Chương 9 Cóc vàng nhắn nhủ, Vô Thường thấy châu
Gần đây trong thành Bắc Kinh hết sức loạn, năm xưa Viên Thế Khải qua đời cũng không loạn đến thế. Tổng thống Trương Tác Lâm mới rời Bắc Kinh chưa đầy một ngày đã bị người ta đánh bom nổ tàu ở Hoàng Cô Đồn. Tin tức truyền về, cả thành Bắc Kinh nhốn nháo như chợ vỡ, dân chạy nạn ngày càng đông, cửa hàng cửa hiệu trong thành nhất loạt đóng cửa im ỉm, chỉ trong một tối mà mấy phen kinh hãi. Cục diện hỗn loạn ấy kéo dài suốt mấy ngày, cho tới khi quân Cách mạng Quốc dân kéo vào thành mới bớt dần.
Quân Cách mạng Quốc dân cho lập ngay Bộ tư lệnh Cảnh vệ trong thành phụ trách duy trì trị an, ngoài ra còn đặt ủy ban Chính vụ mặt trận, tạm thời phụ trách các hạng mục quản lý hành chính. Hàng loạt thông báo được đưa ra, các điều luật liên tiếp được ban hành, từng tốp hiến binh được cử đi đến khắp hang cùng ngõ hẻm, mới miễn cưỡng duy trì được cục diện. Ngoài phố đồn rầm lên rằng mấy vị tai to mặt lớn như Tưởng Giới Thạch, Diêm Tích Sơn sắp tới Bắc Kinh thị sát, đó chính là hoàng thượng mới. Dân chúng ai cũng nói gió Hoàng sát tháng trước quả danh bất hư truyền, mỗi khi nổi lên là có biến cố lớn.
Song Lưu Nhất Minh chẳng còn bụng dạ nào cảm khái trước những thay đổi chóng mặt trong kinh thành gần đây.
Hứa Nhất Thành và Phú Lão Công rời kinh không lâu thì có tin quân Lý Đức Tiêu bị đánh úp, toàn quân tan tác, hai người kia cũng bặt vô âm tín, khiến tất cả cuống lên. Hoàng Khắc Vũ chạy đến chỗ tông thất hết lần này đến lần khác nhưng Dục Phương cũng bó tay; Phó Quý thì dò hỏi qua Sở Cảnh sát. Nhưng sau khi Trương Tác Lâm gặp nạn, quân Phụng Thiên ở Bắc Kinh đã hoàn toàn tan rã, tất cả đều cuốn gói chạy về Phụng Thiên, chẳng quan tâm đến bất cứ thứ gì khác; về phần Minh Nhãn Mai Hoa, cũng đã lánh ra ngoại ô tránh nạn từ lâu, để lại một khu nhà trống thênh thang.
Đúng lúc này Lưu Nhất Minh vẫn đang phải dưỡng thương ở nhà Phó Quý, không thể ra ngoài, khiến cậu vô cùng bứt rứt. Cậu một lòng muốn ủng hộ Hứa Nhất Thành ngồi vào ghế chưởng môn, song giờ lại ngày càng cách xa mục tiêu. Lưu Nhất Minh trở nên kiệm lời, cả ngày có khi chẳng hé nửa câu, chỉ nhìn trừng trừng lên trần nhà, đến Hoàng Khắc Vũ cũng chẳng biết cậu đang nghĩ gì.
Trong những ngày này còn xảy ra một chuyện nữa, Anegakoji Eitoku vốn bị nhốt trong phòng chứa củi nhân lúc mọi người bận rộn đã bỏ trốn. Phó Quý đã trói gô hắn lại, song tên này lại dùng răng cắn một mảnh sành từ chiếc bát uống nước để cứa đứt dây thừng. Lúc Phó Quý đến thì phòng chứa củi đã trống không, chỉ có vết máu vương vãi đầy sàn.
Phó Quý sợ hắn dẫn người quay lại trả thù, vội sắp xếp đưa tất cả tới một nơi khác. Mọi người đang thu dọn đồ đạc chuẩn bị đi thì Đàm Ôn Giang tới.
Y lời hứa với Hứa Nhất Thành, Đàm Ôn Giang vừa vào thành đã tới thẳng nhà Phó Quý đưa tin. Phó Quý và Dược Lai ra cửa thấy một toán quân sĩ lăm lăm súng đạn, còn cả mấy cỗ xe ngựa chở đầy hàng hóa chưa kịp dỡ, cứ ngỡ là đến báo thù.
Đàm Ôn Giang kể sơ qua mọi chuyện, tất cả mới hay những ly kỳ Hứa Nhất Thành gặp phải ở trấn Mã Thiên Kiều, nhất loạt tặc lưỡi trầm trồ. Đàm Ôn Giang trao thư cho Phó Quý, khách sáo mấy câu rồi vội vã cáo từ.
Vì sợ bị xem lén nên trong thư Hứa Nhất Thành không đề cập quá chi tiết, chỉ nói mình đã bàn bạc với Tôn Điện Anh, sẽ một mình tới thành Bình An, dẫn dụ Vương Thiệu Nghĩa tới khe Mã Lan để đánh úp. Y cũng dặn Hoàng Khắc Vũ và Phó Quý mau tìm cách lẻn vào thành Bình An, giao hẹn trước ám hiệu để phối hợp với mình.
Lưu Nhất Minh cầm bức thư đọc đi đọc lại mấy lần mới đoán ra được ý tứ thực sự của Hứa Nhất Thành. Cậu búng vào tờ thư, giải thích cho những người kia, “Đông lăng nằm ở khe Mã Lan. Chú Thành không nhắc đến Đông lăng chỉ nói khe Mã Lan, rõ ràng là kiêng kỵ Tôn Điện Anh, không muốn Đông lăng chuốc thêm tai vạ.” Nói tới đây, cậu chợt cảm khái, “Đích đến cuối cùng của Vương Thiệu Nghĩa là Đông lăng, vậy mà chú Thành lại dẫn dụ để Tôn Điện Anh tin rằng khe Mã Lan chỉ là một cái bẫy để lừa Vương Thiệu Nghĩa chui vào. Thông thường khi bày kế người ta hay lấy giả làm thực, còn chú ấy làm ngược lại, lấy thực làm giả. Cao tay quá đi mất.”
Phó Quý cười khẩy, “Nếu Vương Thiệu Nghĩa đằng nào cũng tới Đông lăng thì cậu ta việc gì phải một thân một mình tới thành Bình An? Đúng là vẽ rắn thêm chân.”
Lưu Nhất Minh phân trần, “Hành động ấy có lẽ là mấu chốt giúp chú ấy thuyết phục Tôn Điện Anh đứng ra đối đầu với Vương Thiệu Nghĩa. Có điều cháu không đoán được…” Phó Quý đập bàn sầm mặt, “Hừm, tên khốn ấy tám phần là đi cứu Hải Lan Châu, bỏ mặc an nguy của vợ con rồi.”
Cả phòng lặng đi đầy lúng túng. Ngoài Dược Lai ra, những người khác đều giữ thái độ trung lập với Hải Lan Châu, không mến cũng không ghét, Hứa Nhất Thành cứu hay không cứu đều phụ thuộc vào đạo nghĩa cả. Nhưng nghe Phó Quý nói vậy lại có phần mờ ám, nên càng không ai tiện đáp lời.
