← Quay lại trang sách

Chương 8 Thế cục rối ren

Người Phú Lão Công nói tới tên Lý Đức Tiêu, thân thế hết sức ly kỳ. Hắn là người huyện Pháp Khố, Liêu Bắc, mười chín tuổi gia nhập quân Phụng Thiên, dưới quyền đại tướng Quách Tùng Linh.

Năm Dân Quốc thứ bảy, Trương Tác Lâm lên làm tuần duyệt sứ* ba tỉnh phía Đông, chính thức trở thành vua một dải Đông Bắc. Vừa lòng thỏa ý, lão bắt đầu cảm thấy cần đại tu phủ đệ. Thế là phủ tư lệnh trong thành Phụng Thiên lập tức được tiến hành cải tạo, mở rộng hẳn ra, bấy giờ Quách Tùng Linh giữ chức tham mưu trưởng lữ đoàn cảnh vệ, đã phái mấy đại đội cảnh vệ tăng cường canh gác xung quanh, trong đó đơn vị của Lý Đức Tiêu đặt vọng gác ở ngay gần cổng Đông phủ.

❖ Chức quan cấp cao thời chính phủ Bắc Dương, tương đương tổng đốc thời phong kiến, thường được trao cho quân phiệt nắm giữ địa bàn hai tỉnh trở lên.

Trương Tác Lâm thích cải trang vi hành, thường đội mũ quả dưa, mặc áo chẽn ngắn, không đem theo người hầu, một mình đi tản bộ. Hôm ấy lão lại một mình ra ngoài đi dạo, khảo sát mấy công trình trọng yếu và quân doanh trong thành Phụng Thiên, tới đêm mới về. Đến cổng Đông, Trương Tác Lâm đang định vào trong thì bị Lý Đức Tiêu đứng canh trong vọng gác bắt gặp. Nhác thấy một kẻ ăn mặc theo lối lái buôn lén la lén lút đến gần phủ tư lệnh, Lý Đức Tiêu bèn giơ súng lớn giọng đe hắn mau cút, bằng không sẽ bắn. Trương Tác Lâm vừa tức vừa buồn cười, ngỡ rằng cảnh vệ không nhận ra mình, bèn bước lên hai bước. Ngờ đâu Lý Đức Tiêu lên đạn cạch một tiếng, định nổ súng thật. Trương Tác Lâm tức quá chửi váng lên, nói ông là Trương Tác Lâm đây, quân láo toét kia mau buông súng xuống.

Lý Đức Tiêu cũng nóng tính, chẳng những không buông súng, còn hăng tiết chửi lại, “Mày mà là tổng tư lệnh thì tao còn là cha mày đấy, cút mau! Không đi ông bắn thật đấy!” Hai người giằng co một lúc lâu, cuối cùng Trương Tác Lâm sợ gã này nóng máu nổ súng thật, đành hậm hực bỏ đi. Lão đi đến phòng chỉ huy trung đội súng máy thuộc trung tâm huấn luyện phía Đông đường trong cửa Đại Nam, gọi điện về phủ bảo Quách Tùng Linh đến đón.

Quách Tùng Linh nhận điện cũng lấy làm lạ, mọi khi tư lệnh về phủ có bao giờ cần người tới đón đâu. Nhưng y không dám chậm trễ, vội tới ngay văn phòng trung đội đón Trương Tác Lâm về. Trương Tác Lâm về tới nơi, việc đầu tiên là sai Quách Tùng Linh gọi Lý Đức Tiêu ở vọng gác cổng Đông đến.

Lý Đức Tiêu được đưa đến, Trương Tác Lâm làm bộ giận dữ, trỏ mặt nói ngươi nhìn xem ta là ai. Lý Đức Tiêu ngước lên mới nhận ra kẻ ở ngoài cổng vừa nãy không ngờ là tư lệnh thật. Quách Tùng Linh đứng bên cạnh mặt tái xanh, mồ hôi túa ra như mưa, thầm rủa thằng lỏi này đến tổng tư lệnh cũng chẳng nhận ra, còn dám chĩa súng vào ngài, đúng là không biết sống chết. Trương Tác Lâm đập bàn mắng, “Mày không cho ông vào thì thôi, còn dám xưng là cha ông à?” Lý Đức Tiêu bấy giờ mới biết mình đã gây ra họa lớn, e rằng cả thành Phụng Thiên này chỉ mình hắn dám nhận là cha Trương Tác Lâm mà thôi.

Song Lý Đức Tiêu vốn tính bướng, chẳng những không quỳ xuống xin tha, mà còn nói cứng, “Đại đội trưởng đã dặn, không cho bất cứ phần tử khả nghi nào đến gần phủ đệ. Ngài một là không dẫn theo cảnh vệ, hai là không lấy giấy tờ ra, tôi chỉ làm theo quy định thôi!” Trương Tác Lâm thấy thế không giận mà còn hài lòng trỏ Quách Tùng Linh, “Lính của anh được đấy, có khí phách! Nếu tướng sĩ Phụng Thiên ai ai cũng nghiêm chỉnh chấp hành mệnh lệnh như hắn, thì cả thiên hạ này kẻ nào địch nổi!”

Lý Đức Tiêu nhân họa gặp phúc, được khen thưởng, rồi chẳng mấy chốc thăng quan tiến chức. Trương Tác Lâm nghe nói hắn là người Pháp Khố, bèn giới thiệu cho một đồng hương là tổng tham nghị Sở Tuần duyệt, Dương Vũ Đình. Dương Vũ Đình rất mến gã đồng hương trẻ tuổi bướng bỉnh này, bèn tìm cho hắn một cô vợ, còn đưa hắn tới Giảng Võ đường đào tạo chuyên sâu. Từ đó Lý Đức Tiêu đường mây rộng mở, trở thành một nhân vật truyền kỳ trong quân Đông Bắc. Tới năm Dân Quốc thứ mười bảy, hắn đã thăng tới thượng tá trung đoàn trưởng, cầm đầu một cánh quân bộ binh độc lập, trực thuộc quân đoàn 14, dưới quyền quân đoàn trưởng Tôn Điện Anh.

Hứa Nhất Thành nghe xong thì nhận xét, quả là một kỳ nhân, nhưng vì sao lại tìm hắn?

Dục Phương giải thích, “Mấy bữa trước ta nghe nói Tôn Điện Anh bị Phùng Ngọc Tường đánh cho xiểng liểng, quân đoàn 14 liên tiếp thua tan tác, giờ đang đóng tại huyện Kế để chỉnh đốn toàn quân. Mà trung đoàn của Lý Đức Tiêu lại đóng ở giữa huyện Kế và Tuân Hóa, gần cả thành Bình An lẫn Đông lăng. Phú Lão Công cũng là người Pháp Khố, quen biết Lý Đức Tiêu, còn từng góp quân lương cho hắn. Nếu nhờ được hắn ra tay thì không diệt nổi Vương Thiệu Nghĩa, cũng bảo vệ được Đông lăng bình an. Quanh kinh thành, tông thất cũng chỉ cầu cứu được kẻ này thôi.”

Hứa Nhất Thành trầm ngâm, “Tôi không hiểu lắm về quân sự, nhưng cấp trên của Lý Đức Tiêu là Tôn Điện Anh chưa ra lệnh mà hắn tự tiện hành động được à?”

Dục Phương cười đáp, “Anh không biết đấy thôi, Tôn Điện Anh gia nô ba họ*, chẳng qua nịnh bợ Trương Tông Xương nên mới chen được vào hàng ngũ quân Phụng Thiên. Trương Tác Lâm hết sức nghi kỵ quân không chính quy nên cho cánh quân độc lập của Lý Đức Tiêu vào biên chế quân đoàn 14 của Tôn Điện Anh là có ý giám sát. Bởi vậy toán quân của Lý Đức Tiêu vốn chỉ nghe lệnh không nghe tuyên.”

❖ Câu này vốn là từ dùng của La Quán Trung trong Tam quốc diễn nghĩa để chỉ Lữ Bố, hàm ý phản phúc, gió chiều nào theo chiều nấy, bất trung bất nghĩa.

Hứa Nhất Thành cân nhắc một hồi, cảm thấy đề nghị này có vẻ ổn. Sau khi bàn bạc, họ quyết định để Phú Lão Công và Hứa Nhất Thành đi tìm Lý Đức Tiêu. Phú Lão Công nhíu mày hạ giọng, “Không được, thế này vẫn chưa đủ.” Hỏi làm sao, Phú Lão Công đáp, “Tôi rất hiểu Lý Đức Tiêu, người này cực kỳ nguyên tắc, xưa nay không bao giờ châm chước. Nghĩ mà xem, lúc là lính quèn, hắn ta đã dám chặn cả Trương Tác Lâm, giờ hẳn còn khắt khe nữa. Việc này liên quan đến sắp xếp quân đội, chưa chắc hắn đã nể mặt tôi.”

