bắt đầu thu thuế nha phiến, thế là tro tàn lại bùng cháy. Về sau chính phủ Bắc Dương tuy bề ngoài cấm thuốc song bên trong lại âm thầm dung túng, cá biệt như bọn Tào Côn còn định để quan viên và quân đội bán thuốc phiện. Thế nên mấy năm nay tuy người ta vẫn hô hào cấm thuốc, chính phủ cũng liên tục ban bố hết lệnh này đến luật khác nhưng tình hình thực tế ngày càng ác liệt. Giờ nếu người Nhật muốn chen vào thì hẳn là định chiếm lĩnh cả thị trường nha phiến Hoa Bắc, nhân lúc lực lượng chính phủ trống trải, Trương Tác Lâm rút chạy, quân cách mạng lại chưa kịp kéo lên phía Bắc, tham vọng thực không vừa.
Không bắt được cổ vật, lại lần ra thuốc phiện. Thu hoạch bất ngờ này khiến Lưu Nhất Minh dở khóc dở cười. Cậu đẩy gọng kính, thầm tính xem tiếp theo đây phải làm sao.
“Suỵt!” Dược Lai thình lình ấn đầu Lưu Nhất Minh xuống, cổng kho hàng kia đột ngột mở toang, một đoàn người từ trong đi ra. Lưu Nhất Minh thoạt trông đã nhận ra tên cao gầy kia cũng ở trong bọn, nhưng thấy Dược Lai ồ lên, cậu lại chú ý tới một người khác.
Đó là một người trung niên, mặt như diều hâu, không phải Dược Thận Hành còn ai vào đây? Thảo nào Dược Lai ồ lên thành tiếng.
Chưởng môn tương lai của Minh Nhãn Mai Hoa lại âm thầm hẹn gặp người Nhật ở kho thuốc phiện, phát hiện động trời này khiến hai cậu thiếu niên đờ người, không động đậy nổi, càng lúc càng không hiểu chuyện là thế nào.
Đám người đằng xa vẫn không hề hay biết mình đang bị rình mò, hai người nói thêm vài câu rồi bắt tay từ biệt. Dược Thận Hành không gọi xe kéo mà kín đáo đi bộ, chẳng mấy chốc đã khuất dạng. Dược Lai thì thào, “Em nghĩ có lẽ cha em không liên quan đến nha phiến đâu, chỉ mượn chỗ này bàn chuyện gì đó thôi.” Thấy Lưu Nhất Minh lộ vẻ nghi ngờ, nó vội giải thích, “Cha em xưa nay ghét nhất là thuốc phiện, lại bị dị ứng á phiện, lúc ốm đau bác sĩ còn không dám dùng kia mà.”
Dược Lai vẫn lải nhải nói trong khi Lưu Nhất Minh đã sầm mặt lại. Nếu không phải vì thuốc phiện thì chỉ có thể liên quan tới cổ vật thôi. Hứa Nhất Thành luôn cho rằng vụ trộm Đông lăng liên quan tới đoàn khảo sát của Nhật Bản, song không tìm được chứng cứ, lần này có thể coi là gián tiếp chứng thực rồi.
Song Dược Thận Hành đóng vai trò gì trong vở kịch này?
Lưu Nhất Minh đưa mắt nhìn Dược Lai. Cha con đồng lòng, giờ cậu cũng chẳng biết Dược Lai nghĩ thế nào nữa.
Đúng lúc này Dược Lai chợt la lên, “Nguy rồi!” Lưu Nhất Minh ngước nhìn, thấy tên cao gầy kia đang chạy thẳng về phía miếu thổ địa, rõ ràng là nhằm vào họ. Lưu Nhất Minh giật thót mình, vừa rồi kinh ngạc trước sự xuất hiện đột ngột của Dược Thận Hành, họ hẳn đã vô tình để lộ sơ hở.
Ánh mắt tên Nhật kia vô cùng đáng sợ, sắc lạnh như diều hâu, trừng mắt một cái cũng đủ khiến người ta cứng đờ. Hắn chạy rất nhanh, vừa phát hiện thấy họ đã nhào đến trong vòng hai ba bước. Lưu Nhất Minh kịp thời đẩy Dược Lai ra, Dược Lai đã quen tránh đòn roi của cha, nhanh như sóc lách người chạy biến. Nó nhảy xuống con lạch nhỏ, may mắn thoát được, song Lưu Nhất Minh đã bị tên Nhật kia bắt đi.
Dược Lai không dám về nhà, sợ cha phát hiện, cũng không kiếm được ai để bàn bạc, đành quanh quẩn ngoài cổng Tây Trực, đợi bọn Hứa Nhất Thành quay về.
Nghe Dược Lai kể rõ đầu đuôi, tất cả đều ngẩn ra. Dược Thận Hành xưa nay tuy ham quyền thế, nhưng hành xử thận trọng, tuân thủ gia quy, Hứa Nhất Thành thực không sao ngờ được hắn lại tới kho hàng ngoài khu Nam gặp người Nhật, chuyện này rốt cuộc là thế nào?
Phó Quý lên tiếng trước, phá vỡ không khí im lặng, “Việc không thể chậm trễ, chúng ta phải mau đi cứu người, những chuyện khác để sau hẵng nói.” Mọi người đều tán đồng.
Xe ngựa tức khắc quay đầu, chạy thẳng đến kho hàng ở ngoài khu Nam dưới sự dẫn đường của Dược Lai. Giữa đường Phó Quý còn chạm mặt mấy cảnh sát quen, bảo họ rằng đang có cơ hội tra hàng đây. Tra hàng theo cách gọi của cảnh sát có nghĩa là làm tiền, là miếng mồi ngon, nên mấy cảnh sát kia mừng ra mặt, lập tức đòi theo.
Phó Quý hỏi thăm sao thành Bắc Kinh tự dưng hỗn loạn như vậy, bọn họ đáp chiều qua có khói đen bốc lên từ Phủ Tổng thống, lan ra quá nửa con phố bên phải phủ, nửa Bắc Kinh đều trông thấy. Ai cũng nói tổng thống Trương chuẩn bị rút về quan ngoại nên thiêu hủy các văn kiện cơ mật. Chẳng biết có thật hay không nhưng dân chúng tin sái cổ, bắt đầu thu nhặt hành lý chạy ra ngoài thành. Ngô Úc Văn cũng chẳng biết đi đâu mất, Sở Cảnh sát Kinh thành hoàn toàn tê liệt, chẳng trông mong gì duy trì trị an nữa.
Tóm lại một câu, Bắc Kinh giờ đã loạn cào cào, bọn họ về rất đúng lúc.
Khi họ đến kho hàng thì bình minh cũng vừa ló rạng. Bên trong kho vẫn thấp thoáng ánh đèn, trước cổng còn cắt cử hai tên đứng gác, trông hết sức cảnh giác. Xem ra đối phương cũng đã có đề phòng.