Cuối cùng Hoàng Khắc Vũ đành cất lời phá tan không khí gượng gạo, “Chú Thành đã nói thế, chúng ta không nên chậm trễ, phải mau chóng lên đường thôi. Cháu sợ một mình chú ấy không đối phó nổi đâu.” Phó Quý buột miệng chửi thề, song không phản đối.
Thế là theo lời Hứa Nhất Thành, Phó Quý và Hoàng Khắc Vũ lên đường tới thành Bình An, Dược Lai ở lại chăm sóc Lưu Nhất Minh. Phó Quý ngoài miệng ra vẻ miễn cưỡng nhưng đã chuẩn bị đầy đủ mọi thứ cần thiết, nói đi là đi ngay, chẳng bao lâu sau cả hai đã khởi hành. Dược Lai dìu Lưu Nhất Minh dời đến căn nhà khác của Phó Quý.
Vừa ra cổng, Lưu Nhất Minh đã thấy trước cửa có rất nhiều dấu bánh xe, bèn hỏi duyên do, Dược Lai nói vừa rồi lúc Đàm Ôn Giang tới có dẫn theo mấy cỗ xe lớn chở hàng hóa phủ vải bố, hẳn là Tôn Điện Anh đưa vào thành. Rồi nó ra bộ bí hiểm hỏi Lưu Nhất Minh, “Anh có biết trên xe chở gì không?”
“Súng ống à?”
“He he, mũi em ngửi ra được thì anh thấy nhiều khả năng là cái gì nhất?”
Lưu Nhất Minh sực vỡ lẽ, “Thuốc phiện ư?”
Dược Lai dương dương tự đắc xòe tay ra để lộ một hộp tròn đen đen, nói là rơi từ trên xe xuống, nó đã sai mấy đứa ăn mày nhặt về. Lưu Nhất Minh cầm lên xem, thấy hộp nọ làm bằng sừng trâu, bên trên vẽ một con ưng vàng, nét vẽ khá vụng. Vặn hộp ra, bên trong chứa đầy thứ cao đen quánh.
Dược Lai xoa mũi tặc lưỡi, “Thuốc Chim Ưng xịn đấy. Chậc chậc, mấy xe như thế phải đến hơn trăm gánh. Tôn Điện Anh quả là kẻ đứng đầu cả quân đoàn, ra tay rộng rãi thật.”
Quân phiệt dùng nha phiến nuôi quân đã thành lệ. Tôn Điện Anh có từng ấy gánh thuốc phiện cũng là chuyện thường. Giờ Bắc Kinh đang biến động, Đàm Ôn Giang đưa thuốc phiện đến hẳn là để hối lộ các quan chức. Lưu Nhất Minh siết chặt hộp thuốc, hỏi Dược Lai, “Mày khỏi nghiện rồi à? Thấy thứ này mà không thèm gì cả?”
Dược Lai ngượng nghịu cười, quay mặt đi, song yết hầu lại chuyển động, “Thật đấy, em nhịn được một trăm ngày rồi! Chú Thành đã bảo nếu em còn dính vào nghiện ngập nữa sẽ xử lý đến nơi đến chốn.” Lưu Nhất Minh đẩy gọng kính, “Lạ thật đấy. Cha mày đánh như thế mà mày vẫn bỏ ngoài tai, sao chú ấy nói một câu mày đã nghe răm rắp vậy?”
Dược Lai gãi đầu, “Em cũng không nói rõ được, tóm lại em thấy lời chú ấy nói rất có lý, khiến người ta thấy thân thiết chứ không sợ hãi.” Lưu Nhất Minh lại hỏi, “Vậy mày nói thực lòng xem, mày muốn ai kế nhiệm cụ Thẩm, cha mày hay chú ấy?” Dược Lai không ngờ cậu lại hỏi vậy, im lặng giây lát mới đáp, “Dĩ nhiên là chú ấy rồi. Trong mắt cha em, không, trong mắt hầu hết mọi người, em chỉ là cậu ấm chơi bời lêu lổng. Tuy họ không nói ra, nhưng em vẫn biết. Họ đã coi em như thế, thì em lêu lổng luôn. Nhưng chú Thành lại khác…”
Lưu Nhất Minh ngắt lời Dược Lai, ném hộp thuốc phiện lại trả nó, “Thế thì tốt, vậy là chúng ta có chung mục đích. Tao phải nói trước, tao muốn chú ấy lên làm chưởng môn không phải vì nhằm vào nhà họ Dược của mày hay bất cứ nhà nào hết, mà là cả Minh Nhãn Mai Hoa. Chắc mày cũng thấy đấy, giờ Minh Nhãn Mai Hoa đã thối nát đến cùng cực, vừa ngu xuẩn vừa ngoan cố, nếu không có một người giỏi giang lãnh đạo thì sớm muộn cũng đi tong. Mày xem lần này kinh thành đại loạn, một tên Ngô Úc Văn tép riu cũng suýt diệt cả Minh Nhãn Mai Hoa, cứ thế thì làm sao được?”
Dược Lai vỗ ngực, “Phải, phải. Nếu không phải vì chú ấy, bọn mình cũng đâu có ở lại kinh thành, đúng không nào?” Lưu Nhất Minh nhìn nó, nghiêm nghị hỏi, “Nếu cha mày và chú ấy xảy ra tranh chấp, mày có giúp tao không?” Dược Lai gật đầu lia lịa.
“Dù phải đứng ra công khai chống đối lại cha mày, mày cũng bằng lòng chứ?”
“Cái đó…” Dược Lai cứng họng. Hứa Nhất Thành là thần tượng nó kính yêu, nhưng Dược Thận Hành lại là ám ảnh tâm lý mà nó sợ nhất, không ủng hộ là một chuyện, công khai chống đối lại là chuyện khác. Lưu Nhất Minh biết câu hỏi này rất khó trả lời nên cũng không ép uổng, chỉ bảo mày không cần vội, cứ nghĩ cho kỹ đi.
“Nên xác định lập trường cho sớm, đừng để đến lúc gặp chuyện lại luống cuống.” Lưu Nhất Minh buông một câu lấp lửng rồi không nói tiếp chủ đề này nữa. Dược Lai cảm thấy lời nói của cậu có ẩn ý nhưng không tiện hỏi rõ, đành ấp úng gật đầu.
Trong lúc nói chuyện, hai người đã đến nơi, Dược Lai chạy đôn chạy đáo rảy nước trải giường rồi dìu Lưu Nhất Minh lên giường.
Chẳng hiểu sao từ khi Phó Quý và Hoàng Khắc Vũ đi khỏi, Lưu Nhất Minh cứ thấy bồn chồn không yên. Cậu bảo Dược Lai khép cửa lại, ngăn tiếng ồn ngoài đường vọng vào rồi nhắm nghiền mắt sắp xếp lại suy nghĩ. Cái chết của Trần Duy Lễ và manh mối ở Đông lăng, Hứa Nhất Thành kể với cậu nhiều nhất, cậu cũng nghĩ ngợi nhiều nhất.