“Thế thì vung tiền ra vậy! Chúng ta ủng hộ thêm ít quân lương là được chứ gì? Ta không tin đập một rương bạc vào mà hắn vẫn không động lòng?” Dục Phương đề nghị.

“Vẫn không đủ đâu.” Phú Lão Công lắc đầu.

Dục Phương trầm ngâm giây lát rồi tủm tỉm cười nhìn Hứa Nhất Thành, “Lần này phải nhờ Minh Nhãn Mai Hoa các vị giúp đỡ rồi.” Hứa Nhất Thành nhạy bén đoán ngay được ý Dục Phương, “Ngài muốn làm giả một tờ công văn viết tay của Trương Tác Lâm, bảo Lý Đức Tiêu đánh Vương Thiệu Nghĩa phải không?”

“Thông minh.” Dục Phương vỗ tay cười nói, “Lý Đức Tiêu hết mực trung thành với tổng thống Trương, nhất định sẽ răm rắp tuân theo mệnh lệnh của ông ta.”

“Liệu có ổn không? Không sợ hắn gọi điện tới Phủ Tổng thống hoặc Bộ Tham mưu xác thực à?” Hứa Nhất Thành cau mày.

Dục Phương đắc ý nói, “Vào lúc bình thường dĩ nhiên kế này không được, song hiện giờ trên dưới quân Phụng Thiên đều đang rối như tơ vò, quân không biết tướng, tướng không biết quân, điện thoại điện báo không thông, quân chính quy tâm phúc như Lý Đức Tiêu sẽ chỉ chấp nhận công văn viết tay của Trương Tác Lâm thôi. Đây chính là cơ hội của chúng ta.” Nói tới đó, gã khẩn thiết nhìn Hứa Nhất Thành, “Còn về phần mô phỏng nét bút Trương Tác Lâm ra sao, thì phải trông vào thủ đoạn của Minh Nhãn Mai Hoa rồi.”

Hồng môn trong Minh Nhãn Mai Hoa, cũng chính là gia tộc Lưu Nhất Minh, chuyên về thư họa, con cháu từ nhỏ đã phải nghiên cứu thư pháp các nhà, muốn mô phỏng nét chữ thô kệch của Trương Tác Lâm thực dễ như trở bàn tay.

Hứa Nhất Thành chăm chú nhìn Dục Phương, bắt được vẻ gian xảo thoáng qua trên gương mặt ấy. Mánh vặt này của Dục Phương, Hứa Nhất Thành chẳng lạ, gã muốn nhân cơ hội buộc chặt Hứa Nhất Thành vào tông thất, nếu kéo luôn được cả Minh Nhãn Mai Hoa xuống nước thì càng hay.

Tiếc rằng y chẳng nghĩ được cách nào khác, đề nghị này của Dục Phương quả thực là lựa chọn phù hợp nhất, và cũng là duy nhất hiện giờ.

Dục Phương thừa cơ nói thêm, “Ta biết Minh Nhãn Mai Hoa xưa nay không làm giả, nhưng gặp thời thế thế thời phải thế, nếu ngăn được Vương Thiệu Nghĩa, người Nhật ắt cũng biết khó mà lui. Một bức công văn viết tay mà đẩy lui được hai cánh quân thì lợi biết chừng nào.” Tuy Dục Phương không hiểu vì sao Hứa Nhất Thành cứ canh cánh lo lắng về người Nhật như vậy, song vẫn biết nếu giơ chuyện này ra, y sẽ không cách nào từ chối.

Hứa Nhất Thành ngẫm nghĩ thật lâu rồi thở hắt ra, “Được, tôi sẽ đi liên lạc với Minh Nhãn Mai Hoa. Các vị có bức công văn viết tay nào của Trương Tác Lâm không?”

Dục Phương đáp, “Công văn thì không, nhưng chữ viết tay thì có. Hai năm trước Trương Tác Lâm từng tiếp kiến hoàng thượng ở Bắc Kinh, dâng tặng một bức tranh chữ. Hoàng thượng chê không lành nên không đem tới Thiên Tân, để lại cho ta giữ.” Phú Lão Công quay vào nhà trong, chẳng bao lâu sau ôm một cuốn trục ra.

Hứa Nhất Thành mở ra xem, hiểu ngay vì sao Phổ Nghi chê là không lành. Trên giấy viết bốn chữ lớn “Tái tạo cộng hòa” như rồng bay phượng múa. Viết bốn chữ này tặng một hoàng đế thoái vị thì quá mức mỉa mai. Đặc biệt hơn là lạc khoản lại đề “Trương Tác Lâm thủ hắc”. Hứa Nhất Thành lấy làm lạ hỏi, “Không phải là thủ mặc ư?” Dục Phương cười ngượng, “Ông ta nói tông thất hằng năm đã ăn bao nhiêu trợ cấp chính phủ rồi, lẽ nào còn định chiếm nốt miếng đất? Thế nên bên dưới chữ mặc thiếu bộ thổ, thành thủ hắc đây.”

Hứa Nhất Thành đang rầu thối ruột, nghe vậy cũng phì cười nghĩ, vị tổng tư lệnh này cá tính ra phết. Y cầm bức chữ, quay người rời đi. Dục Phương đứng sau lưng khum tay vái, cung kính dặn với, “Thành bại trông cả vào anh đó.”

Chẳng hiểu sao nghe câu này, Hứa Nhất Thành thấy lạnh toát cả người. Bấy giờ y mới để ý từ đầu đến cuối Dục Phương và Phú Lão Công không hề hỏi tình hình Hải Lan Châu, cũng chẳng bàn cách đến thành Bình An cứu cô. Họ tin chắc rằng y sẽ không ngoảnh mặt làm ngơ hay thực sự không hề quan tâm? Cô nàng Hải Lan Châu này rốt cuộc lai lịch thế nào?

Có điều việc lớn trước mắt, Hứa Nhất Thành đành tạm gác những nghi vấn này lại. Vừa ra khỏi cửa, y đã thấy Dược Lai đứng đợi sẵn. Nó thông báo Lưu Nhất Minh đã được đưa tới nhà Phó Quý nghỉ tạm, những người khác cũng ở đó.

Nhà Phó Quý nằm trong một con ngõ khá gần Sở Cảnh sát, gồm một gian nhà ngói thênh thang và một khoảnh sân kèm phòng chứa củi. Phó Quý sống một mình nên trong nhà ngoài sân rất tuềnh toàng đơn giản, không có những thứ thừa thãi. Phó Quý vốn bảo Lưu Nhất Minh về Minh Nhãn Mai Hoa nhưng cậu không chịu, sợ bỏ lỡ việc lớn, nên nghỉ tạm ở đây.

Hứa Nhất Thành vén rèm bước vào, thấy Lưu Nhất Minh đang nằm trên giường, Hoàng Khắc Vũ toát mồ hôi xử lý vết thương cho cậu, Anegakoji Eitoku có lẽ chẳng coi Lưu Nhất Minh vào đâu nên cũng không đánh đập nặng tay, chủ yếu chỉ là bầm tím ngoài da. Nhìn thái độ Hứa Nhất Thành, Phó Quý biết y nhất định không từ bỏ việc này, liền đanh mặt lại, “Cậu lo liệu cho mẹ con cô ấy chưa?” Hứa Nhất Thành đáp, “Cô ấy ở bệnh viện Liên Hiệp còn an toàn hơn ở nhà. Anegakoji Eitoku đâu?”

Phó Quý hất hàm, bực bội đáp, “Nhốt vào phòng chứa củi rồi, đang ngủ.”

Thấy y đến, Lưu Nhất Minh cựa quậy toan ngồi dậy. Hứa Nhất Thành vội sải bước đi đến, ấn cậu nằm xuống, “Cháu không sao chứ?” Lưu Nhất Minh đáp, “Không sao ạ, à phải, về chuyện bác Cả Hành… chú thưa với cụ Thẩm chưa?” Ánh mắt cậu lấp lánh đầy mong đợi. Một khi chuyện Dược Thận Hành cấu kết với người Nhật bán thuốc phiện lộ ra, Thẩm Mặc có muốn bao che cũng không nổi. Cái ghế chưởng môn tất nhiên cũng sẽ rơi vào tay người khác.

Hứa Nhất Thành không giấu giếm, kể lại hết cuộc nói chuyện với Thẩm Mặc và Dược Thận Hành. Nghe Dược Thận Hành nói chỉ gặp người Nhật bàn việc thu mua cổ vật, Lưu Nhất Minh nóng nảy phản ứng, “Bác ấy chống chế đấy thôi! Nhẽ ra chú phải vạch trần bác ấy luôn ở đó chứ! Có phải dễ bắt được cơ hội tốt thế đâu!”