“Giờ làm sao đây? Xông thẳng vào à?” Hứa Nhất Thành hỏi. Y chỉ am hiểu cổ vật và khảo cổ, còn về mặt này hoàn toàn không biết gì. Phó Quý chẳng buồn trả lời y mà nhìn sang Dược Lai, “Cháu nhìn thấy chúng vận chuyển thuốc phiện sống ra ngoài à?” Dược Lai vỗ ngực, “Cháu không nhìn lầm đâu, đó nhất định là Kim Đan, hàng thượng hạng đấy.”
Phó Quý gật đầu, quay ra bảo mấy cảnh sát kia, “Các cậu nghe rõ chưa? Kho này tàng trữ thuốc phiện trái phép, tra xét kỹ vào.” Đám cảnh sát nhao nhao bàn tán, xoa tay đầy hào hứng.
Thuốc phiện tuy lưu hành rộng rãi nhưng trên danh nghĩa vẫn là hàng cấm. Chính phủ tiền nhiệm âm thầm dung túng, song chưa bao giờ dám tuyên bố nha phiến là hợp pháp. Thế nên cảnh sát thích nhất là tra xét loại hàng này, vừa được tiếng vừa có miếng. Phó Quý suy nghĩ kín kẽ, sớm đã nhìn thấy hàng chữ Nhật trước nhà kho, nếu không có lý do phù hợp thì đám cảnh sát này nhát như cáy, sẽ không dám trêu vào người Nhật. Lấy danh nghĩa bắt thuốc phiện, thấy cái lợi ngay trước mắt, họ mới có can đảm làm nhiệm vụ.
Phó Quý gọi thêm bốn cảnh sát đi thẳng đến kho hàng. Tới trước cửa kho, hai tên canh gác quát họ dừng lại, Phó Quý liền lấy thẻ cảnh sát ra, lạnh lùng tuyên bố, “Chúng tôi thuộc Sở Cảnh sát Kinh thành, nghi ngờ các anh tàng trữ thuốc phiện.” Hai tên canh gác luống cuống nhìn nhau. Một tên đáp, “Chúng tôi là kho bãi của công ty cổ phần Serizawa, không thuộc phạm vi quản lý của Trung Quốc.” Phó Quý đanh mặt lại, “Láo toét, đây có phải tô giới đâu. Hễ thuộc địa phận Bắc Kinh là thuộc phạm vi quản lý của Sở Cảnh sát!” Nói rồi Phó Quý vung tay, bốn cảnh sát như hổ sói nhanh nhẹn đoạt súng của hai tên lính gác, đè nghiến chúng xuống đất. Hai tay Phó Quý nhoáng lên, thoắt chốc đã tháo khớp hàm và khớp cổ tay chúng. Không hại đến tính mạng nhưng đã triệt tiêu hoàn toàn sức chiến đấu.
Hoàng Khắc Vũ nhìn mà tái mặt. Nếu là cậu, cùng lắm cũng chỉ lấy dây trói lại nhét giẻ vào mồm, không thể ra tay tàn nhẫn như Phó Quý được.
Phó Quý mở cổng kho, gọi Hứa Nhất Thành, Hoàng Khắc Vũ và Dược Lai lại, xăm xăm đi thẳng vào sai người lục soát. Mấy cảnh sát kia hào hứng ra mặt, lớn lối quát tháo, lăm lăm dùi cui chạy vào kho hàng và phòng trực ban. Chẳng mấy chốc họ đã lôi ra bảy tám tên, phần lớn là người Trung Quốc, chỉ có hai người Nhật. Cả đám đều cứng đầu cứng cổ, lầu bầu ca thán, hết sức bất mãn vì bị khám xét đột ngột. Phó Quý rút súng bắn chỉ thiên một phát rồi quát lớn, “Cảnh sát đang thi hành công vụ, nằm xuống hết cho tôi!” Đám người kia nhanh như cắt bò rạp ra đất, hai tay ôm đầu.
Đúng lúc này trong bóng tối chợt vang lên mấy tiếng la thảm thiết, Phó Quý nghe tiếng nhìn sang, thấy hai cảnh sát văng khỏi kho hàng, ngã lăn ra đất. Anh nhíu mày, hai người này tuy không quá giỏi võ song khá nặng, vậy mà giờ bị quăng ra ngoài như bao gạo, đủ thấy sức lực đối thủ không thể xem thường. Hai cảnh sát khác lại xông lên, chẳng bao lâu cũng nằm lăn dưới đất rên la thảm thiết.
Một bóng người cao lớn đứng lù lù trước cửa kho hàng, Dược Lai vội chỉ, “Hắn đấy! Bọn cháu bám theo hắn đến đây, anh Minh cũng bị hắn bắt đi mất!” Hứa Nhất Thành bảo Phó Quý, “Tôi từng gặp kẻ này ở khách sạn Đại Hoa, là người bên cạnh Sakai Daisuke, anh cẩn thận nhé, có khi hắn là quân nhân đấy.”
Đang nói dở câu thì Hoàng Khắc Vũ đã xông lên quần nhau với kẻ nọ. Hoàng Khắc Vũ là cao thủ Hình Ý quyền, ra tay không hề nể nang, vậy mà kẻ kia né trái tránh phải, hết sức thong dong. Người luyện võ nhìn qua là thấy động tác của hắn vô cùng liền mạch, chỉ nhằm mục đích thăm dò chiêu thức của Hoàng Khắc Vũ. Sau mười mấy chiêu, hắn đột nhiên vung tay phải tung cú đấm mạnh, động tác hết sức đơn giản. Hoàng Khắc Vũ vội đan chéo hai tay chặn lại, song chợt thấy lực lớn ập đến, bịch một tiếng ngã ngửa ra.
Tên kia vặn vẹo đầu làm cần cổ kêu răng rắc, hung hãn vô cùng. Hoàng Khắc Vũ bật dậy thét lớn, lại nhào vào đánh tiếp. Kẻ nọ không ngờ Hoàng Khắc Vũ bật dậy nhanh như vậy, hai người lại tiếp tục quần thảo.
Lúc này cả kho bãi đã bị khống chế, mọi người đều tập trung vào hai kẻ đang đánh nhau. Hứa Nhất Thành không biết võ nên chỉ đứng xem. Y nhận ra quyền pháp của tên nọ đơn giản trực tiếp, không hề hoa mỹ nhưng lại rất mạnh. Tuy Hoàng Khắc Vũ có tố chất sức khỏe tốt, nhưng lại thiếu kinh nghiệm thực chiến, nên hoàn toàn lép vế.