Đoàn khảo sát phong tục China định quật Dụ lăng của Càn Long, Trần Duy Lễ biết được bèn trốn đi, bị người Nhật giết để bịt miệng, manh mối rơi vào tay Hứa Nhất Thành. Anegakoji Eitoku định giết Hứa Nhất Thành diệt khẩu, nhưng không thành, lại tiếp xúc với Dược Thận Hành, muốn thu mua một số lượng lớn cổ vật Trung Quốc. Đây là những hành động của người Nhật cho đến hiện thời.
Vương Thiệu Nghĩa thông đồng với Dục Bành trộm Huệ lăng phi viên, giờ lão còn bắt cóc Kido Yuzo, lại muốn quật mộ Từ Hi. Đây là kế hoạch của đám thổ phỉ.
Lưu Nhất Minh rà đi soát lại mấy lần, phát hiện có một thiếu sót trí mạng: Đoàn khảo sát phong tục China và Vương Thiệu Nghĩa không có liên hệ gì, hai sự việc trên gần như có thể coi là riêng rẽ. Mối dây duy nhất giữa họ là việc Kido Yuzo bị bắt cóc, nhưng đó lại là việc ngoài ý muốn.
Nếu Đoàn khảo sát phong tục China muốn ngấp nghé Đông lăng thì phải hợp tác với dân bản xứ. Ban đầu Hứa Nhất Thành đoán là Vương Thiệu Nghĩa, nhưng tình thế hiện giờ đã chứng minh là không phải. Vậy người Nhật tính thế nào? Tổng hợp tất cả những manh mối trước mắt sẽ nhận ra các nước đi của Đoàn khảo sát phong tục China hết sức lạ lùng. Chúng làm rất nhiều việc như giết Trần Duy Lễ, tấn công Hứa Nhất Thành, lung lạc Dược Thận Hành, song không hề có gì chứng minh chúng có mối liên quan trực tiếp tới Đông lăng, tất cả chứng cứ đều chỉ là gián tiếp.
Điều này chỉ có thể giải thích theo hai cách. Một là người Nhật không hề tơ tưởng Đông lăng, họ bị oan; hoặc là Hứa Nhất Thành đã bị ý định trộm mộ Từ Hi của Vương Thiệu Nghĩa đánh lạc hướng, bỏ sót mất hành vi nào đó của người Nhật.
Lưu Nhất Minh nghĩ được đến đây thì bí, cuối cùng thấp thỏm thiếp đi.
Ngày thứ ba sau khi nhận được thư, Hoàng Khắc Vũ và Phó Quý đến thành Bình An, họ phải tránh tất cả người đi đường để khỏi chuốc thêm rắc rối.
Thành Bình An vẫn êm đềm như lần trước họ tới, cổng thành mở toang, ngoài phố tấp nập người qua kẻ lại, không hề bị thời cuộc ảnh hưởng. Nhưng họ không dám vào thành, bởi Vương Thiệu Nghĩa đã sắp xếp rất nhiều trạm gác ngầm, hễ có kẻ lạ mặt xuất hiện sẽ bị phát giác ngay. Có lẽ Hứa Nhất Thành đã vào thành rồi, chẳng biết y và Vương Thiệu Nghĩa thương lượng thế nào, ít nhất thì Hải Lan Châu vẫn chưa thấy ra ngoài. Điều này khiến Phó Quý và Hoàng Khắc Vũ hết sức lo lắng, chỉ sợ xảy ra chuyện.
Phó Quý vòng ra đường cái gần cổng thành, ở đây có một ngọn đồi nhỏ thấp thoáng trong núi rừng, mọc đầy tùng bách, dưới chân đồi là cỏ hoang cao đến nửa người, vừa tiện quan sát động tĩnh con đường trước cổng thành, lại dễ ẩn náu. Phó Quý tìm một nơi thích hợp rồi dõi đôi mắt tinh tường như mắt ưng chăm chú nhìn dòng người ra vào thành, không rời một khắc. Chẳng mấy chốc, một cậu choai choai mặc áo ngắn từ bên ngoài đi vào, trông rất thanh tú nho nhã, ngón tay thon dài, mới bằng ấy tuổi mà đã đeo kính, nách cắp ô, có lẽ là người học việc.
Phó Quý gật đầu nói, chọn nó đi. Hoàng Khắc Vũ liền nhảy phắt ra giữa đường, vỗ vai cậu học việc. Cậu ta ngoái lại, giật bắn mình. Hoàng Khắc Vũ cũng chẳng nhiều lời, giơ tay xách luôn cậu ta lên như xách một con gà, kéo vào cánh rừng phía sau đồi.
Phó Quý nhìn cậu học việc chằm chằm, chẳng nói chẳng rằng. Thấy Phó Quý có vẻ dữ dằn, cậu ta ngỡ gặp phải cướp, mặt cắt không còn giọt máu. Xem chừng đã trấn áp được cậu ta, Phó Quý bèn hỏi lai lịch. Cậu học việc không dám giấu giếm, khai rằng mình đang phụ việc kế toán ở tiệm ăn Vân Lai, lần này ra ngoài đòi nợ. Cho rằng Phó Quý định cướp tiền, cậu ta lại vội vã phân trần rằng mình chưa đòi được nợ rồi vỗ vỗ quần áo, tỏ ý trên người không có gì cả, xin đừng giết hại.
Phó Quý nhếch mép cười, “Chúng tao không định cướp tiền của mày, mà là định cho mày tiền.” Cậu học việc ngẩn người, không hiểu Phó Quý có ý gì. Hoàng Khắc Vũ bèn ấn vai cậu ta xuống, trầm giọng hỏi, “Mày biết chữ không?” Cậu ta ngẩng lên cười gượng, “Tôi học việc kế toán, sao lại không biết chữ được.” Phó Quý hài lòng gật đầu, “Lần này mày vào thành thì làm giúp một việc.” Cậu ta xua tay lia lịa, “Tôi không biết giết người, không giết người được đâu…”
Hoàng Khắc Vũ vừa bực vừa buồn cười, “Ai bảo mày giết người.” Cậu học việc ngơ ngác rồi lại xua tay lia lịa, “Tôi không biết trộm cắp, không ăn cắp được đâu.” Phó Quý phải cốc cho một cái, cậu ta mới ngậm miệng lại. Phó Quý giải thích, “Việc đơn giản thôi. Mày tới quán trọ nọ trong thành, xem trên quầy có bày một con cóc vàng không, bên cạnh đặt cái gì, viết chữ gì, rồi quay lại bảo cho bọn tao là được.”
“Thế thôi à?” Cậu ta nghi ngờ.
“Thế thôi. Nếu thành thật thuật lại cho chúng tao biết thì mấy đồng tiền này sẽ là của mày, được chứ?” Phó Quý hỏi. Cậu ta gật đầu rối rít định đi. Phó Quý còn gọi giật lại, “Cấm mày nói với ai đấy, nếu để tao biết được thì liệu hồn, súng đạn không có mắt đâu.” Nói đoạn nửa vô tình nửa cố ý để lộ khẩu súng giắt thắt lưng, cậu học việc tái mét mặt, luôn miệng hứa hẹn sẽ không hé nửa lời.