Hứa Nhất Thành bình thản xoa đầu cậu, “Cháu đừng uổng công nữa, Minh Nhãn Mai Hoa là Minh Nhãn Mai Hoa, chú là chú.” Lưu Nhất Minh trợn mắt, giận dữ cãi, “Giờ Minh Nhãn Mai Hoa rặt một đám chỉ biết rụt cổ cầu an, chú cũng thấy rồi. Tình thế hiện nay nếu không có người hiểu biết lãnh đạo thì sớm muộn gì cũng sụp đổ. Chú không tranh đoạt là chối bỏ trách nhiệm, mặc cho cả ngũ mạch suy tàn đấy!”

Ai cũng biết Lưu Nhất Minh chỉ rắp tâm đẩy Hứa Nhất Thành lên ngôi chưởng môn. Song một kẻ kín đáo như cậu, giờ cũng phải nói thẳng suy nghĩ của mình ra, đủ thấy cậu cố chấp với việc này đến mức nào. Lưu Nhất Minh vừa cử động đã động đến vết thương, đau nghiến răng nghiến lợi, song ánh mắt vẫn dán vào Hứa Nhất Thành, không cho y lảng tránh.

Hoàng Khắc Vũ và Dược Lai đều lặng thinh nhìn Hứa Nhất Thành, ba thiếu niên trong Minh Nhãn Mai Hoa mỗi người một tâm tư, đều đang đợi y trả lời. Hứa Nhất Thành đáp, “Chuyện này để sau hãy nói, trước mắt có một việc gấp cần cháu giúp đây.” Lưu Nhất Minh tưởng Hứa Nhất Thành kiếm cớ từ chối, không ngờ y lấy ra một cuốn trục, rồi trình bày kế hoạch đã bàn bạc cùng Dục Phương.

“Minh Nhãn Mai Hoa tuy cấm ngặt làm giả, nhưng gặp thời thế thế thời phải thế, việc này cũng không phải để mưu lợi cho mình. Nhất Minh, cháu là nhân vật xuất sắc nhất trong lứa thanh niên của Hồng môn, muốn làm giả công văn viết tay của Trương Tác Lâm, chắc không có gì khó chứ?”

Lưu Nhất Minh đón lấy cuốn trục mở ra xem, chợt ngẩng đầu lên, “Cháu bắt chước thì dễ thôi, nhưng chú phải hứa với cháu một việc.” Hoàng Khắc Vũ khẽ huých cậu, nóng nảy can, “Ông định ép chú ấy đấy à?” Lưu Nhất Minh thản nhiên đáp, “Yên tâm, cháu không ép uổng gì chú đâu. Dù chú từ chối, cháu cũng sẽ viết bức công văn này, đảm bảo không tì vết.”

Đây là lấy lui làm tiến, có điều cách làm của Lưu Nhất Minh vẫn còn non. Hứa Nhất Thành nói, “Cháu nói đi.”

“Nếu chuyện ở Đông lăng kết thúc êm đẹp, thì cũng sắp đến ngày đại thọ tám mươi của cụ Thẩm rồi. Cháu mong rằng chú sẽ đến.”

Vào đại thọ tám mươi, Thẩm Mặc sẽ công bố tên người kế thừa ngôi vị chưởng môn đời kế tiếp, Lưu Nhất Minh muốn Hứa Nhất Thành đến là hy vọng y tham gia cạnh tranh. Không ngờ Hứa Nhất Thành lại nhận lời ngay, “Được, chú hứa sẽ tới.”

Ý Hứa Nhất Thành chỉ là hứa sẽ tới dự lễ đại thọ, nhưng không hề nhận lời tham gia cạnh tranh. Song Lưu Nhất Minh nghĩ chỉ cần y có mặt là đã thắng lợi một phần rồi. Cuối cùng đôi bên đều đi đến một thỏa thuận hết sức tế nhị. Lưu Nhất Minh thở hắt ra, như vừa buông xuống một gánh nặng, “Chuẩn bị bút mực cho cháu đi.”

Nói rồi cậu lại mở cuốn trục ra, ngắm nghía thật kỹ. Hứa Nhất Thành bày giấy, bút, mực thượng hạng mà Dục Phương chuẩn bị sẵn ra, chợt nghe tiếng cửa cọt kẹt, ngoái lại thì thấy Dược Lai đẩy cửa lách mình bước ra ngoài. Y bèn đưa thỏi mực cho Hoàng Khắc Vũ, “Cháu mài mực cho Nhất Minh đi.” Đoạn cũng đi ra theo.

Dược Lai đang ngồi trước cửa phòng chứa củi, đầu cúi gằm, chẳng biết nghĩ ngợi chuyện gì. Hứa Nhất Thành lại gần hỏi, “Cháu sao thế? Thấy khó chịu à?” Dược Lai hơi ngẩng lên, vẻ nhơn nhơn láu lỉnh mọi ngày đã đi đâu mất sạch, “Chú và anh Minh bàn chuyện tranh đấu với cha cháu trong ngày đại thọ ngay trước mặt cháu, cháu không sao ngồi nghe được, đành phải lánh ra ngoài thôi.” Rồi nó vội nói thêm, “Cha cháu không phải, nhưng dù sao ông ấy cũng là cha cháu. Cháu biết mọi ngày mình chỉ toàn gây phiền phức cho ông ấy, cũng đã ăn đòn vô số lần, nhưng bảo cháu ngồi nghe mọi người bàn chuyện đó thì cháu thực không biết nên…”

Hứa Nhất Thành ngồi xuống cạnh nó, ngước mắt nhìn trời, “Cháu có biết năm xưa vì sao chú phải rời Minh Nhãn Mai Hoa không?”

“Ồ? Vì sao ạ?” Dược Lai nhỏ tuổi, khi Hứa Nhất Thành ly khai nó còn chưa ra đời. Huống hồ nó là con Dược Thận Hành, người khác cũng chẳng kể cho nó.

“Cha chú đánh đuổi chú đi đấy.” Hứa Nhất Thành ngẩng lên nhìn trời, ánh nắng chói chang khiến y buộc phải nheo mắt lại, vẻ như cảm khái vô vàn về quá khứ.

“Cha chú cũng đánh chú à?”

“Ha ha, nếu cháu chứng kiến ông ấy đánh chú, sẽ biết cha cháu còn nhẹ tay chán. Roi mây to bằng này, ông ấy quật gãy tận ba cái đấy.”

Thấy Hứa Nhất Thành giơ tay miêu tả, Dược Lai tái mét mặt. Là chuyên gia ăn đòn, nó biết roi mây bền đến nhường nào, đánh gãy được ba cây chẳng biết phải dùng sức tới đâu.

“Cha chú bảo thủ cực đoan lắm, lúc nào cũng tâm niệm thương cho roi cho vọt. Người ngoài đều tán dương ông ấy là bậc quân tử đàng hoàng, nhưng làm con trai ông lại rất khổ. Từ bé chú đã ăn đòn như cơm bữa, chỉ cần sai sót chút xíu là ăn một trận đòn. Hồi nhỏ bọn cháu giải đề quý cũng như chơi trò chơi thôi phải không? Còn với chú thì lại là đại sự sống chết đấy. Cha chú tuân thủ nghiêm ngặt các quy tắc giám định, không chấp nhận bất cứ thứ gì vượt ra ngoài khuôn khổ. Một khi làm sai sẽ phải nằm liệt giường ba ngày.”

Dược Lai nhìn y đầy vẻ đồng cảm, chẳng biết nên nói sao mới phải.

Hứa Nhất Thành thở dài, “Lần đó có người mang tới một chiếc khay trăm cá màu đỏ rực in hoa chìm thời Chính Đức, muốn nhờ Minh Nhãn Mai Hoa giám định. Chú nhớ cái khay đó rất đẹp, chất phôi mịn màng, thành khay còn vẽ bốn loại cá ngừ, bạc, chép, mè tung tăng bơi lội, cháu có hiểu hàm ý gì không?”

“Đồng âm với bốn chữ thanh bạch liêm khiết.” Dược Lai buột miệng.

“Chính xác. Cha chứ muốn kiểm tra chú và anh Hành, nên bảo cả hai giám định. Chiếc khay này giám định không khó, hai bọn chú đều cho là đồ giả. Vấn đề nằm ở cách giám định. Cha chú thường làm theo lối cũ, xem màu men, chất phôi, vết rạn, nét vẽ. Bấy giờ chú đang mê khoa học kỹ thuật phương Tây, lại vừa đọc được một bài báo nói nước Anh đã phát minh ra một phương pháp giám định đồ gốm, dùng kính hiển vi độ phóng đại cao quan sát dấu vết biến đổi trên bề mặt đồ gốm, gốm Nhữ đời Tống có thể thấy đường ăn mòn hình bán nguyệt, gốm Quân đời Nguyên sẽ thấy những chấm ăn mòn tụ lại thành vết lốm đốm, các dấu vết biến đổi ở niên đại khác nhau sẽ có những khác biệt rất nhỏ. Chú bèn chạy tới bệnh viện Đồng Nhân ở ngõ Hiếu Thuận mượn kính hiển vi của người Tây về soi khay. Tuy độ phóng đại không được cao lắm, trong tay chứ cũng không nắm được các đặc điểm ăn mòn cụ thể của từng loại đồ gốm ở những niên đại khác nhau, nhưng chú nghĩ ra cách cầm một chiếc khay Chính Đức thật tới so sánh dưới kính hiển vi, nếu không giống thì chắc chắn có vấn đề.”