Không ai để ý Phó Quý đã lẻn tới cạnh thềm nhà kho chỗ hai kẻ đang tỉ thí, như một con sói nấp trong bóng tối, nhìn chằm chằm tên kia. Hoàng Khắc Vũ và tên người Nhật lại xô vào nhau lần nữa, kết quả cậu bị đẩy lùi hai bước, phải gắng gượng mới trụ vững được. Nhân lúc hai người tách ra, Phó Quý đột nhiên ra tay, ném một nắm bột trắng vào mắt tên kia.
Kẻ kia thình lình bị đánh úp, chợt thấy trước mặt tối sầm, sau đó mắt đau buốt lên. Song hắn vốn kiên cường, sau phút kinh hoàng ngắn ngủi đã nén đau, nhanh nhẹn lùi lại, phòng thủ chặt chẽ. Hoàng Khắc Vũ đâu chịu bỏ qua cơ hội này, rùn chân bật người lao tới trước mặt kẻ nọ như một quả đạn pháo, đẩy hắn ngã ra đất.
Phó Quý không chút do dự, lại ra tay lần nữa. Lần này không phải bột mà là nước. Nước rảy lên hốc mắt bám đầy vôi bột của tên nọ, tức thì sôi lên xèo xèo. Cuối cùng hắn cũng phải rú lên thảm thiết, hai tay ôm mắt, lăn lộn dưới đất. Phó Quý lập tức xông đến, lách cách hai tiếng, bẻ trật khớp vai hắn rồi mới đứng lên.
Hoàng Khắc Vũ thở hồng hộc, vác gương mặt tím bầm đi đến, cúi đầu nhìn mới nhận ra thứ bột trắng kia là vôi. Trong góc kho bao giờ cũng có vôi sống để hút ẩm mùa nồm. Vừa rồi có lẽ Phó Quý đã vốc một nắm cầm tay, rồi múc một gáo nước giếng mà đám bảo vệ vẫn uống để tạt vào tên kia.
Tâm trạng Hoàng Khắc Vũ vô cùng phức tạp, tên người Nhật này quá mạnh, nếu không nhờ nắm vôi của Phó Quý, cậu chắc chắn không hạ nổi hắn, nhưng thầy cậu đã dạy ném vôi bột là thủ đoạn hèn hạ, người học võ không được phép sử dụng. Như đi guốc trong bụng cậu, Phó Quý lạnh lùng nói, “Chú là cảnh sát thi hành công vụ, không phải người tập võ.”
Dược Lai chui vào kho dìu Lưu Nhất Minh ra. Lưu Nhất Minh mặt mũi tím bầm, rũ ra như tàu chuối héo, may mà không nguy đến tính mạng. Theo lời Lưu Nhất Minh thì sau khi bị bắt nhốt vào nhà kho, tên người Nhật kia đã đánh đập tra khảo nhưng cậu nhất quyết không khai mình được ai sai khiến.
Cảnh sát tìm được khá nhiều thuốc phiện sống trong kho, vừa mừng vừa sợ. Mừng vì nỗi nếu sung công số thuốc phiện này thì quả là một món bẫm, song cũng sợ bởi giờ nghĩ lại thì đây là địa bàn của người Nhật, đắc tội với người nước ngoài không khéo chuốc vạ vào thân. Phó Quý phải bảo đảm rằng trời sập xuống cũng có tôi đỡ, họ mới nơm nớp bắt tay vào kiểm kê hàng và sơ cứu cho những đồng đội bị thương.
Họ tìm một kho trống, trói gô tên kia lại rồi lấy giẻ khô và dầu cải rửa mắt cho hắn. Hứa Nhất Thành đi tới hỏi hắn, “Anh là ai?” Kẻ kia trả lời một tràng tiếng Nhật, sau đó lại đổi sang tiếng Trung bập bẹ, “Anegakoji Eitoku.”
“Anh là người của Đoàn khảo sát phong tục China à?”
“Tôi muốn liên lạc với đại sứ quán Nhật, tố cáo việc mình bị tấn công trái phép.” Anegakoji Eitoku lạnh lùng nói.
“Sakai Daisuke đâu rồi?”
“Tôi muốn liên lạc với đại sứ quán Nhật, tố cáo việc mình bị tấn công trái phép.”
“Trần Duy Lễ tại sao lại chết? Các người đến Trung Quốc nhằm mục đích gì?”
“Tôi muốn liên lạc với đại sứ quán Nhật, tố cáo việc mình bị tấn công trái phép.”
Hứa Nhất Thành tin Anegakoji Eitoku nắm giữ rất nhiều tin tức quan trọng, nhưng ngoại trừ khai tên họ, tên khốn này chỉ thản nhiên nhắc đi nhắc lại câu này. Cảm giác bức bối vì chân tường ở ngay trước mắt mà không sao chạm đến được khiến Hứa Nhất Thành tức điên.
Thất bại ở thành Bình An đã đủ khiến y rầu rĩ, lại thêm chuyện này nữa, khó tránh khỏi bực dọc cáu kỉnh. Cái chết của Trần Duy Lễ, nửa mảnh giấy thần bí, hình vẽ thanh kiếm, Đoàn khảo sát phong tục China, vụ trộm Đông lăng, hàng loạt bí ẩn đều liên quan đến nhau, song chưa cái nào được phá giải, như một chuỗi cửu liên hoàn tháo thế nào cũng không ra.
Phó Quý đặt tay lên vai Hứa Nhất Thành, thủng thẳng nói, “Tôi không biết giám định, cậu cũng không biết thẩm vấn đâu.” Đoạn Phó Quý sai Hoàng Khắc Vũ lấy đầy một bi đông tôn nước, đặt Anegakoji Eitoku nằm ngửa, rồi rút trong túi ngực ra một miếng vải trắng.
Sau khi đuổi hết những kẻ khác ra ngoài, Phó Quý phủ miếng vải trắng lên mặt Anegakoji Eitoku, chậm rãi nói, “Chúng tao gọi thế này là Long vương chúc thọ.” Đoạn xách bi đông nước lên nghiêng thật nhẹ để nước rỉ rả nhỏ xuống. Thoạt tiên nước nhỏ xuống mặt vải rồi dần dần ngấm qua, chảy vào mũi. Ban đầu vải còn hút bớt được nước nên chưa thấy sao, dần dà miếng vải đẫm nước, không thấm thêm được nữa, nước bắt đầu sặc vào mũi. Kẻ bị tra tấn sẽ ngạt thở nhưng nước lại nhỏ nhẩn nha, đẩy nỗi kinh hoàng lên cao nhất, chưa đầy một tiếng đồng hồ, phạm nhân đã suy sụp hoàn toàn.