Cậu ta liêu xiêu trở ra, đi vào thành. Phó Quý hỏi Hoàng Khắc Vũ làm thế này có được không, Hoàng Khắc Vũ tự tin đáp, “Chú Thành đã dặn cháu ám hiệu rồi, trừ người trong giới cổ vật ra, người ngoài nhìn sẽ không hiểu đâu.”
Phó Quý ồ một tiếng, rồi không hỏi thêm nữa. Hoàng Khắc Vũ ngồi bó gối nhìn ra cổng thành, chợt cảm thán, “Ngài Kido Yuzo cũng vẫn bị nhốt bên trong, chẳng biết giờ còn sống không nữa.”
“Nhóc quan tâm tên người Nhật đó quá nhỉ.”
“Thời buổi này người thực lòng trân quý cổ vật hiếm hoi lắm. Chú Hứa cũng thấy ngài ấy đáng kết bạn mà.”
“Nói như nhóc thì thà để người Nhật khoắng sạch Đông lăng đem đi còn hơn để lại Trung Quốc cho giặc cướp vơ vét mang bán nhỉ.”
Phó Quý không ngờ mình chỉ thuận miệng nhạo một câu lại khiến Hoàng Khắc Vũ đăm chiêu suy nghĩ. Phó Quý biết cậu nhóc này hơi cứng nhắc, nhưng không ngờ cứng nhắc tới mức này. Bản tính anh lại lạnh lùng, cũng lười chẳng buồn giải thích, mỗi người miên man suy nghĩ việc của mình, chẳng nói năng gì nữa.
Đợi chừng hơn ba mươi phút, lại thấy cậu học việc kia hớt hải ra khỏi thành, đi thẳng đến chân đồi.
Trên quầy quán trọ quả thực đặt một con cóc vàng, bên cạnh còn treo tấm bảng đề chuyên thu mua bình ngọc hoa văn con mắt, tràng hạt, cổ cầm, tỳ hưu đực, tiền Ngũ đế, đá gừng, quyết ngọc v.v… Cậu ta chép tất cả vào sau một mảnh bao thuốc lá, chữ viết cũng đẹp.
Phó Quý cầm lấy đưa cho Hoàng Khắc Vũ. Đọc xong danh sách nọ, Hoàng Khắc Vũ vừa mừng vừa lo.
Đây là cách báo tin Hứa Nhất Thành đã bàn bạc với họ trước khi xuất phát. Y biết một khi vào thành Bình An, để tránh lộ tin tức ra ngoài, Vương Thiệu Nghĩa sẽ giam lỏng y cho tới khi trộm mộ xong xuôi, không cho phép tiếp xúc với bên ngoài. Thân phận của Hứa Nhất Thành là thương gia cổ vật, y sẽ yêu cầu đằng nào ông cũng không để tôi đi, thế thì tôi tiện thể thu mua hàng vậy. Việc này không động đến lợi ích của Vương Thiệu Nghĩa, tay chủ quán trọ lại có chút quan hệ với Minh Nhãn Mai Hoa, nên không bị ngăn cản.
Bởi vậy cậu học việc mới thấy trên quầy quán trọ bày một con cóc vàng, công khai thu mua hàng.
Dĩ nhiên, Vương Thiệu Nghĩa vốn tính đa nghi sẽ sai người giám sát, những kẻ tới bán hàng cho Hứa Nhất Thành ắt sẽ bị tra hỏi, sợ y thừa cơ truyền tin ra ngoài.
Nhưng Hứa Nhất Thành không làm thế.
Lái buôn cổ vật về vùng quê lùng hàng, ngoài bày cóc vàng, còn đặt cả một tấm biển bên cạnh, nêu rõ những thứ mình đặc biệt muốn mua. Sợ đa phần dân chúng không biết chữ, có khi còn treo cả vật thật tại đó, gọi là “chia cóc vàng”. Hứa Nhất Thành sẽ chiếu theo những ám hiệu giao hẹn trước, viết một bảng những vật phẩm muốn thu mua để ngầm thông báo tình hình. Như vậy Phó Quý và Hoàng Khắc Vũ không - cần tiếp cận quán trọ, chỉ cần tìm một kẻ nhờ chép lại danh sách “chia cóc vàng” là biết được tình hình hiện tại của y.
Danh sách chia cóc vàng đầy những ám hiệu, nếu không phải người trong giới thì khó mà hiểu được, dù có treo trước cổng thành cũng chẳng lo lộ bí mật.
Bình ngọc ngụ ý “bình an”, bình có hoa văn con mắt, ý là trước mắt bình an.
Tràng hạt tượng trưng cho Hải Lan Châu.
Cổ cầm là loại đàn có bảy dây, ý nói bị giam cầm.
Thế nên ý tứ Hứa Nhất Thành muốn truyền đạt qua mấy món cổ vật ấy là, y và Hải Lan Châu đều bị giữ trong thành, nhưng tạm thời vẫn an toàn.
Tỳ hưu chia ra đực cái, tỳ hưu đực rót tiền vào, tỳ hưu cái giữ tiền. Chỉ mua tỳ hưu đực, ý nói đến việc rót tiền vào.
Tiền Ngũ đế ý nói đến tiền đồng thời Thuận Trị, Khang Hi, Ung Chính, Càn Long, Gia Khánh, năm vị hoàng đế nhà Thanh. Khi họ còn tại vị thì quốc thái dân an nên dân chúng vẫn tin rằng đeo những đồng tiền thời đó bên mình sẽ được may mắn, lúc nào cũng có người muốn thu mua. Đông lăng cũng là nơi mai táng năm vị này, nên tiền Ngũ đế ý chỉ Đông lăng.
Về phần đá gừng, thực ra không phải cổ vật mà là một vị thuốc, hình dạng như củ gừng. Hứa Nhất Thành liệt kê cả nó vào, ý chỉ thợ đá họ Khương biết lối vào lăng mộ Từ Hi*.
❖ Trong tiếng Trung, chữ Khương trong họ Khương cũng có nghĩa là gừng.
Còn về quyết ngọc, lại dùng điển cố Hồng Môn yến. Năm xưa Hạng Vũ bày tiệc ở Hồng Môn mời Lưu Bang tới dự, trong bữa tiệc, quân sư Phạm Tăng của ông ta ba lần giơ quyết ngọc lên, ý giục ra tay. Song Hạng Vũ lại chần chừ, cuối cùng làm lỡ mất cơ hội tốt để giết Lưu Bang. Bởi vậy quyết ngọc ngụ ý rằng dùng dằng chưa quyết.
Mấy vật phẩm này đặt cùng nhau ý nói Vương Thiệu Nghĩa vẫn chưa định thời gian đào xới Đông lăng, bởi chưa tìm được thợ đá họ Khương.
Hoàng Khắc Vũ mừng vì Hứa Nhất Thành tạm thời vẫn bình yên, song lại lo vì tình hình trong thành vẫn chưa rõ. Cậu giải thích cho Phó Quý nghe. Hiểu ý Hứa Nhất Thành bảo họ kiên nhẫn chờ tiếp, Phó Quý bèn ném tiền cho cậu học việc rồi dặn ngày nào cũng phải đi qua xem tấm bảng đó, nếu có gì thay đổi thì tới báo với họ, sẽ không để cậu ta thiệt.