“Cách này hay thật đây.” Dược Lai tấm tắc.

“Chú cũng nghĩ vậy, bèn hào hứng kể với người nhà, hy vọng mua được mấy chiếc kính hiển vi từ Anh về. Chẳng ngờ cha chú lại nổi trận lôi đình, nói chú chỉ biết dùng mánh khóe vặt, không chịu rèn khả năng quan sát, cũng chẳng chịu nghiền ngẫm đạo lý ẩn bên trong đồ vật, ỷ vào một mảnh kính vỡ mà đòi đoán định thật giả. Chú ra sức giải thích nguyên lý khoa học nhưng ông ấy không chịu nghe, còn mắng chú là quân lừa đảo vô đạo đức, làm nhục danh tiếng Minh Nhãn Mai Hoa. Bấy giờ chú còn trẻ tuổi bồng bột, tức khí cãi lại cha, ông ấy bèn cầm roi mây quật, chú không tránh, cũng không chịu nhận sai. Người trong Minh Nhãn Mai Hoa đều đổ xô đến khuyên can, kẻ giữ cha chú lại bảo ông đừng đánh nữa kẻo gây án mạng, người lại giục chú mau nhận lỗi đi. Nhưng cả hai cha con chú đều bướng bỉnh, chẳng ai chịu nhượng bộ. Cuối cùng chú phải nằm trên giường hơn nửa tháng mới trở dậy được, sau đó nghe nói cha chú đã đến bệnh viện Đồng Nhân, suýt nữa thì phá tan cả phòng thí nghiệm của người ta. Chú tức quá bỏ nhà đi. Cha chú còn tuyệt tình hơn, lập tức đăng báo tuyên bố cắt đứt quan hệ, từ nay không cha con gì nữa. Mãi tới mấy năm trước khi ông ấy lâm chung, chú về gặp lần cuối, ông ấy vẫn không chịu cho chú vào cửa, cho tới tận lúc tắt hơi vẫn quay đầu ra cửa, hai mắt mở trừng trừng, sợ người nhà để chú vào.”

Dược Lai lặng đi hồi lâu. Hai cha con nhà này thực bướng như lừa vậy.

Nó biết Minh Nhãn Mai Hoa xưa nay vẫn cự tuyệt khoa học kỹ thuật hiện đại, tin tưởng vào khả năng quan sát và kinh nghiệm của mình hơn. Nói như Thẩm Mặc thì dụng cụ chỉ là phương pháp, suy cho cùng vẫn phải rèn luyện bản thân mới có ngày thành tài được. Dược Lai cứ ngỡ đó là tôn chỉ của mình cụ, giờ mới biết nguồn gốc là từ cha Hứa Nhất Thành.

Hứa Nhất Thành tựa đầu vào cửa phòng chứa củi, cảm khái, “Chú không giận ông ấy nữa, nhưng đến nay vẫn không hối hận vì đã rời Minh Nhãn Mai Hoa.” Nói tới đó, y chợt tủm tỉm cười, “Huống hồ chú cũng nhờ thế mà được lợi.”

“Thế ạ?”

“Sau khi rời Minh Nhãn Mai Hoa, chú đến bệnh viện Đồng Nhân xin làm thuê trong phòng thí nghiệm của họ để đền bù tổn thất cha chú gây ra, tiện thể học hỏi. Ở đó chú đã quen được vợ chú, bấy giờ cũng làm y tá thực tập tại đó.”

Dược Lai tròn mắt, vốn dĩ nó cứ nghĩ mãi không biết hai người quen nhau thế nào, hóa ra lại có liên quan đến Minh Nhãn Mai Hoa.

Hứa Nhất Thành vỗ mái đầu tròn như quả dưa của nó, “Bởi vậy cháu đừng lấn cấn làm gì. Con người ta sống trên đời, luôn phải kiên trì theo đuổi vài việc ngu ngốc mà bản thân cho là đúng.”

Dược Lai gượng cười lắc đầu, “Cháu không giống chú. Chú là thiên tài còn cháu là đồ bỏ đi, chẳng làm được gì nên hồn, lại nghiện ngập, đời này coi như xong rồi, còn kiên trì theo đuổi cái gì nữa? Cháu không thông minh như anh Minh, cũng chẳng chín chắn như anh Vũ, người trong Minh Nhãn Mai Hoa chẳng ai coi cháu ra gì hết.” Ánh mắt nó đầy vẻ tự trào. Có thể thấy hằng ngày nó tỏ ra nhơn nhơn bất cần, chẳng qua là để che đậy sự tự ti bên trong.

Hứa Nhất Thành nghiêm trang đáp, “Nếu không có cháu, bọn chú sẽ không thể lần ra mối liên hệ giữa thuốc phiện và Đoàn khảo sát phong tục China, càng không đi được đến bước này. Đó chẳng phải là giá trị của cháu ư? Huống hồ chú đã nhận ra cháu rất nhạy bén với đồ gốm, hơn hẳn chú và cha cháu hồi nhỏ, chỉ là không để tâm thôi. Chú bảo cháu cai thuốc cũng là vì không nỡ thấy một hạt giống tốt bị hủy hoại.”

Dược Lai tiu nghỉu trả lời, “Chú đang an ủi cháu chứ gì, người như cháu hết thuốc chữa rồi.”

“Để chú kể cháu nghe một câu chuyện nữa nhé. Mấy năm trước ở Trịnh Châu, chú từng gặp một tên lưu manh mắt to mắt bé, định giăng bẫy lừa chú bằng một món đồ đồng. Trò lừa gạt của nó rất nông cạn, bị chú vạch trần ngay. Chưa đầy hai hôm sau, nó chẳng biết học đâu được một chiêu mới, lại giăng bẫy lừa để chú trông thấy, rồi lại bị vạch trần. Cứ thế bốn năm lần, chẳng những không lừa nổi chú, mà chính nó lại thành ra liểng xiểng. Cuối cùng nó gọi một đám cướp đến, vốn chỉ định dọa chú, nào ngờ bọn cướp kia lại toan làm thật, nó sợ xảy ra án mạng, đành cứu chú. Thực ra nó cũng đã cứu chính mình, bởi nếu nó về hùa với bọn cướp thì chú đã có sẵn kế đối phó, đừng tên nào hòng thoát được. Thấy thằng oắt ấy có khiếu giám định, lại chưa mất hết lương tâm, chú đã dạy cho nó mấy chiêu, còn cho ít tiền làm vốn để nó bỏ thói lừa gạt, làm ăn ngay thẳng. Giờ người ta đã vang danh khắp Khai Phong rồi, lấy hiệu Mắt Âm Dương, là cao thủ giám định xa gần đều biết tiếng.”

Vừa kể dứt thì Lưu Nhất Minh trong nhà nói vọng ra đã làm xong. Hứa Nhất Thành vỗ vai Dược Lai dặn “Cháu cứ tự ngẫm mà xem”, rồi đứng dậy trở vào, để lại một mình Dược Lai mắt sáng rực, trầm tư nghĩ ngợi.

Lưu Nhất Minh đưa cho y một mảnh giấy còn chưa ráo mực, nội dung yêu cầu Lý Đức Tiêu dốc hết sức bảo vệ Đông lăng, đừng để xảy ra chuyện, giọng điệu nghiêm khắc song không kém phần thân mật, đọc qua là biết viết cho người thân tín, lạc khoản đề ba chữ Trương Tác Lâm. So với nét chữ trong cuốn trục gần như giống y đúc, Hứa Nhất Thành thầm bái phục, Lưu Nhất Minh mới chừng ấy tuổi mà trình độ thư pháp đã đến mức này rồi.

Hoàng Khắc Vũ hỏi, “Chú có cần cháu đi cùng không?” Hứa Nhất Thành đáp, “Cháu và Phó Quý đợi tin chú nhé. Nếu Lý Đức Tiêu và Vương Thiệu Nghĩa đối đầu nhau, hai người nhân lúc hỗn loạn lẻn vào thành Bình An cứu Hải Lan Châu ra.”

“Ngài Kido Yuzo thì sao?” Hoàng Khắc Vũ hỏi, cậu vẫn không hề quên người nọ. Hứa Nhất Thành thở dài, “Cứu được thì cứu luôn đi vậy, y cũng là một kẻ si đấy.” Hoàng Khắc Vũ dạ thật to, mặt tươi hẳn.

Hứa Nhất Thành cuộn cuốn trục lại, đang định ra ngoài thì thấy Phó Quý mặt lạnh như băng, biết Phó Quý vẫn giận, y chẳng dám chọc vào, vội cúi đầu đi ra cửa. Phó Quý chợt lên tiếng, “Hứa Nhất Thành, cậu đợi đã, tôi có việc cần nói.” Hứa Nhất Thành ngoái lại cười gượng, bị Phó Quý kéo ra ngoài sân.