Sở Cảnh sát Kinh thành chẳng có tài cán gì nhưng lại được kế thừa đủ mọi phương pháp tra tấn từ thời Thanh, thủ đoạn hiểm độc nào cũng có. Trò Long vương chúc thọ này còn văn minh chán, chỉ dùng với những phạm nhân có vai vế, không để lại dấu tích, lỡ như sau này lật lại bản án thì vẫn có đường lùi. Phó Quý biết tay người Nhật này thân phận đặc biệt, đánh chửi thì được, nhưng lỡ làm chết hắn sẽ gây ra sóng gió cực lớn.
Có điều tên này cứng đầu cứng cổ, gặp phải Long vương chúc thọ mà vẫn không chịu hé răng. Phó Quý đổ liền ba bi đông nước, tay mỏi nhừ, hắn vẫn không nói không rằng. Thấy không ổn, Phó Quý vạch tấm vải ra thì thấy hắn đã ngất lịm.
Phó Quý bước ra ngoài lắc đầu với Hứa Nhất Thành, ý nói tạm thời chưa tra được gì. Còn làm hiệu, “Ra chỗ khác nói chuyện đi.”
Hai người ra một chỗ khuất, Phó Quý nói, “Giờ thế cục ngày càng rối loạn, quân miền Nam sắp đánh đến nơi, Trương Tác Lâm cũng sắp chạy rồi, thành Bắc Kinh đã thành chốn vô chủ.”
“Ý anh là gì?” Hứa Nhất Thành ngẩng phắt lên, nhìn Phó Quý bằng ánh mắt sắc lẻm.
“Cậu tạm thời ngừng tay đi, giờ chẳng ai giúp được chúng ta đâu.” Phó Quý nói.
Phó Quý nói rất có lý. Minh Nhãn Mai Hoa rặt một đám vô tích sự, tông thất nhà Thanh có tiền nhưng lại neo người, chính phủ và Sở Cảnh sát chỉ là bù nhìn, phóng mắt trông khắp kinh thành, họ không tìm được viện trợ nào đáng tin cậy cả. Trong khi đối thủ của họ, sau lưng Anegakoji Eitoku là Đoàn khảo sát phong tục China, đứng sau Đoàn khảo sát phong tục China là đế quốc Nhật Bản; sau lưng Vương Thiệu Nghĩa là toán phỉ Mã Phúc Điền, hai phe này một lớn một nhỏ, đều là chướng ngại vật khổng lồ không thể lay chuyển.
“Đợi sóng gió lặng bớt rồi tiếp tục điều tra cái chết của Trần Duy Lễ cũng không muộn, cậu hiểu ý tôi không?”
Phó Quý nhìn xoáy vào Hứa Nhất Thành. Ngầm nói, việc Trần Duy Lễ có thể tạm gác lại, còn về phần Hải Lan Châu thì không phải trách nhiệm của Hứa Nhất Thành. Tông thất ép y dẫn cô theo thì họ đi mà gánh trách nhiệm, chỉ cần báo với Dục Phương một tiếng là đủ.
“Càng hỗn loạn càng có người mượn gió bẻ măng. Vương Thiệu Nghĩa định khoắng sạch Đông lăng, còn Đoàn khảo sát phong tục China giờ chưa rõ tung tích hẳn cũng có mưu đồ của họ. Nếu chúng ta mặc kệ thì chẳng ai quản nữa cả, coi như Duy Lễ chết uổng.” Hứa Nhất Thành nổi tính ương ngạnh, thản nhiên nhìn lại Phó Quý, giọng điệu không chút nhân nhượng. Phó Quý cũng chẳng tránh né, ưỡn ngực nhìn lại bằng ánh mắt hung hãn không kém, “Cậu đừng quên mình còn có vợ đấy! Sắp có con nữa! Giờ trong thành rối loạn nhường này, cậu đành lòng bỏ hai mẹ con họ lại ư?”
Nghe câu này, thái độ Hứa Nhất Thành dịu ngay xuống. Y cúi gằm mặt, tựa hồ chẳng biết nói sao. Phó Quý cũng không ép y mà quay người bỏ đi, chỉ ném lại một câu, “Cậu tự ngẫm đi.”
Hứa Nhất Thành đứng lặng giữa kho hàng, thẫn thờ nhìn ra ngoài. Lúc này vầng dương đã từ từ nhô lên, ánh nắng xói qua khe hở trên trần nhà, chiếu lên mình y. Hứa Nhất Thành ngẩng đầu nhìn trời, như muốn tìm câu trả lời. Nhưng trời cao chẳng mảy may quan tâm tới thế cục rối ren dưới trần gian, hôm nay lại là một ngày nắng chói chang, như đang cười nhạo những việc xảy ra dưới mặt đất này.
Hứa Nhất Thành nhìn trời một lúc thật lâu, dần lấy lại bình tĩnh. Y cúi xuống, mặt đanh lại, chắp tay sau lưng đi lòng vòng trong sân như một con thú bị nhốt. Cuối cùng y đến bên cạnh Lưu Nhất Minh, xem xét kỹ vết thương của cậu rồi dặn Hoàng Khắc Vũ, “Lát nhờ cháu tới gặp Dục Phương, kể lại cho họ nghe chuyện ở thành Bình An nhé.” Hoàng Khắc Vũ vâng dạ, Hứa Nhất Thành lại quay sang bảo Phó Quý, “Phiền anh sắp xếp cho Nhất Minh và tên Nhật kia chỗ ở ổn thỏa.” Phó Quý gật đầu, cho rằng Hứa Nhất Thành đã bị mình thuyết phục, bèn hỏi, “Cậu đi đâu đây?”
“Tôi đi tìm Dược Thận Hành.” Hứa Nhất Thành sầm mặt đáp.
Phó Quý nhíu mày, “Tôi đã nói…” Hứa Nhất Thành ngắt lời, “Tôi phải hỏi cho rõ ràng, anh ấy gặp người Nhật để làm gì. Không làm rõ chuyện này, tôi không yên tâm được.”
Đúng lúc này, Lưu Nhất Minh gượng ngồi dậy, “Nếu Vương Thiệu Nghĩa bắt giam ngài Kido Yuzo, chứng tỏ kẻ trộm Đông lăng không liên quan gì tới Đoàn khảo sát phong tục China. Bác Hành gặp họ có lẽ là vì chuyện khác, không như chúng ta nghĩ đâu chú ạ.”
Hứa Nhất Thành lạnh lùng đáp, “Ai bảo chỉ có một nhóm người nhòm ngó Đông lăng?”
Lưu Nhất Minh cố đẩy gọng kính, “Cháu đi với chú.” Hứa Nhất Thành vỗ vai cậu, “Cháu cứ nghỉ ngơi đi, Dược Lai đi với chú là được rồi.” Nghe nói Hứa Nhất Thành định tìm cha mình đối chất, Dược Lai xịu mặt xuống. Nhưng nó nhìn Lưu Nhất Minh, rồi nhìn sang Hoàng Khắc Vũ, cuối cùng vẫn ưỡn ngực lên.