Cậu học việc không ngờ việc đơn giản đó lại được trả công khá hậu, còn nhiều hơn tiền công học việc cả tháng trời, liền mừng rỡ nhận lời ngay rồi vui vẻ ra về.
Hoàng Khắc Vũ hỏi Phó Quý phải làm sao, Phó Quý đáp, “Còn làm sao được nữa! Đợi tin tiếp thôi!”
Hoàng Khắc Vũ chợt hỏi, “Sao chú quen với chú Thành vậy?” Trước nay cậu vẫn hết sức tò mò, bởi Phó Quý quá lạnh lùng, chẳng giống Hứa Nhất Thành chút nào song đôi bên dường như lại hết sức tin tưởng nhau, không rõ họ quen biết thế nào nữa.
Đợi một hồi lâu không thấy Phó Quý ừ hử gì, Hoàng Khắc Vũ cứ tưởng mình lại ném đá xuống giếng, chẳng thấy sủi tăm, đang định thôi thì Phó Quý chợt lên tiếng, “Đơn giản lắm, chú bắt cậu ta, rồi cậu ta giúp chú phá một vụ án.” Đoạn Phó Quý hỏi ngược lại, “Còn cháu làm sao lại quen Hứa Nhất Thành?” Hoàng Khắc Vũ đáp, “Chú ấy không giống người trong Minh Nhãn Mai Hoa. Không giống thế nào thì cháu không nói rõ được, Nhất Minh nói chắc sẽ rõ hơn. Tóm lại là… Cháu cảm thấy đi theo chú ấy rất thoải mái, thấy vững dạ.”
“Ừm.” Phó Quý đáp gọn lỏn.
Mấy ngày sau đó, Phó Quý và Hoàng Khắc Vũ thay phiên nhau ra ngọn đồi đợi song không thấy cậu học việc kia xuất hiện. Thành Bình An vẫn bình an, trên đầu thành vẫn giăng cờ quân Phụng Thiên. Tới chiều ngày thứ tư, Hoàng Khắc Vũ đang ngán ngẩm ngồi đợi trên đồi, chợt nghe tiếng chân đi đến. Vừa ngẩng lên đã thấy cậu học việc chạy lại, tay huơ huơ một mảnh vỏ bao thuốc.
“Lại thay đổi à?” Hoàng Khắc Vũ hỏi.
“Em chép lại cho anh rồi này.” Cậu ta chìa tay ra xin tiền.
Hoàng Khắc Vũ đưa tiền, chờ cậu ta đi khỏi mới bắt đầu đọc mảnh giấy. Danh sách vẫn như cũ, chỉ thêm ba món: đồ tráng men Thất Bảo, rùa đồng và kiếm báu.
Thoạt trông, Hoàng Khắc Vũ đã sững người. Phó Quý lại gần hỏi Hứa Nhất Thành viết vậy có ý gì,
Hoàng Khắc Vũ liền giải thích, “Đồ tráng men Thất Bảo là sản phẩm của Nhật Bản. Rùa đồng, có nghĩa là ‘quy’. Ý chú ấy nói Kido Yuzo sắp được thả rồi.” Phó Quý nhíu mày, “Chẳng phải cậu ta đi cứu Hải Lan Châu ư? Sao Hải Lan Châu không thấy đâu mà lại thả gã người Nhật kia ra? Kiếm báu nghĩa là gì? Giết hắn đi à?”
Hoàng Khắc Vũ không sao trả lời được loạt câu hỏi này, mà Phó Quý cũng chẳng trông mong gì, chỉ nhân đó thể hiện sự bất mãn với Hứa Nhất Thành. Rốt cuộc Hứa Nhất Thành làm gì trong thành Bình An vậy? Bỏ mặc vợ con ở nhà, liều mạng đi cứu một cô ả người Mãn, mất mấy ngày mà chỉ làm được một việc duy nhất là thả tay mọt sách người Nhật kia ra. Phó Quý tự cho rằng mình khá hiểu Hứa Nhất Thành, song lần này cũng không đoán được y nghĩ gì.
Trái lại Hoàng Khắc Vũ không giấu được mừng rỡ, cậu vẫn có thiện cảm với Kido Yuzo, bèn nói chú Hứa đã dặn chú cháu mình hỗ trợ thì mình đi thôi. Phó Quý cười nhạt đáp, thích thì nhóc cứ đi đi, chú không đi đâu. Hoàng Khắc Vũ đành mặc anh ta.
Chẳng bao lâu sau, Kido Yuzo thất thểu từ cổng thành đi ra, đầu tóc rối bù, mặt mày lem luốc, quần áo bẩn thỉu nhưng vẫn khá bình tĩnh. Mấy tên lính đẩy ông ta ra rồi quay vào. Kido Yuzo ngơ ngác nhìn quanh rồi cứ men theo đường cái mà đi. Đợi Kido Yuzo rẽ qua một khúc ngoặt, tầm nhìn của đám lính giữ thành bị ngọn đồi nhỏ chắn ngang, Hoàng Khắc Vũ liền chạy ra tóm lấy tay.
“Ngài Kido.”
Kido Yuzo ngẩng lên, ngớ người một lúc lâu mới nhận ra cậu nhóc trong nhà giam hôm nào. Hoàng Khắc Vũ móc ra một gói thịt lừa muối, hai chiếc bánh nướng và một bình nước, Kido Yuzo tức thì sáng mắt lên, hùng hục ăn như hổ đói, chẳng mấy chốc đã sạch bách. No nê rồi, ông ta ngồi bệt xuống đất, mãi một lúc mới lấy lại sức, quay ra vái Hoàng Khắc Vũ một cái thật dài.
Hoàng Khắc Vũ né tránh, luống cuống nói muốn cảm ơn thì cảm ơn chú Thành ấy. Kido Yuzo ở trong nhà lao chẳng biết đầu cua tai nheo gì, bỗng dưng lại được thả ra. Hoàng Khắc Vũ cũng không thể tiết lộ sự thật cho ông ta biết, chỉ nói vắn tắt rằng nhờ Hứa Nhất Thành điều đình, ông ta mới được thả. Kido Yuzo cảm ơn rối rít, nói rằng khi nào về Bắc Kinh nhất định sẽ nói lại với trưởng đoàn Sakai Daisuke và phía Nhật Bản để họ khen thưởng.
Hoàng Khắc Vũ sực nhớ ra Hứa Nhất Thành còn ghi cả kiếm báu vào danh sách, chưa chừng lại muốn hỏi về kiếm Cửu Long.
Qua lời Dược Thận Hành, trang cuối cùng trong Ghi chép về đồ cổ China là kiếm Cửu Long, món đồ thời Thanh duy nhất được liệt vào danh sách. Hứa Nhất Thành luôn cho rằng đó là một từ chỉ chung kho báu trong Dụ lăng của Càn Long. Nhưng trên mảnh giấy viết thư của Trần Duy Lễ quả thực có dấu hằn hình vẽ thanh bảo kiếm, chứng tỏ đây cũng là một món đồ thật.