Hứa Nhất Thành cười trừ, “Anh đừng giận, lần này tôi có lý do riêng thật mà.” Phó Quý cười nhạt, “Tôi không rảnh nghe cậu phân bua đâu, đưa nó cho tôi.” Hứa Nhất Thành ngẩn ra hỏi cái gì. Phó Quý đáp, “Nửa mảnh thư của Trần Duy Lễ.”

Di vật của Trần Duy Lễ, Hứa Nhất Thành vẫn luôn đem theo bên người, vội lấy trong túi áo ra đưa cho Phó Quý, khấp khởi hỏi, “ Anh mới phát hiện được gì à?” Chẳng ngờ Phó Quý trả lời thẳng toẹt, “Không.”

“Thế anh định làm gì?”

Phó Quý không đáp, chỉ trầm ngâm xem xét mảnh giấy, Hứa Nhất Thành đợi đến sốt cả ruột mới nghe Phó Quý chậm rãi giải thích, “Vừa rồi tôi tới khách sạn Đại Hoa, thấy những thành viên khác trong đoàn khảo sát vẫn chưa trở về. Tôi bèn lục soát mấy gian phòng họ ở, tiếc rằng người Nhật đã dọn dẹp sạch sẽ, chẳng tìm được thứ gì có giá trị cả, ngoại trừ cái này.”

Phó Quý chìa ra một tờ giấy viết thư cùng chất liệu với mảnh thư của Trần Duy Lễ, Hứa Nhất Thành để ý thấy trên giấy có rất nhiều vết mực trông như nét vẽ nguệch ngoạc.

“Tôi tìm được thứ này sau quầy lễ tân khách sạn. Nhân viên khách sạn nói họ nhặt được trong sọt giấy vụn lúc dọn phòng trưởng đoàn Sakai Daisuke. Anh ta thấy chất giấy tốt, lại chưa bị viết chữ, bèn cầm về cho con làm giấy vẽ. Chắc nó và mảnh thư của Trần Duy Lễ được xé ra từ cùng một tập giấy nhỉ?”

Hứa Nhất Thành biết “lục soát” trong lời Phó Quý chắc chắn không phải là qua những cách chính thống, không cạy khóa lẻn vào thì cũng là uy hiếp nhân viên phục vụ. Huống hồ muốn tìm một mảnh giấy viết thư cùng chất trong cả khách sạn rộng như thế, không chỉ cần khả năng quan sát nhạy bén mà còn phải có lòng nhẫn nại kinh người. Phó Quý lẳng lặng làm chuyện này khiến Hứa Nhất Thành hết sức cảm động.

“Tôi không biết nó có ích gì hay không, cậu cứ giữ lại mà xem. Thôi, không còn việc gì nữa, cậu đi đi.” Đoạn Phó Quý quay lưng quầy quả đi vào, không để Hứa Nhất Thành nói thêm nửa lời.

Hứa Nhất Thành cất tờ giấy đi, tạm chưa xem xét vội. Y phải đưa công văn viết tay giả tới chỗ Dục Phương, tông thất đã huy động quan hệ ở kinh thành để dò tìm nơi Lý Đức Tiêu đóng quân, được biết hắn đang ở trấn Mã Thân Kiều, cách Đông lăng chưa đầy ba mươi dặm, cách thành Bình An khoảng sáu chục dặm.

Ngay bí mật quân sự như vậy cũng nghe ngóng được, đủ thấy trên dưới quân Phụng Thiên đã hỗn loạn nhường nào.

Dục Phương ở lại kinh thành huy động nguồn lực của tông thất, báo cho A Hòa Hiên bảo vệ Đông lăng thật cẩn mật. Phú Lão Công và Hứa Nhất Thành đi thuyết phục Lý Đức Tiêu. Hai người vốn đã chẳng ưa nhau, cũng chẳng có chuyện gì để nói, lầm lì ngồi trên xe ngựa.

Hứa Nhất Thành lấy làm mừng vì được yên thân, bèn lôi tờ giấy Phó Quý tìm được ra quan sát.

Tờ giấy này cùng chất liệu với mảnh thư của Trần Duy Lễ, đều là giấy Nhật đặc chế, không hề có ở Trung Quốc. Thế nên suy đoán của Phó Quý rất chính xác, cả hai có lẽ đều được xé ra từ một tập giấy.

Đây là một chi tiết khá quan trọng, chứng tỏ mảnh giấy Trần Duy Lễ đem theo lúc trốn khỏi khách sạn Đại Hoa được xé ra từ cuốn sổ của Sakai Daisuke. Cũng có nghĩa Sakai Daisuke đóng vai trò hết sức quan trọng trong toàn bộ âm mưu này.

Tuy giờ đã điều tra được người Nhật nhăm nhe kiếm Cửu Long trong mộ Càn Long, nhưng Hứa Nhất Thành vẫn thấy bứt rứt không yên, cảm giác lấn cấn như còn điều gì đó chưa được làm sáng tỏ. Động cơ của người Nhật có thật là đơn giản như thế không? Trần Duy Lễ hy sinh tính mạng để cảnh báo việc người Nhật định đào xới Đông lăng thật ư?

Trên giấy chỉ có lác đác mấy chữ tiếng Nhật, hoàn toàn vô nghĩa nên Sakai Daisuke mới ném vào sọt giấy vụn. Hứa Nhất Thành cầm bút chì mài lên mặt giấy hòng tìm ra vết hằn giống như lần trước. Tiếc rằng mảnh giấy này đã bị trẻ con vẽ bậy lên nên rất khó hoàn nguyên lại được. Hứa Nhất Thành mài một lúc lâu, chỉ được mấy chữ Hán rời rạc.

“Nói giữa chừng… phiêu linh… Tuy bị vùi… chẳng… dùng.”

Đây có lẽ là câu văn, câu thơ chép ra từ thư tịch cổ nào đó, vẻ như đang than thở vì không thực hiện được hoài bão, có tài mà không được trọng dụng. Người viết về đề tài này rất nhiều, Hứa Nhất Thành vắt óc nghĩ mãi không sao nhớ nổi là trích từ đâu. Người Nhật khá am tường Hán học, chưa chừng tay Sakai Daisuke này rầu lòng viết đại một bài để trút bớt nỗi lòng cũng nên.

Tiếc rằng với Hứa Nhất Thành lượng thông tin trong mấy chữ ấy gần như bằng không, có lẽ cũng chẳng liên quan gì tới vụ việc lần này. Hứa Nhất Thành thở dài, gập tờ giấy lại nhét vào túi áo.

“Duy Lễ à, rốt cuộc chú muốn nói gì với anh vậy, hay là báo mộng cho anh đi.” Hứa Nhất Thành nhìn ra cảnh vật vùn vụt trôi ngược ngoài cửa sổ, cảm giác linh hồn Trần Duy Lễ vẫn ẩn hiện trong màn sương mù, không sao trông rõ được, tâm trạng lại càng thêm nặng nề. Có điều chẳng mấy chốc y đã xốc lại tinh thần, bất luận ra sao cũng phải giữ được Đông lăng đã.

Chập tối hôm sau, Phú Lão Công và y đến nơi đóng quân của trung đoàn Lý Đức Tiêu ở trấn Mã Thân Kiều. Lúc này sắc trời đã tối, còn thấp thoáng mây đen. Chuồn chuồn bay la đà, không khí ẩm thấp. Thời tiết cuối tháng Năm đầu tháng Sáu nói thay đổi là thay đổi được ngay, chẳng biết tự lúc nào đã lác đác hạt mưa. Doanh trại của cánh quân độc lập nằm bên ngoài trấn Mã Thân Kiều, phóng mắt nhìn ra hết sức trật tự, quy củ đâu vào đấy. Dù sao cũng là đội quân từng ra trận chiến đấu nên quanh doanh trại luôn rờn rợn sát khí, xông thẳng lên mây đen. Sau khi từ tiền tuyến rút về, họ vẫn đóng quân ở đây, cách chủ lực quân đoàn 14 của Tôn Điện Anh khá xa. Phần lớn quân chủ lực đều ở ngoại thành, chỉ có một số ít sĩ quan và trung đoàn cảnh vệ đóng trong thành.

Hai người đến cổng doanh trại, thông báo mục đích mình tới. Ba vệ binh dẫn họ vào văn phòng ban chỉ huy lâm thời vốn được cải tạo từ một gian nhà dân. Mặt tường chính diện treo lá cờ năm màu của chính phủ Bắc Dương đã cháy mất một góc, giữa phòng kê một chiếc bàn rộng thênh thang ghép từ rương gỗ quân dụng, trên bàn là một tấm bản đồ lớn, mấy viên tham mưu đang bò ra hí hoáy trên đó. Đứng giữa là một người thấp đậm mà chắc nịch, như một chiếc đe sắt.