Phó Quý cuống lên hỏi, “Còn vợ cậu…” Hứa Nhất Thành đáp, “Trên đường tới Minh Nhãn Mai Hoa tôi sẽ tiện thể ghé xem tình hình cô ấy.”
Hứa Nhất Thành và Dược Lai rời khỏi kho hàng, đi thẳng vào thành. Càng đến gần thành Bắc Kinh, họ càng khiếp sợ. Đường phố vương vãi đầy rác rưởi, lặng ngắt như tờ, thỉnh thoảng lại thấy mấy bóng đen thấp thoáng. Đến chim chóc cũng nhớn nhác bay tứ tán, kêu lên thê thiết. Không khí thanh nhàn của thành Bắc Kinh khi xưa đã tan biến.
Chỉ có đám trẻ bán báo chạy khắp hang cùng ngõ hẻm rao oang oang “Số đặc biệt đây”, thông báo tổng thống Trương Tác Lâm tuyên bố rút lui khỏi Bắc Kinh, là còn chút sinh khí.
Đến gần khu nhà của Minh Nhãn Mai Hoa, họ thấy cổng chính mở toang, rất nhiều người lật đật chạy ra chạy vào, trước cửa còn có mấy cỗ xe ngựa thồ hàng đỗ thành dãy. Dược Lai níu một người lại hỏi có chuyện gì. Kẻ kia vừa trông thấy Dược Lai đã giậm chân nói, “Ôi ông mãnh này vẫn còn đi chơi được à? Tổng thống sắp chạy rồi, mọi người cũng đang thu dọn đồ đạc đi tránh nạn đây!” Dược Lai hỏi, “Cha cháu đâu?” Người nọ trỏ, “Đang trông coi người sắp xếp đồ cổ ở trong kia kìa.”
Dược Lai và Hứa Nhất Thành sải bước đi thẳng vào trong, kẻ kia thấy Hứa Nhất Thành thì sững ra, tuột tay đánh rơi cả thau đồng xuống đất.
Hứa Nhất Thành đi tới trước nhà chính, dặn Dược Lai, “Cháu ở đây đợi chú nhé, đừng gây chuyện.” Đoạn đẩy cửa bước vào. Trong nhà ngổn ngang mấy chục hòm gỗ bọc lụa đỏ đang mở toang, to có nhỏ có, Thẩm Mặc và Dược Thận Hành đứng giữa nhà chỉ huy, bảy tám thanh niên trong Minh Nhãn Mai Hoa nhẹ nhàng bưng các loại cổ vật cất vào hòm, mỗi khi cất xong một món, Dược Thận Hành lại ghi vào sổ.
Thấy Hứa Nhất Thành xăm xăm bước vào, Dược Thận Hành và Thẩm Mặc đều ngạc nhiên. Dược Thận Hành đặt cuốn sổ trong tay xuống, bước về phía y, còn chưa kịp lên tiếng, Hứa Nhất Thành đã đanh giọng hỏi, “Hôm qua anh gặp Anegakoji Eitoku có việc gì?”
Dược Thận Hành không ngờ y lại hỏi độp một câu như vậy, lúng túng ra mặt, nhất thời không thốt nên lời. Đám chạy việc trong nhà chính nghe nói Dược Thận Hành gặp người Nhật thì không hẹn mà cùng dừng lại, đổ dồn mắt vào hai người họ. Thẩm Mặc dằn mạnh gậy xuống sàn, “Nhìn gì mà nhìn! Mau cất đồ vào hòm đi!”
Thấy chưởng môn gắt lên, cả đám run bắn, lại tất bật xếp dọn. Thẩm Mặc giơ gậy lên trỏ hai người, “Hai anh theo tôi ra nhà sau.” Dược Thận Hành hiểu suy nghĩ của Thẩm Mặc, giờ đại loạn sắp đến, ông ta sẽ không để người trong Minh Nhãn Mai Hoa hoang mang. Nghĩ thế, hắn bèn cùng Hứa Nhất Thành theo Thẩm Mặc ra nhà sau, còn không quên khép cửa lại.
“Chuyện là thế nào?” Thẩm Mặc ngồi xuống ghế thái sư, vừa mệt mỏi vừa giận dữ. Hứa Nhất Thành thuật lại việc ở kho hàng phía Nam thành, thoạt đầu Thẩm Mặc còn bình thản, nhưng vừa nghe nói dính đến thuốc phiện, ánh mắt ông ta thay đổi hẳn. Thẩm Mặc liếc nhìn Dược Thận Hành, “Thận Hành, có thật không vậy?”
Dược Thận Hành vội cung kính đáp, “Là thế này ạ. Hôm qua có một người tên Anegakoji Eitoku đến cửa tiệm, nói là đại diện cho Đoàn khảo sát phong tục China, muốn hợp tác với Minh Nhãn Mai Hoa chúng ta. Anh ta hẹn gặp ở kho hàng phía Nam thành nên tôi tới. Còn về thuốc phiện, tôi không am hiểu nhiều, cũng chẳng để ý lắm.”
Thẩm Mặc hỏi, “Người Nhật muốn hợp tác cái gì?”
Dược Thận Hành trả lời, “Chính phủ Nhật và mấy tập đoàn tài chính lớn có ý đổ nhiều tiền vào thu mua cổ vật tại Trung Quốc, Đoàn khảo sát phong tục China là một trong những tổ chức đi điều tra tiền trạm. Biết được địa vị của Minh Nhãn Mai Hoa trong giới cổ vật nên họ hy vọng được hợp tác với chúng ta, cùng nhau hoàn thành kế hoạch thu mua này.”
Thẩm Mặc cật vấn, “Việc lớn như vậy sao không nói với ta?” Dược Thận Hành đáp, “Gần đây Minh Nhãn Mai Hoa xảy ra bao nhiêu việc, tôi không muốn cụ phân tâm. Huống hồ Anegakoji Eitoku mới chỉ đưa ra ý tưởng đó thôi, chưa hề triển khai thực hiện. Tôi nghĩ rằng đợi khi nào đối phương chính thức đề đạt mới mời cụ định đoạt.”
Hứa Nhất Thành đứng giữa phòng, khoanh tay lạnh lùng nói, “Nói vậy là anh định toa rập với người ngoài đánh cắp cổ vật của chúng ta ư?” Dược Thận Hành nhìn y vẻ khó hiểu, “Cổ vật lưu hành trên thị trường, niêm yết giá đàng hoàng, tiền trao cháo múc, sao lại gọi là đánh cắp? Người Trung Quốc mua được, chẳng lẽ người Nhật không được mua? Đều là mua bán thôi mà?”