Kido Yuzo không nhận ra hình vẽ kiếm Cửu Long, cũng không biết nó được liệt vào Ghi chép về đồ cổ China. Có điều nghe Hoàng Khắc Vũ nói xong, ông ta bèn giải thích rằng Ghi chép về đồ cổ China hoàn toàn xuất phát từ ý tốt. Người Nhật đã học tập tiếp thu rất nhiều thứ từ Trung Quốc, giờ thầy giáo mắc bệnh, học trò đem những tác phẩm của thầy về gìn giữ cũng là việc dễ hiểu.
Hoàng Khắc Vũ không bình luận về chuyện này mà nhanh chóng tiễn Kido Yuzo đi rồi quay lại chỗ Phó Quý. Cậu vừa trở về, Phó Quý đã nhíu mày nói, “Mặc kệ Hứa Nhất Thành nghĩ thế nào, nhưng nhóc cứ thấy người Nhật là nghe lời răm rắp thì cũng không hay đâu.”
Hoàng Khắc Vũ vốn nóng tính, chẳng qua luôn đứng sau Hứa Nhất Thành và Lưu Nhất Minh nên không mấy khi nổi cáu. Nghe Phó Quý nói vậy, cậu thấy rất khó chịu, bèn giải thích, “Cháu đâu có thích người Nhật, chỉ cảm thấy họ hiểu giá trị của cổ vật hơn rất nhiều người Trung Quốc. Chắc chú không hiểu được chuyện này đâu.”
Phó Quý chắp tay sau lưng lạnh lùng đáp, “Đúng là không thể hiểu nổi dân chơi cổ vật mấy người. Người Nhật đánh cho Lưu Nhất Minh suýt chết mà nhóc vẫn qua lại với chúng; vợ Hứa Nhất Thành sắp sinh đến nơi mà hắn vẫn dùng dằng với Hải Lan Châu trong thành, còn thả tay người Nhật kia ra nữa.”
Hoàng Khắc Vũ toan cãi lại song Phó Quý không cho cậu cơ hội, “Phó Quý này ít học, không đọc nhiều hiểu rộng như mấy người. Nhưng vẫn biết khác máu thì tanh lòng. Các người cứ chân trong chân ngoài thế thì còn đánh người Nhật làm sao? Chi bằng về nghỉ sớm đi còn hơn.” Dứt lời Phó Quý lắc đầu đi thẳng.
Mấy ngày tiếp theo, hai người thay phiên nhau túc trực ở ngọn đồi. Hoàng Khắc Vũ tìm cơ hội trò chuyện với Phó Quý nhưng luôn bị phớt lờ.
Chiều tối hôm ấy cậu học việc lại tới, lần này danh sách cậu ta chép lại đã thay đổi. Hoàng Khắc Vũ vừa đọc đã trợn tròn mắt, quên cả chiến tranh lạnh, vội vã chạy đến đưa Phó Quý xem.
Phó Quý cầm tờ danh sách, thấy vẫn thế chỉ thiếu quyết ngọc, thay vào đó là cầu đồng chim khách.
Truyền thuyết kể rằng Ngưu Lang Chức Nữ yêu nhau, bị Vương Mẫu nương nương vạch ra sông Ngân ngăn cách. May có bầy chim khách ra tay giúp đỡ, mỗi dịp Thất tịch hằng năm lại bắc cầu cho hai người gặp nhau một đêm. “Cầu đồng chim khách” là một loại lư hương bằng đồng hình dạng khum khum chạm ba con chim khách nối đuôi nhau, đến ngày Thất tịch đem đặt dưới giàn nho, thắp hương cầu nguyện để xin khéo léo*.
❖ Vào ngày Thất tịch, những nhà có con gái thường bày lễ xin cho con gái được khéo tay như nàng chức Nữ khéo tay dệt lụa, gọi là Khất xảo. Vì thế ngày Thất tịch còn được gọi là tết Khất xảo.
Quyết ngọc “dùng dằng chưa quyết” đã không còn, thay vào đó là cầu đồng chim khách chỉ dùng vào ngày Thất tịch. Tin tức Hứa Nhất Thành muốn truyền đạt đã quá rõ ràng, “Vương Thiệu Nghĩa đã tìm được thợ đá họ Khương, sắp quật mộ Từ Hi, thời gian vào khoảng ngày mùng bảy tháng Bảy.”
Hai người lo lắng nhìn nhau.
Kẻ địch cuối cùng cũng bắt đầu ra tay, Phó Quý và Hoàng Khắc Vũ chẳng còn lòng dạ nào giận dỗi nữa, lần lượt thực hiện từng việc theo trình tự đã định sẵn. Còn mấy ngày nữa là đến Thất tịch, họ có rất nhiều việc cần làm, phải báo cho Tôn Điện Anh để hắn chuẩn bị phục kích Vương Thiệu Nghĩa, mặt khác còn phải âm thầm sắp xếp để nhân lúc hỗn loạn cứu Hứa Nhất Thành và Hải Lan Châu ra.
Hoàng Khắc Vũ ngồi thẳng dậy, ngóng về phía cổng thành. Cậu thấy cờ quạt trên đầu thành đã đổi thành cờ thanh thiên bạch nhật của quân Cách mạng Quốc dân. Thay đổi nhỏ này lại càng chứng minh tin tức của Hứa Nhất Thành là đúng. Vương Thiệu Nghĩa đổi cờ là để yểm hộ cho việc đào trộm mộ.
Phó Quý giục Hoàng Khắc Vũ lập tức lên đường tới trấn Mã Thiên Kiều báo tin cho Tôn Điện Anh, còn mình ở lại trông chừng xem có động tĩnh gì mới không. Hoàng Khắc Vũ vội đi ngay, trước lúc đi, cậu chợt ngoảnh lại, nghiêm trang bảo Phó Quý, “Cháu sẽ không để bọn thổ phỉ kia phá hoại Đông lăng, nhưng cháu cũng sẽ chứng minh cho chú thấy cháu đúng.”
Phó Quý xua tay, vẻ không thèm chấp, “Đừng dài dòng nữa, đi nhanh lên.”
Hoàng Khắc Vũ ôm quyền chào rồi quay người ra khỏi cánh rừng, chỉ trong nháy mắt đã đi xa. Phó Quý đứng yên tại chỗ nhìn theo bóng cậu, gương mặt vốn đã lạnh lùng nay lại càng thêm nghiêm nghị. Phó Quý cúi đầu nhìn vỏ bao thuốc trong tay, mặt phải là danh sách cổ vật mà cậu học việc chép lại, nhưng lật sang mặt sau còn có một hàng chữ nhỏ khá mờ: “Vô Thường thấy châu.”
Phó Quý đã âm thầm dặn cậu học việc nếu thấy bên dưới tấm bảng “chia cóc vàng” có thêm hàng chữ này thì nhớ chép lại, nhưng phải chép ra mặt sau, viết thật mờ, không được nói với Hoàng Khắc Vũ.
Đó là ám hiệu bí mật mà Hứa Nhất Thành định trước với Phó Quý, chỉ riêng hai người mới biết.
Hoàng Khắc Vũ tuy đáng tin, nhưng tuổi còn nhỏ, tính tình lại có phần xốc nổi. Huống hồ có những việc Hứa Nhất Thành cảm thấy không nên để cậu biết.