“Trung đoàn trưởng, đã đưa người đến rồi ạ.”

Kẻ kia ngẩng lên, đôi mày rậm cau lại, gương mặt chằng chịt sẹo, mép còn để hai hàng ria con kiến được cắt tỉa gọn gàng. Mười năm xông pha lửa đạn, gã trai lỗ mãng năm xưa đã được trui rèn thành một kiêu hùng. Quân phía Bắc đang gặp lúc bất lợi khiến gương mặt hắn có phần phờ phạc, nhưng lưng vẫn ưỡn thẳng, cả người toát lên vẻ hung hãn.

“Phú Lão Công.” Lý Đức Tiêu nhận ra ngay vị khách, nhưng hắn vẫn đứng yên tại chỗ, không hề bước tới đón, chẳng rõ là do thân thiết hay lạnh nhạt.

“Tướng quân vẫn nhận ra được lão già này, thực vinh hạnh quá.” Phú Lão Công vội hành lễ.

“Cái ơn Phú Lão Công khao quân năm đó, Tiêu tôi vẫn ghi lòng tạc dạ, làm sao quên được.” Lý Đức Tiêu hơi dãn nét mặt, đưa tay đỡ lấy Phú Lão Công, dìu lão ngồi xuống chiếc ghế thái sư duy nhất trong phòng rồi lại nhìn sang Hứa Nhất Thành. Phú Lão Công giới thiệu, “Đây là một người bạn của tông thất chúng tôi, họ Hứa.”

Hứa Nhất Thành liền nói, “Tôi phụng lệnh tổng thống tới đưa công văn viết tay.”

Lông mày Lý Đức Tiêu rất rậm, vừa nhíu lại cả vầng trán đã tối sầm, khiến gương mặt hắn trở nên âm trầm, không đoán được vui giận, “Sao Vũ tướng quân không truyền lệnh qua Bộ Tham mưu?” Vũ tướng quân chính là Trương Tác Lâm, tên chữ của ông ta là Vũ Đình. Dù giờ ông ta đã là tổng thống nhưng những thuộc hạ cũ vẫn quen gọi như vậy cho thân thiết.

Hứa Nhất Thành đáp, “Tổng thống nói việc này cần phải giữ bí mật, không được tiết lộ cho người ngoài.”

Trương Tác Lâm cầm quân thường vượt qua cấp chỉ huy, ra lệnh trực tiếp cho thân tín. Đây là cách tốt nhất để ông ta khống chế quân Phụng Thiên, vì thế việc gửi công văn viết tay cũng chẳng có gì hiếm thấy. Lý Đức Tiêu lại hỏi, “Người Phủ Tổng thống đâu? Sao ngài ấy lại để một người ngoài như anh đi truyền lệnh?” Hứa Nhất Thành nói, “Tướng quân cứ đọc công văn là biết ngay.”

Lý Đức Tiêu trừng mắt nghi hoặc nhìn y rồi nhận lấy công văn xem qua, đoạn ngẩng lên hỏi, “Bảo vệ Đông lăng ư? Việc này rốt cuộc là sao?”

Phú Lão Công và Hứa Nhất Thành bèn kể với hắn chuyện Đông lăng bị trộm, tông thất điều tra được là do Mã Phúc Điền, Vương Thiệu Nghĩa gây ra, giờ nghe nói chúng lại nhăm nhe quật mộ Từ Hi, Phổ Nghi bèn đích thân tới phủ tổng thống nhờ cậy. Tổng thống nhân hậu cũng hết sức lo lắng, bèn đích thân hạ công văn bảo họ tới tìm trung đoàn trưởng Lý giúp đỡ.

Lý Đức Tiêu thắc mắc, “Ta biết bọn Mã Phúc Điền, Vương Thiệu Nghĩa là giặc cướp. Nhưng giờ chúng đã thuộc biên chế chính thức của quân Phụng Thiên, nếu ta dẫn quân tới đánh, chẳng phải là quân mình đánh quân ta hay sao?”

Hứa Nhất Thành nói, “Ý Vũ tướng quân không phải bảo ngài đi diệt phỉ, mà muốn ngài bảo vệ Đông lăng. Người không phạm vào ta thì ta không phạm vào người. Nếu chúng biết khó mà lui thì cần chi động kiếm đao nữa.” Phú Lão Công vội tiếp lời, “Tông thất đã chuẩn bị chút lễ mọn để khao thưởng chư vị tướng sĩ có ơn bảo vệ lăng.”

Phú Lão Công đi chuyến này, mang theo tận bốn rương bạc trắng lớn là tiền vốn tông thất bỏ ra. Bất cứ tên quân phiệt nào thấy số tiền lớn như vậy cũng phải động lòng. Quả nhiên Lý Đức Tiêu cầm công văn đi ra cửa, giơ lên đèn soi rồi nói, “Tướng quân tốt với tông thất thật, lúc này mà còn lo cho các người như thế. Ngài ấy có dặn dò gì nữa không?” Hứa Nhất Thành vội đáp, “Không ạ, tổng thống nói chỉ cần đóng giữ vài hôm là được.”

Lý Đức Tiêu nói với vẻ vô cảm, “Tình hình chiến sự đương lúc khẩn cấp, ta không muốn tùy tiện rời cương vị. Nhưng cấp trên đã có lệnh, ta cũng không thể không theo.” Phú Lão Công liên tục vái dài cảm tạ, tán tụng trung đoàn trưởng Lý nghĩa thấu trời xanh, rồi giục hắn sai người gỡ các rương hòm trên xe xuống. Lý Đức Tiêu thấy quân lương đã đưa đến tận tay, gương mặt lạnh băng cũng dịu hẳn đi. Hắn sai người đi khiêng rương rồi chìa tay, “Để tôi tiễn hai vị.”

Có thể thấy Lý Đức Tiêu đang rất băn khoăn về việc này, không muốn trò chuyện nhiều với họ. Phú Lão Công ra dấu bất lực rồi làm hiệu bảo Hứa Nhất Thành cứ đi đã.

Lý Đức Tiêu dẫn hai người rời khỏi doanh trại, tới con phố lớn duy nhất trong thị trấn. Dân chúng trong trấn đã bỏ chạy gần hết, cửa hàng cửa hiệu hai bên đường tắt đèn tối thui, cả con đường đất vàng rộng thênh thang chỉ thấy chỏng chơ mấy giá thép, vắng ngắt như thị trấn ma. Lý Đức Tiêu đột nhiên dừng bước nói, “Hai người lên đường từ đây đi.”

Phú Lão Công ngạc nhiên, “Trung đoàn trưởng Lý, thế này là…”

“Ta nói các người lên đường từ đây, ta sẽ đích thân đưa các người đi.”

Hứa Nhất Thành và Phú Lão Công nhìn nhau, Phú Lão Công đang định nói thì Lý Đức Tiêu đã cười nhạt, biến hẳn sắc mặt, ném công văn vào mặt Phú Lão Công, quát lên như sấm, “Hai con chó to gan thật, dám làm giả cả quân lệnh à!”

Vệ binh xung quanh lập tức ra tay đè nghiến Hứa Nhất Thành và Phú Lão Công xuống đất. Hứa Nhất Thành cố ngẩng đầu lên cãi, “Đây rõ ràng là thủ dụ của tổng thống, chắc trung đoàn trưởng Lý hiểu lầm rồi.” Lý Đức Tiêu nắm tóc y, nhặt tờ công văn dưới đất lên vung vẩy trước mặt, chế nhạo, “Chúng mày tưởng Vũ tướng quân là đồ quê mùa thô kệch còn tao là thằng ngu hả?”

Hứa Nhất Thành vẫn bình tĩnh hỏi, “Chẳng hay trung đoàn trưởng Lý dựa vào đâu mà bảo công văn là giả?”

Lý Đức Tiêu nhếch mép cười, “Để đề phòng hạng lừa lọc như chúng mày, tướng quân luôn giấu một cây kim vào bút lông khi viết công văn, soi lên đèn sẽ thấy lỗ thủng nhỏ. Hiểu chưa?”

Hứa Nhất Thành và Phú Lão Công bàng hoàng nhìn nhau, thảo nào vừa rồi Lý Đức Tiêu lại giơ công văn lên soi dưới đèn. Họ chỉ biết bắt chước nét bút và giọng điệu, ngờ đâu Trương Tác Lâm còn có mưu này, thành ra sơ hở cực lớn. Thấy cả hai cứng họng, Lý Đức Tiêu cười khẩy, “Ngụy tạo quân lệnh phải xử như gian tế, bắn chết tại chỗ.”

Dứt lời hắn rút khẩu súng đeo bên hông, nhằm thẳng vào hai người, “Vừa nãy tao đã nói rồi, tao sẽ đích thân đưa chúng mày lên đường.”