“Anh xem lại lương tâm mình đi, bọn họ không đơn giản thế đâu. Anh làm thế là rước voi về giày mả tổ đấy!”
Dược Thận Hành điềm nhiên đáp, “Trước đây Minh Nhãn Mai Hoa cũng không phải chưa từng làm ăn với người Nhật. Họ trọng chữ tín, lại trả tiền nhanh, còn biết hàng, mua về đều đặt trong viện bảo tàng, bảo tồn cẩn thận, hơn vạn người mua Trung Quốc.” Rồi lại nhìn sang Thẩm Mặc, “Kế hoạch thu mua của bọn họ phen này rất lớn, số lượng nhiều đến kinh người, Minh Nhãn Mai Hoa chúng ta chỉ cần ngồi một chỗ giám định cũng đã được chia hoa hồng hậu hĩ rồi.”
Hứa Nhất Thành quát, “Vì mấy đồng tiền đó mà anh vứt bỏ cả tiết tháo lẫn thể diện Minh Nhãn Mai Hoa à!”
Dược Thận Hành nổi giận, dấn lên một bước, trừng mắt nhìn Hứa Nhất Thành, “Chú làm gì có tư cách nói thế?! Chú rũ áo đến Thanh Hoa thong dong học khảo cổ, đã bao giờ quan tâm tới việc của Minh Nhãn Mai Hoa chưa? Mấy năm nay việc làm ăn của Minh Nhãn Mai Hoa ngày càng đi xuống, nếu không có cụ Thẩm và tôi cố chèo chống thì cả đám người ở đây đã chết đói lâu rồi! Chú hô hào vì nghĩa thì dễ lắm, nhưng chú đã bao giờ nghĩ tới lẽ sống chết của Minh Nhãn Mai Hoa chưa?”
Hứa Nhất Thành đốp lại, “Trộm cướp cũng giàu được, buôn thuốc phiện còn kiếm được nhiều hơn nữa, sao anh không làm đi? Quân tử yêu tiền, nhưng lấy tiền phải có đạo lý. Minh Nhãn Mai Hoa nhờ đâu mà truyền được bấy nhiêu đời, chính là vì giữ đúng bổn phận của mình, không phải tiền nào cũng kiếm được đâu.”
Thấy hai người lại sắp cãi vã, Thẩm Mặc hắng giọng, “Kế hoạch thu mua kia lớn tới chừng nào?”
“Họ có một bản Ghi chép về đồ cổ China, trong đó có một danh sách tường tận, tôi áng chừng cũng phải mấy nghìn món, món nào cũng là vật báu.” Đoạn bổ sung, “Thận Hành quyết không phải vì tham mấy đồng tiền mà bắt tay với họ đâu. Nếu cụ thấy không ổn, tôi sẽ trả lời họ.”
Lần này Thẩm Mặc không vội quyết định mà hỏi lại, “Anh đã đọc qua Ghi chép về đồ cổ China chưa?”
“Rồi ạ. Anegakoji Eitoku có cho tôi xem qua, nhưng không cho chép lại.”
“Ta hỏi anh phải nói thực nhé. Trong danh sách đó có hàng âm không?”
Cổ vật lưu hành trên thị trường, được người ta mua đi bán lại gọi là hàng chín; vừa đào trong mộ hoặc dưới đất lên gọi là hàng sống; còn một loại, mọi người đều biết rõ nó nằm trong mộ nào nhưng chưa ai đào ra, gọi là hàng âm. Số lượng hàng âm rất ít, nhưng món nào cũng nổi tiếng, quý giá vô cùng. Ví như bản gốc bức thiếp Lan Đình của Vương Hi Chi, mọi người đều biết trước lúc lâm chung Đường Thái Tông đã truyền cho chôn theo mình, giờ đang nằm trong Chiêu lăng, đây được coi là hàng âm nổi tiếng nhất.
Thẩm Mặc hỏi danh sách đó có hàng âm không, ý muốn biết người Nhật có định đào mồ quật mả ở Trung Quốc hay không. Phải biết rằng giúp người Nhật giám định cổ vật và dẫn người Nhật đi quật mồ là hai chuyện khác nhau. Bấy giờ từ “Hán gian” chưa thịnh hành, nếu giúp người Nhật làm chuyện đó, để lộ ra thì Minh Nhãn Mai Hoa sẽ mất hết thanh danh.
Dược Thận Hành run bắn lên, quỳ phục xuống đất, “Danh sách tôi thấy phần lớn là hàng chín, chủ yếu là đồ thời Hán Đường Tống Minh. Thận Hành vẫn biết cân nhắc nặng nhẹ mà.”
Hứa Nhất Thành nhạy bén tóm được sơ hở trong câu nói của hắn, “Phần lớn à? Nói vậy là anh vẫn thấy mấy món hàng âm đúng không?” Dược Thận Hành đã tức giận ra mặt nhưng Hứa Nhất Thành cứ hỏi riết không tha, hắn đành phải đáp, “Bản Ghi chép về đồ cổ China đó sắp xếp theo niên đại, tôi vô tình giở đến trang cuối cùng, chỉ thấy có một món hàng âm thôi, ghi rõ là đồ thời Thanh.”
“Là cái gì?”
“Kiếm Cửu Long của Càn Long đế.” Dược Thận Hành trả lời.
Nghe câu này, tim Hứa Nhất Thành đập thình thịch, nhớ ngay đến hình vẽ thanh kiếm in hằn lên mảnh giấy viết thư của Trần Duy Lễ.
Hình vẽ đó không rõ lắm, lại chỉ có một nửa, không sao tra được xuất xứ, phần lớn chứng cứ tìm được từ trước đến giờ cũng không liên quan tới nó, khiến Hứa Nhất Thành gần như đã từ bỏ manh mối này, thực không ngờ lại tìm được tư liệu tương ứng trong Ghi chép về đồ cổ China.
Thanh kiếm vốn không rõ hình hài thoắt chốc đã vọt ra khỏi những nét phác họa đơn sơ, trở thành đồ vật sống động cơ hồ chạm đến được.
Thẩm Mặc ngạc nhiên, “Trong Ghi chép về đồ cổ China chỉ có một món thời Thanh đó thôi ư?” Dược Thận Hành đáp vâng, Thẩm Mặc xoa đầu gậy, vẻ nghi hoặc, “Thời Thanh cách nay không xa, người Nhật ngưỡng mộ nhất là thời Đường, không thiết tha với cổ vật thời Thanh cũng là bình thường, song vì sao lại chú ý tới thanh kiếm Cửu Long thế?”
Hứa Nhất Thành vội hỏi Thẩm Mặc thanh kiếm đó thế nào. Thẩm Mặc vuốt râu cười, “Kiếm này ấy hả, người biết thì nhiều nhưng người thấy chẳng được mấy ai. Tình cờ Minh Nhãn Mai Hoa chúng ta lại có chút liên quan tới nó nên ta cũng biết đôi chút.”