Ví như việc Phó Quý phải làm hiện giờ.
Lúc này vầng dương đã ngả về Tây, chỉ còn vệt nắng nhàn nhạt cuối trời. Chẳng mấy chốc vệt nắng nhạt ấy cũng tắt lịm, mặt đất chìm trong bóng tối dày đặc khiến người ta nghẹt thở. Phó Quý thay sang áo chẽn ngắn xám tro, khom lưng, hai chân đi thoăn thoắt nhẹ như báo, chẳng mấy chốc đã đến dưới thành Bình An.
Thành Bình An tuần tra rất nghiêm, nhưng Vương Thiệu Nghĩa có sắp xếp người canh gác nghiêm mật tới đâu cũng khó mà giám sát tất cả mọi người trong thành. Việc canh phòng nhất định sẽ có sơ hở. Lần trước đến thành Bình An, cặp mắt ưng của Phó Quý đã nhanh chóng nắm rõ tổng thể bố cục và cách bố phòng trong thành như lòng bàn tay.
Thành Bình An được xây từ thời Thanh, chẳng biết đã qua bao nhiêu năm, tường thành xanh xám lâu ngày không được trùng tu, vôi ve tróc lở lả tả. Dĩ nhiên đám thổ phỉ kia chẳng hơi đâu mà tu sửa lại. Phó Quý nhớ lần trước đã phát hiện được một đoạn tường thành sụp lở, tạo thành lỗ hổng. Vương Thiệu Nghĩa không buồn đắp lại mà phái mấy tên lính luân phiên canh gác hằng đêm.
Mấy tên lính đó có ba tên canh ngoài sáng, một tên canh trong tối, đang nhàn rỗi tán dóc về chuyện gần đây trung đoàn trưởng Mã và trung đoàn phó Vương điều động binh mã. Tuy kế hoạch quật mộ Từ Hi chưa được công khai nhưng đám lính dưới quyền cũng đã đoán được vài phần, hào hứng bàn nhau nếu vào được mộ, mình sẽ được chia bao nhiêu châu báu, mua được bao nhiêu mẫu đất, lấy mấy cô vợ.
Phó Quý nấp gần đó nghe lén một lúc lâu, đợi khi chúng có vẻ gà gật mệt mỏi, liền lẻn tới chỗ tên đứng gác trong tối, chỉ một chiêu đã tóm lấy cổ họng hắn, vận sức bẻ rắc một cái, tên lính nọ tức thì mềm nhũn ngã xuống đất. Không còn tên canh trong tối, Phó Quý tránh khỏi tầm mắt mấy tên đứng gác ngoài sáng dễ như bỡn, chẳng mấy chốc đã trèo qua tường thành vào trong.
Phó Quý không phải hạng thiện lành gì, muốn đột nhập vào thành ắt phải ra tay giết người. Hứa Nhất Thành không muốn Hoàng Khắc Vũ dính vào mấy việc giết chóc đó nên Phó Quý mới đợi cậu đi khỏi rồi hành động. Quyền pháp của Hoàng Khắc Vũ là võ công, còn cách làm của Phó Quý chỉ là giết người. Để đạt được mục đích, Phó Quý sẽ bất chấp tất cả.
Thành Bình An trong lỏng ngoài chặt, lại thêm đương lúc tối trời, Phó Quý lẻn vào cũng chẳng bị ai chú ý. Anh ta thoăn thoắt vượt nóc băng ngõ, tránh khỏi mấy tốp tuần tra, chợt trông thấy khu nhà duy nhất vẫn còn sáng đèn trong thành, đó hẳn là nơi ở của Mã Phúc Điền, Vương Thiệu Nghĩa. Có lẽ chúng đang bàn tính xem phải khai quật lăng mộ thế nào. Đông lăng rộng lớn như vậy, nếu tràn vào như ong vỡ tổ thì chẳng biết phải đào tới ngày tháng năm nào, nhất định phải lên kế hoạch trước.
Có điều đó không phải mục tiêu của Phó Quý, anh ta vòng qua khu nhà đèn đuốc sáng choang nọ, lần tới nơi tối tăm nhất trong thành - miếu Thành Hoàng.
Miếu Thành Hoàng đóng im ỉm, không một bóng người. Phó Quý không vào điện chính mà trèo tường vào, lẻn ra gian Âm ti âm u rùng rợn đằng sau. Một tháng trước, chính tại đây, Hứa Nhất Thành đã giành được tư cách xuất hàng cho Vương Thiệu Nghĩa, đồng thời cũng có hai mạng người lìa đời. Trong đêm tối, gian Âm ti trên ngói dưới gạch, vừa cao vừa hẹp, tường quét vôi đỏ rực như một con quỷ Vô Thường mình vấy đầy máu tươi đứng sừng sững ở đó.
Phó Quý vừa đến gần đã thấy một cô gái đứng trước gian Âm ti đợi sẵn. Nghe tiếng chân, cô ta ngoái lại, Phó Quý bất giác ngẩn người.
Vô Thường thấy châu. Nơi ở của quỷ Vô Thường là gian Âm ti, còn châu dĩ nhiên là Hải Lan Châu.
Cô gái nọ đúng là Hải Lan Châu, nhưng lúc đến thành Bình An rõ ràng cô mặc đồ Tây, giờ lại mặc áo hoa màu mận chín và quần thêu hoa rộng, tóc búi cao.
“Sao, không nhận ra tôi à?” Hải Lan Châu cười chào Phó Quý, “Nhất Thành bị giám sát gắt gao, đành cử tôi đến.”
Phó Quý dừng bước, cau mày khó chịu trước giọng điệu của Hải Lan Châu. Huống hồ lần trước gặp cô còn để tóc xõa, giờ lại búi tóc theo kiểu cô dâu mới, quả là kỳ lạ.
Hải Lan Châu dường như không nhận ra thái độ khó chịu của Phó Quý, còn giơ tay sờ lên búi tóc sau đầu theo thói quen, “Cũng chỉ có anh ấy mới nghĩ ra được kế để hai ta gặp nhau ở chỗ rùng rợn thế này. Lần trước ở trong này tôi sợ chết đi được, anh bị giam ở nha môn không biết đáng sợ thế nào đâu. Nhất Thành mọi mặt đều tốt, phải cái không tâm lý tẹo nào.”
Phó Quý thấy cô ta cứ một điều “Nhất Thành” hai điều “Nhất Thành” ra vẻ thân thiết lắm thì phát bực, lạnh lùng hỏi, “Sao cô còn ở lại đây? Chẳng phải Hứa Nhất Thành đến thế chỗ cho cô đi ư?”