Phú Lão Công giãy giụa, cao giọng, “Lý Đức Tiêu, công văn là giả nhưng việc Đông lăng là thật! Lão cũng không hại ngài, còn góp quân lương cho ngài, ngài không nể mặt một chút được sao?” Song Lý Đức Tiêu không mảy may động lòng, “Quân pháp như sơn, không châm chước được. Mày làm giả công văn của tướng quân, tội không thể tha. Về phần tiền bạc mày trợ cấp quân ta, ta sẽ bảo người đốt vàng mã trả lại. Đè xuống!”

Mấy tên vệ binh như hổ sói đè hai người quỳ phục dưới đất, Hứa Nhất Thành định phân trần tiếp thì Lý Đức Tiêu đã nói, “Ta không muốn nghe chúng mày lải nhải nữa, bịt miệng lại.” Nói rồi nhét giẻ rách vào miệng hai người.

Lý Đức Tiêu bước tới gí súng vào thái dương Hứa Nhất Thành, chậm rãi kéo cò. Chợt trên trời ầm ầm nổi sấm sét, một luồng sét sáng lòa rạch ngang bầu trời đêm, khiến tất cả giật bắn mình, Lý Đức Tiêu quên cả kéo cò.

Chẳng để mọi người kịp ngẩng lên, cơn mưa đã ào ào trút xuống, chỉ trong nháy mắt, muôn ngàn sợi mưa trắng xóa nối liền đất trời. Cơn mưa rập rình từ nãy cuối cùng đã đổ xuống. Lý Đức Tiêu không buồn che chắn, ngước đầu rũ nước mưa đọng trên vành mũ, giẫm ủng lính lên mặt đường bê bết bùn rồi lại chĩa súng vào Hứa Nhất Thành, “Ông trời chỉ giúp mày chết muộn lại mấy giây thôi.”

Đúng lúc này từ cổng trấn chợt vang lên tiếng kèn hiệu gấp gáp, xuyên qua tiếng mưa ào ào như thác đổ và sấm sét ì ùng, lan ra khắp trấn. Lý Đức Tiêu vừa nghe đã tái mặt, thực không may, đây là thông báo có việc quân khẩn cấp. Hắn đành buông súng lần nữa, nhìn về phía tiếng kèn hiệu.

Chẳng bao lâu sau, từ đầu trấn vẳng lại tiếng vó ngựa dồn dập, rồi một tên lính truyền tin áo ngắn mũ kê pi thúc ngựa rầm rập lao đến. Tới trước mặt Lý Đức Tiêu, y không kịp ghìm cương mà nhảy thẳng từ trên lưng ngựa xuống, ngã nhào vào vũng bùn, lấm lem bò dậy nức nở kêu lên, “Trung đoàn trưởng, không hay rồi!”

“Quân miền Nam đánh tới rồi à? Mau nói đi!” Lý Đức Tiêu quát.

Tay lính truyền tin lắp bắp, “Tổng thống, tổng thống… mất rồi!” Vừa dứt lời lại nghe tiếng sấm rền vang.

Lý Đức Tiêu thấy như trời đất quay cuồng, suýt nữa khuỵu xuống. Hắn thộp cổ áo tên lính, xách y khỏi vũng bùn rồi gào lên, “Chuyện là thế nào!”

Tên lính cuống quá nói lộn xộn hết cả, lắp bắp mãi mới kể rõ được đầu đuôi. Thì ra trước khi Hứa Nhất Thành và Phú Lão Công rời kinh, cùng ngày hôm đó, Trương Tác Lâm cũng đáp tàu về Phụng Thiên. Tàu hỏa đi đến hầm cầu, nơi hai tuyến đường sắt Nam Mãn và Bắc Phụng giao nhau ở gần Hoàng Cô Đồn thì đột nhiên phát nổ. Trương Tác Lâm và những người đi cùng đều gặp nạn. Tên lính truyền tin này vốn là liên lạc viên của trung đoàn Lý Đức Tiêu suốt dọc tuyến đường đó, nhận được tin trước tiên, lập tức chạy về báo với trung đoàn trưởng*.

❖ Thực ra Trương Tác Lâm chưa chết ngay lúc đó mà bốn tiếng sau được đưa tới Thẩm Dương, vết thương quá nặng không thể chữa trị mới qua đời. Quân Đông Bắc giữ kín không phát tang, mười bảy ngày sau mới công bố ra ngoài. (TG)

Lý Đức Tiêu nghe xong thì lặng đi rồi đột nhiên quỳ phục xuống, khóc rống lên thảm thiết. Vừa khóc y vừa đấm mạnh xuống đất, sau cùng khóc đến hụt cả hơi, miệng còn ứa máu tươi. Trương Tác Lâm có ơn tri ngộ với Lý Đức Tiêu, đột nhiên nghe được tin dữ này, hắn khó tránh bi thương tột độ.

Hứa Nhất Thành và Phú Lão Công cũng rúng động tâm thần. Trương Tác Lâm một đời kiêu hùng, chẳng ngờ lại bỏ mạng như vậy. Họ không hiểu nhiều về chính trị, nhưng không hẹn mà cùng nghĩ, sau này sẽ thế nào đây?

Lý Đức Tiêu khóc chừng hai mươi phút, vệ binh xung quanh chẳng ai dám khuyên lơn, chỉ biết đứng nghiêm bất động dưới mưa. Cuối cùng Lý Đức Tiêu cũng ngừng khóc, loạng choạng đứng dậy, hai mắt đỏ ngầu, xô tên lính truyền tin ra rồi đi tới trước mặt Hứa Nhất Thành và Phú Lão Công.

“Hai đứa chúng mày.” Lý Đức Tiêu quát lớn, giọng khàn khàn như đá sỏi cọ vào nhau, hẳn là vừa rồi đã gào khóc khản cả tiếng. Ánh mắt Lý Đức Tiêu ngùn ngụt oán hận, “Chúng mày vừa làm giả công văn của tướng quân thì ngài ấy gặp nạn. Xe lửa bị đánh bom nhất định có liên quan đến chúng mày phải không?”

Hai người tái mặt, Lý Đức Tiêu rõ ràng giận cá chém thớt, vô lý đùng đùng, nhưng hắn đang nổi trận lôi đình, ai dám can ngăn?

Trái lại Lý Đức Tiêu càng nghĩ càng thấy có lý, “Chúng mày cố ý làm giả công văn, điều tao đến Đông lăng khiến tao không đi bảo vệ tướng quân được. Không có trung đoàn chúng tao bảo vệ, ngài ấy mới bị ám sát.” Nghĩ thế, Lý Đức Tiêu lại ngửa mặt nhìn trời khóc rống lên, “Đáng lẽ ngài đừng để tôi làm trung đoàn trưởng, nếu cho tôi theo bên cạnh ngài thì đâu có chuyện hôm nay! Là tôi vô dụng, tại tôi bất hiếu!” Khóc chán hắn lại trợn mắt nhìn hai người, “Hai thằng khốn chúng mày, ai bảo chúng mày hành thích Vũ tướng quân? Hả? Nói mau!”

Dứt lời hắn đá mạnh vào ngực Phú Lão Công khiến lão khuỵu xuống. Lý Đức Tiêu huơ súng lục, hung hăng quát, “Tao phải báo thù cho tổng thống! Bắn chết thì hời cho chúng mày quá! Phải lăng trì tùng xẻo! Phải tế cờ!” Miệng nói vậy nhưng họng súng của hắn lại chĩa vào Hứa Nhất Thành, rồi thình lình kéo cò.

Hứa Nhất Thành thầm nghĩ phen này mình xong rồi, nhắm nghiền mắt lại. Nào ngờ Phú Lão Công đang nằm bẹp dưới đất chẳng biết lấy sức lực từ đâu, thình lình bật dậy, chắn trước Hứa Nhất Thành. Đoàng một tiếng, Hứa Nhất Thành thấy lão thái giám run bắn lên, mái tóc bạc xõa tung rồi ngã ngửa ra.

Lý Đức Tiêu thoáng ngây người nhưng rồi lại giơ tay lên, định bồi thêm phát nữa. Ngờ đâu bên ngoài trấn cũng vang lên một tiếng súng, nghe như tiếng vọng.

Vai Lý Đức Tiêu run lên, trực giác nhạy bén của quân nhân khiến hắn cảm thấy sự tình có phần không ổn. Quân pháp trong doanh trại rất nghiêm, tuyệt đối cấm nổ súng nên tiếng súng này rất kỳ quặc. Hắn nhìn về phía tiếng súng, hòng xem thử có chuyện gì. Ngay sau đó vang lên tiếng súng thứ hai, thứ ba, thứ tư… phát súng đầu tiên như bật công tắc, chỉ trong một phút ngắn ngủi, tiếng súng đì đoàng liên hồi như vãi đạn đã vang vọng khắp nửa thị trấn, xen lẫn cả tiếng pháo ì ùng không dứt. Tiếng mưa ào ào như thác đã bị át hẳn.