Năm Càn Long thứ năm mươi sáu, Bắc Kinh nổi gió cát suốt tháng. Mãi gió mới lặng thì trong Tử Cấm thành lại liên tục bị sét đánh, cháy mất bảy tám gốc cây quý, thậm chí còn đánh chết một thái giám trẻ. Càn Long đế cho là điềm không lành, bèn tìm một cao nhân tên Lư Lân Tường đến xem quẻ. Lư Lân Tường tâu rằng trận gió lớn vừa rồi là gió Hoàng sát, một khi xuất hiện sẽ dẫn tới việc thay triều đổi đại.
Càn Long tự xưng là Thập Toàn lão nhân, rất tham công, nghe vậy thì lo lắng hỏi Lư Lân Tường phải làm sao. Lư Lân Tường nói gió này từ âm ti thổi tới, cần chân long thiên tử xuống âm ti trấn áp. Càn Long nổi giận mắng ngươi bảo trẫm đi chết đấy à, đòi giết Lư Lân Tường. Lư Lân Tường vội hiến kế đúc một thanh thần binh, để Càn Long mang theo ủ bên người. Tới khi lâm chung thì chôn theo vào lăng tẩm, đặt bên cạnh mình. Có vậy anh linh Càn Long sẽ không tiêu tán, còn có thể mang theo kiếm này xuống âm ti, chém đứt gió Hoàng sát xô bật gốc rễ nhà Thanh, giữ giang sơn vững bền mãi mãi.
Càn Long bèn cho vời thợ khéo khắp nơi vào cung, mất ba năm mới đúc xong một thanh kiếm báu. Theo chỉ dẫn của Lư Lân Tường, chuôi kiếm được làm theo lối Trung Nguyên nhưng thân kiếm lại hơi cong, kết hợp phong cách đao Mông cổ. Bên trên khắc chìm hoa văn chín rồng, tượng trưng cho “cửu cửu quy nhất”. Chín lần chín tám mươi mốt là con số chí dương, có sức khắc chế ma quỷ dưới âm ti cực mạnh. Càn Long bỏ rất nhiều tâm huyết vào thanh kiếm báu này, xa xỉ đến cùng cực, thân kiếm khắc hoa văn thếp vàng, đốc kiếm đẽo từ ngọc nguyên khối, vỏ kiếm làm từ da cá mập Nam Hải, nạm mười mấy viên đá quý và trân châu, về sau Càn Long băng hà, thanh kiếm này cũng được chôn theo vào Dụ lăng nên người đời sau không ai thấy nữa.
Nghe vậy, Hứa Nhất Thành đã xác định được hình vẽ in hằn trên mảnh giấy nọ chính là thanh kiếm Cửu Long này. Có điều vẫn còn một nghi vấn, trong hình vẽ phần thân kiếm đã được tô đi tô lại hai lần, một lần hơi cong, trùng khớp với miêu tả về kiếm Cửu Long có phần lưỡi giống đao Mông cổ, còn một lần lại vẽ thẳng, chẳng rõ vì sao.
Còn một điểm nữa là thanh kiếm này đã được chôn theo Càn Long, sao người Nhật biết được hình dạng của nó? Tuy hình vẽ in hằn trên giấy không rõ lắm, nhưng chi tiết rất chính xác, nếu không biết rõ sẽ không thể vẽ tỉ mỉ như vậy được.
Dĩ nhiên đây chỉ là hai nghi vấn nhỏ vô hại. Kỳ quặc nhất là giá trị của nó.
Kiếm Cửu Long tuy quý giá, nhưng nói cho cùng cũng chỉ là một món đồ xa xỉ. Luận về giá trị thì trong số hàng âm nó chỉ ở mức trung bình. Nếu người Nhật muốn lấy thứ này, ắt phải đào Dụ lăng lên, nhưng những vật phẩm có giá trị trong Dụ lăng rất nhiều, Càn Long là nhà sưu tầm đệ nhất xưa nay, cổ vật và tranh chữ nhiều không đếm xuể, phần lớn đều được chôn theo ông ta. So với những thứ đó, kiếm Cửu Long này cũng chỉ tầm tầm mà thôi, sao họ lại coi trọng nó đến mức chép hẳn vào Ghi chép về đồ cổ China?
Có khi nào kiếm Cửu Long chỉ là mào đầu, thực ra người Nhật đang dòm ngó kho tàng phong phú trong Dụ lăng?
Nghĩ đến đó, Hứa Nhất Thành nhíu mày. Tuy chưa làm rõ được những nghi vấn này, song có một điều đã rõ rành rành, là người Nhật định ra tay đào bới Đông lăng. Nhất định Trần Duy Lễ đã phát hiện ra âm mưu của Đoàn khảo sát phong tục China nên mới bị giết để bịt miệng.
Năm nay Đông lăng quả là đại hạn, cùng lúc bị hai toán giặc cướp cả Trung Quốc lẫn Nhật Bản nhòm ngó.
Thẩm Mặc tuy không biết rõ như Hứa Nhất Thành nhưng cũng nhận ra tình hình không ổn, bèn dặn Dược Thận Hành, “Từ sau đừng gặp tên người Nhật đó nữa, Minh Nhãn Mai Hoa chúng ta trước tiên cứ dời về quê, đợi qua cơn sóng gió này rồi tính tiếp.”
Dược Thận Hành vội thưa, “Nhưng không thể chỉ dựa vào lời nói một phía của chú Thành mà bỏ qua vụ làm ăn lớn thế này được.”
Thẩm Mặc vặn lại, “Nếu người Nhật định mở lăng thật thì anh tính thế nào?”
Dược Thận Hành đáp ngay, “Vậy dĩ nhiên không thể tham gia.”
Thẩm Mặc thở dài, “Anh và Nhất Thành khác nhau ở chỗ đó đấy. Anh không tham gia, còn cậu ta sẽ liều mạng ngăn cản, bất chấp hiểm nguy.”
Thấy Thẩm Mặc lại so sánh hai người, Dược Thận Hành nhíu mày buột miệng, “Nếu cụ vừa ý Hứa Nhất Thành hơn, tôi tình nguyện nhường chỗ.” Thẩm Mặc tặc lưỡi lắc đầu, “Anh thật là, mới nói mấy câu đã dằn dỗi. Về giám định, anh không bằng cậu ta, nhưng về quản lý, cậu ta lại không bằng anh. Minh Nhãn Mai Hoa hiện giờ cần một người chín chắn cai quản mới được.”
Nghe vậy Dược Thận Hành mới nguôi nguôi. Hắn quay sang định xem thái độ Hứa Nhất Thành thế nào, nhưng vừa liếc mắt đã sững người. Hứa Nhất Thành đã bỏ đi tự lúc nào, chẳng buồn chào một tiếng.
Thẩm Mặc nheo mắt, vẻ mặt phức tạp. Vừa rồi lúc Hứa Nhất Thành bỏ đi, ông cũng nhìn thấy, song không nói năng gì. Ông quá hiểu tính bướng bỉnh của y, đã quyết thì đừng ai hòng ngăn cản. Thực ra lúc còn trẻ ông cũng vậy, chẳng qua dần dần bị cuộc đời gọt giũa, thỉnh thoảng mới chạnh lòng trước những chuyện ân oán tình thù thế này mà thôi.
Thẩm Mặc búng ngón tay đầy vẻ tự trào rồi bảo Dược Thận Hành, “Không còn sớm đâu, anh mau đi chuẩn bị đi.”
Dược Thận Hành dè dặt rướn người về phía trước, ngập ngừng hỏi, “Việc ở Đông lăng thực sự không cần chi viện cho Nhất Thành ư?” Tuy hắn hẹp hòi đa nghi, nhưng suy cho cùng đây là việc lớn, bản thân lại lén trao đổi với người Nhật nên cũng có phần chột dạ.
Thẩm Mặc nhìn hắn đầy thâm ý, chậm rãi đáp, “Anh sắp thành chưởng môn đứng đầu năm nhà rồi, đừng làm việc theo cảm tính.”
Dược Thận Hành cúi đầu vâng dạ rồi quay người bước ra ngoài, để lại Thẩm Mặc ngồi một mình trong phòng, hồi lâu không nhúc nhích.
Rời Minh Nhãn Mai Hoa, lòng Hứa Nhất Thành như lửa đốt, kiếm Cửu Long xuất hiện đã tạo cơ sở vững chắc cho việc điều tra của y từ trước đến giờ. Nhưng phát hiện này chẳng những không làm y nhẹ nhõm, mà chỉ thấy cục diện càng thêm quái dị.
Vương Thiệu Nghĩa nhăm nhe mộ Từ Hi, người Nhật ngấp nghé mộ Càn Long. Thi thể lạnh ngắt của Trần Duy Lễ nằm ở Đại sứ quán Nhật còn Hải Lan Châu bị giam lỏng ở thành Bình An. Việc nào cũng là chuyện động trời, bên nào cũng không thể khoanh tay bỏ mặc. Bao nhiêu mối tơ vò, dẫu tài trí như Hứa Nhất Thành cũng khó tránh khỏi hoang mang.
Lúc này ngoài phố đã chẳng còn xe kéo nữa, y cúi đầu sải bước thật nhanh, miên man suy nghĩ. Lúc thì cảm thấy việc này can hệ trọng đại, nếu khoanh tay bỏ mặc e rằng sẽ xảy ra vụ trộm động trời; lúc lại có phần do dự, bởi trước những thế lực hùng mạnh đó, y không sao địch lại. Suy đi tính lại mãi, y chợt ngẩng lên, nhận ra mình đã đến trước cổng bệnh viện Liên Hiệp tự lúc nào.
Bệnh viện Liên Hiệp lúc này cũng hỗn loạn hơn hẳn ngày thường, bác sĩ y tá hối hả đi lại, xì xầm bàn tán. Trước cổng bệnh viện, một toán lính Tây xếp thành hàng, lăm lăm súng cầm tay. Đây hẳn là vệ binh các sứ quán phái đến để đề phòng một cơ quan trung lập như bệnh viện bị tập kích.
Hứa Nhất Thành vào bệnh viện, thấy vợ mình vừa tan ca trực đêm, đang nằm trên giường xếp ngủ bù. Hứa Nhất Thành vừa đi đến cửa phòng, chị liền mở bừng mắt như có linh cảm, rồi phì cười. Bấy giờ y mới nhớ ra mình vẫn ăn vận theo lối lái buôn cổ vật, áo lụa dài kính râm gọng tròn, từ lúc trở về chưa có lúc nào thay đồ.
Y phân trần, “Anh đi vội nên chưa kịp mua đồ ăn sáng, vừa bước vào thì em đã dậy.” Vợ y ngước lên, đáp tỉnh khô, “Anh đừng vào.” Hứa Nhất Thành ngẩn người. Vợ y bèn trở dậy, lặc lè vác bụng đi đến cửa, “Em chỉ sợ anh vào lại không nỡ đi, làm lỡ việc của anh.”
Hứa Nhất Thành cười ngượng, chẳng biết phải nói gì, bèn bị vợ gí một cái vào trán, “Anh ấy à, trong bụng nghĩ gì là hiện hết lên mặt.” Hứa Nhất Thành vụng về xoa tay, “Là thế này…” Nào ngờ vợ y ngăn lại, “Không cần giải thích với em. Anh có nói em cũng không hiểu, mà có hiểu cũng chẳng giúp được, chỉ tổ lo lắng thôi, thà chẳng biết cho rồi. Việc anh cần làm hẳn là quan trọng lắm. Anh yên tâm, bệnh viện Liên Hiệp được sứ quán các nước bảo vệ, bên ngoài có loạn lạc tới đâu cũng chẳng sao. Anh đi làm việc của mình đi, không phải bận tâm về em.”
Hứa Nhất Thành bịn rịn vuốt ve chiếc bụng nhô lên của vợ, chị cười nói, “Nó đạp anh đấy, anh có thấy không?” Hứa Nhất Thành ngồi xuống áp tai lên bụng vợ lắng nghe. Chị cười tít mắt, gấp gọn chiếc khăn tay trắng tinh đã được giặt sạch sẽ, nhét vào túi áo Hứa Nhất Thành rồi đẩy nhẹ y một cái, “Anh mau đi đi.”
“Xong việc lần này anh sẽ mua bánh canh cho em, cho thật nhiều ớt.”
Hứa Nhất Thành hôn vợ rồi quay người bước ra ngoài. Ánh mắt y đã lại trong trẻo mà kiên quyết, tựa hồ tất cả hoang mang đều bị gạn lọc sạch.
Điểm đến tiếp theo của Hứa Nhất Thành là tông thất. Đông lăng thuộc quyền quản lý của tông thất nhà Thanh, việc này bất luận thế nào cũng không thể lờ họ đi được. Tuy đã phái Hoàng Khắc Vũ đi thông báo, nhưng manh mối về thanh kiếm Cửu Long vừa lộ ra khiến mọi sự xoay chuyển hẳn, y buộc phải đích thân đi một chuyến.
“Anh bảo sao? Người Nhật định đào Dụ lăng ư?” Tay Dục Phương run bắn lên, nắp chén trà rơi xuống đất vỡ tan. Gương mặt trắng trẻo căng đầy không một nếp nhăn của gã méo hẳn đi vì kinh