Ai cũng có thể nhận ra trung đoàn đã bị kẻ địch tập kích.

Mang cả đại pháo chứng tỏ bọn chúng có quy mô rất lớn, lại nhân lúc trời mưa đánh úp, có thể thấy đã lên kế hoạch kỹ càng. Đây rõ ràng là một cuộc tấn công đã được hoạch định trước.

Đám vệ binh luống cuống, đổ dồn mắt vào Lý Đức Tiêu chờ đợi. Trước biến cố trên trời rơi xuống này, Lý Đức Tiêu gỡ mũ ra rũ sạch nước mưa, ánh mắt cũng lạnh hẳn đi. Tuy tướng quân đã chết, nhưng cánh quân ngài giao cho hắn không thể để mất. Lý Đức Tiêu chẳng buồn nhìn Phú Lão Công nằm gục dưới đất và Hứa Nhất Thành nữa, siết chặt khẩu súng trong tay, giận dữ nói, “Vũ tướng quân vừa qua đời, để ta xem kẻ nào dám mượn gió bẻ măng. Đi thôi!”

Lý Đức Tiêu dẫn theo phần lớn vệ binh lội bùn hối hả rời đi, chỉ để một tên lại canh giữ. Đó là một tay lính quèn, trung đoàn trưởng chưa hạ lệnh, hắn cũng chẳng biết phải làm gì, đành đứng dưới mưa lăm lăm súng nhìn chằm chằm bọn họ.

Hứa Nhất Thành bò dậy, ôm lấy Phú Lão Công.

Máu từ ngực lão không ngừng trào ra hòa lẫn với nước mưa, chẳng mấy chốc đã loang thành một vũng đỏ thẫm. Hứa Nhất Thành thăm hơi thở, thấy lão vẫn còn thoi thóp. Nhưng y chẳng biết phải nói gì. Phú Lão Công xưa nay vẫn không ưa y, quan hệ giữa hai người rất tệ, nhưng vừa rồi lão lại đem thân ra đỡ đạn, tránh cho y khỏi cái chết.

Phú Lão Công gắng gượng hé mắt, đẩy y ra rồi nói bằng giọng thều thào, “Anh đi mau, đi mau đi.”

“Nhưng tôi không thể bỏ ông lại được.” Hứa Nhất Thành gào lên, mặt đầm đìa nước mưa.

Phú Lão Công ho ra mấy ngụm bọt máu, thở dốc, “Con người anh thực là đáng ghét… Khụ khụ, nhưng ta cũng hết cách rồi… Đám tông thất vô dụng kia chẳng trông hòng gì được đâu, kẻ duy nhất bảo vệ được Đông lăng chỉ có anh thôi… Thế nên anh phải sống… Ta cũng coi như đã tận trung rồi, không thẹn với…” Lão thình lình tóm chặt cánh tay Hứa Nhất Thành rồi ngật đầu ra, tắt thở.

Hứa Nhất Thành đờ đẫn ôm xác lão lên, lòng ngổn ngang muôn mối. Tên vệ binh kia căng thẳng quát, “Không được cử động, không được đến đây!” Hứa Nhất Thành giận dữ, “Người chết rồi, anh còn muốn sao nữa? Chẳng nhẽ không để cho người ta được nằm xuống chỗ khô ráo?”

“Trung đoàn trưởng bảo tao ở lại canh chừng mày! Mày không được cử động.” Tên vệ binh quát.

Hứa Nhất Thành đành đặt thi thể Phú Lão Công xuống đất, ngồi khoanh chân lại, dầm mưa nhìn thẳng vào hắn. Toàn thân y ướt sũng, lạnh thấu xương, run lên lẩy bẩy nhưng ánh mắt lại sắc lạnh như dao khiến tên lính nọ co rúm người.

Lão thái giám này là một tay cựu thần Mãn Thanh ngoan cố, lão đỡ đạn cho Hứa Nhất Thành chỉ vì lòng ngu trung với nhà Ái Tân Giác La, muốn lợi dụng y để bảo vệ Đông lăng. Hứa Nhất Thành có thể nghĩ ra cả vạn lý do để không đau buồn vì lão, nhưng vừa ngẩng đầu lên, nước mưa đã chảy tràn vào mắt, y tưởng như thoáng thấy bóng Trần Duy Lễ đâu đây.

Hai người này một già một trẻ đều chẳng tiếc hy sinh tính mạng để bảo vệ niềm tin của mình. Chỉ tiếc rằng thứ mà Phú Lão Công giữ gìn và tận hiến từ lâu đã tan thành tro bụi, sa xuống bùn đen. Hành động của lão có lẽ là một hình thức chủ động giải thoát sau khi thất vọng đến cùng cực, khác hẳn với Trần Duy Lễ tới lúc lâm chung vẫn giữ hy vọng mong manh. Một kẻ tuẫn táng theo quá khứ, một người lại vì ngày sau xán lạn. Hứa Nhất Thành đưa tay vuốt mắt cho Phú Lão Công, nói khẽ, “Tôi sẽ bảo vệ Đông lăng, nhưng không phải vì ông, cũng chẳng phải vì tông thất gì hết…”

Không biết bao lâu sau, tiếng súng bặt dần, rồi chẳng mấy chốc mưa cũng tạnh. Hứa Nhất Thành dầm mưa quá lâu đã kiệt sức, mê man lịm đi. Y chợt thấy xa xa có rất nhiều ánh đèn rồi một đám đông đi về phía mình, bèn gượng cười nhắm mắt lại. Giờ y chẳng còn sức chống cự nữa, đành bó tay chịu chết. Nói cái gì mà bảo vệ Đông lăng, chỉ là lời huênh hoang không biết tự lượng sức thôi.

Trời tối như mực, chẳng nhìn rõ được gì, tay vệ binh vẫn lăm lăm súng cao giọng gọi, “Trung đoàn trưởng ạ?”

Đáp lại hắn là một đốm lửa bùng lên giữa bóng đêm. “Đoàng” một tiếng, hắn ngã lăn ra đất.

Cùng lúc ấy, Hứa Nhất Thành không cầm cự nổi nữa, cũng ngã ra ngất lịm.

Tỉnh lại, Hứa Nhất Thành thấy mình đang nằm trong một căn nhà dân, đắp chăn bông, miệng còn cay vị gừng. Ngẩng đầu lên, y thấy một bà thím quê mùa nơm nớp ngồi bên cạnh, tay vẫn bưng cái bát sành. Thấy y tỉnh lại, bà ta như trút được gánh nặng, đứng dậy đặt cái bát xuống bước ra ngoài.

Chẳng bao lâu sau bên ngoài vang lên tiếng bước chân rồi ba bốn người lố nhố bước vào, đều mặc quân phục Phụng Thiên. Dẫn đầu là một tay đầu trọc, mày ngang môi dày, mũi túi mật treo, đặc biệt nhất là mặt rỗ chi chít như cái bánh đa. Những kẻ khác đều đi lùi lại sau một bước, hẳn là tùy tùng.

Tay đầu trọc cầm chiếc bát sành lên ngửi ngửi rồi quay lại cho gã vệ binh một cái tát, nói bằng giọng Hà Nam đặc sệt, “Mẹ mày, đã bảo phải dùng thuốc tốt nhất, cái đếch gì đây hả!” Gã vệ binh cuống quýt giải thích, “Người trong thị trấn chạy hết rồi, không tìm được thuốc phù hợp…” Tay đầu trọc lại bồi thêm một bạt tai nữa, “Xéo đi! Quân vô tích sự! Nhân sâm đâu! Tổ yến nữa?” Một tên sĩ quan cao cấp bên cạnh vội nói khẽ, “Quân đoàn trưởng, bốc thuốc phải đúng bệnh, không thể uống bừa…”

Bấy giờ tay đầu trọc mới chịu thôi, quay sang cười trừ với Hứa Nhất Thành, “Bọn người dưới sơ suất, anh bỏ quá cho nhé.”

“Tôi đang ở đâu đây?” Hứa Nhất Thành yếu ớt hỏi.

“Vẫn ở trấn Mã Thiên Kiều thôi, anh mê man cả ngày trời rồi.”

Hứa Nhất Thành cố ngẩng đầu lên, mơ màng nhìn tay đầu trọc lạ hoắc. Hắn liền nói: “Anh không biết ta nhưng ta biết anh. Anh là Hứa Nhất Thành thần nhãn thánh thủ, đệ nhất cao thủ giám định của Minh Nhãn Mai Hoa trong kinh thành.”

Hứa Nhất Thành thầm nghĩ mình có cái danh hiệu lủng củng dài dòng này từ bao giờ thế, song thấy đối phương không có vẻ đùa, y đành gật nhẹ đầu đáp, “Tôi là Hứa Nhất Thành, còn ngài là?”

Kẻ nọ bèn trỏ mặt mình giới thiệu, “Ta tên Tôn Điện Anh, cứ gọi Anh rỗ là được.” Dứt lời phá lên cười ha hả rồi q