Hải Lan Châu đáp, “Nhất Thành định đến thế thân cho tôi. Nhưng Vương Thiệu Nghĩa sinh nghi, cứ hỏi đi hỏi lại, nghi ngờ quan hệ giữa chúng tôi. Tôi thấy cứ thế ắt xảy ra chuyện, bèn thuyết phục Nhất Thành phối hợp đóng kịch để lừa lão, diễn một vở bi kịch tử biệt sinh ly, hai chúng tôi tự do yêu đương nhưng bị cha mẹ phản đối nên không dám công khai…” Nói tới đó, cô ngượng nghịu giơ tay sờ lên búi tóc trên đầu, “Có lẽ vì diễn đạt quá nên Vương Thiệu Nghĩa không chỉ tin mà còn cảm động, đòi đứng ra làm mối tổ chức đám cưới cho chúng tôi trong thành Bình An…”
Nghe tới đó, Phó Quý đanh mặt lại. Đối phó với Vương Thiệu Nghĩa quả là nguy hiểm, nhưng để giấu trời qua biển, Hứa Nhất Thành lại tổ chức đám cưới với Hải Lan Châu thì thực quá tồi tệ…
Hải Lan Châu kể tiếp, “Nhất Thành đúng là chuyên lo việc bao đồng, tôi ở lại thì anh ấy lại quay ra nghĩ cách cứu tay Kido Yuzo người Nhật kia. Rõ ràng bạn anh ấy chết trong tay người Nhật, vậy mà anh ấy lại lấy đức báo oán. Thuyết phục mãi Vương Thiệu Nghĩa mới chịu thả ông ta ra, đúng là vẽ rắn thêm chân…”
Phó Quý cắt ngang tràng kể lể dài dòng của cô, “Được rồi, muộn thế này còn gọi tôi vào thành, rốt cuộc có việc gì?”
Hải Lan Châu đứng yên tại chỗ, “Vương Thiệu Nghĩa sắp ra tay với Đông lăng, các vị đã nhận được tin Nhất Thành báo rồi chứ?”
“Hoàng Khắc Vũ đi báo với Tôn Điện Anh và tông thất rồi.”
“Tốt lắm. Nhất Thành gọi anh tới đây là muốn thông báo chúng đã tìm được tung tích thợ đá họ Khương, anh ấy hy vọng anh tranh thủ đến tìm ông ta thật nhanh.”
Phó Quý không hề ngạc nhiên. Thông tin này có thể biết được từ bảng danh sách thu mua của Hứa Nhất Thành, không còn quyết ngọc, nhưng vẫn có đá gừng. Thảo nào Vương Thiệu Nghĩa quyết định đầu tháng Bảy kéo quân đến Đông lăng, tìm được thợ đá họ Khương cũng có nghĩa là nắm được chìa khóa dẫn vào hầm mộ.
“Ông ta ở đâu?” Phó Quý hỏi.
“Theo tôi nghe ngóng được thì ông ta không ở trong thành mà ở làng Lưu cách đây hơn hai mươi dặm. Ông ta đã ngoài bảy mươi, gần đất xa trời rồi, không chịu nổi vất vả. Nên Vương Thiệu Nghĩa đã phái một toán quân đến đó trông chừng. Sau khi đại quân từ thành Bình An xuất phát, chúng sẽ đưa ông ta tới Đông lăng tập hợp cùng quân chủ lực.”
“Vậy thì đây là một cơ hội tuyệt vời.” Phó Quý thản nhiên nói. Nếu thợ đá họ Khương ở trong thành, được bảo vệ nghiêm ngặt, anh ta gần như không có cơ hội cứu người, song nếu ở trong làng, chỉ có một toán người trông coi thì còn có chút hy vọng.
“Đúng thế. Có điều ý Nhất Thành là không được cứu sớm quá, sợ bị Vương Thiệu Nghĩa phát hiện. Phải đợi khi quân của lão bị đánh úp ở khe Mã Lan không thể rút lui được mới cứu ông ta. Nếu gặp lúc cần kíp, đừng ngại giải quyết dứt điểm.” Lúc nói câu cuối cùng, Hải Lan Châu vô thức gật nhẹ đầu, nhấn giọng.
Phó Quý hơi hếch cằm, “Đó là ý cô hay ý Hứa Nhất Thành?”
Hải Lan Châu cười khanh khách, che miệng đáp, “Nhất Thành đời nào lại nói thế? Anh ấy quá lương thiện. Có điều đây là lựa chọn tốt nhất với anh ấy và chúng ta.”
Mục đích của họ là giữ lăng, không phải trộm mộ, nếu kẻ duy nhất biết vị trí lối vào mộ là thợ đá họ Khương chết thì quá tốt, hiềm nỗi giết ông ta lại quá tàn nhẫn. Phó Quý có thể làm vậy, nhưng Hứa Nhất Thành thì không.
Phó Quý thực không ngờ cô nàng Hải Lan Châu thoạt trông có vẻ yếu đuối mong manh lại có suy nghĩ rất giống mình, không khỏi lạnh lùng nhìn xoáy vào cô. Hải Lan Châu thản nhiên nhìn thẳng vào mắt Phó Quý, “Tôi tự ý quyết định, thực ra là giúp anh ấy quyết một việc mà anh ấy biết là tốt nhưng không dám làm, để anh ấy khỏi áy náy lương tâm, tiện thể trừ bỏ mối họa ngầm cuối cùng cho Đông lăng. Huống hồ chúng ta cũng không nhất định phải diệt khẩu, đó chỉ là biện pháp bất đắc dĩ thôi, phải không nào?”
“Rốt cuộc cô là ai?” Phó Quý hỏi.
Biểu hiện của Hải Lan Châu lúc này hoàn toàn không giống một cô gái bình thường. Phó Quý có thể đánh hơi thấy cô và mình thuộc cùng một loại người, lạnh lùng, sắc sảo, vô tình.
Thấy Phó Quý nghi ngờ, Hải Lan Châu cười, “Anh yên tâm đi, dù có là ai, tôi cũng sẽ không hại Nhất Thành đâu.”
Phó Quý cười nhạt. Anh ta biết không phải bỗng dưng mà tông thất sắp xếp để cô gái này ở bên cạnh Hứa Nhất Thành. Hèn chi cô ta bị giam ở thành Bình An mà Dục Phương chẳng buồn hỏi nửa câu.
“Trong thành Bình An này, tôi là người hỗ trợ tốt nhất cho Hứa Nhất Thành, cũng là tai mắt của anh ấy. Rất nhiều việc đàn ông không tiện nghe ngóng, còn phụ nữ chỉ hỏi một câu là ra.” Hải Lan Châu nói. Phó Quý lờ đi như không nghe thấy, lạnh nhạt đáp, “Nếu không có việc gì nữa thì tôi đi đây.”
“À phải, Nhất Thành nhờ tôi cảm ơn anh, cảm ơn mọi việc anh đã làm cho anh ấy.”
“Những lời này cậu ta tới trước mặt tôi mà nói, đừng truyền qua mồm đàn bà.”
Hải Lan Châu chẳng lấy thế làm điều, “Giờ anh ấy bị canh giữ rất chặt, tôi cũng chỉ đến tối mới trao đổi được mấy câu.”
Nghe câu nói lấp lửng đầy mờ ám ấy, Phó Quý đã quay lưng toan đi liền ngoảnh lại, “Tôi có một câu này, phiền cô nhắc cho Hứa Nhất Thành nhớ rằng vợ cậu ta sắp sinh rồi đấy.”
Hải Lan Châu tươi cười giải thích, “Tôi biết. Nhất Thành kể với tôi cả rồi, tôi còn chuẩn bị quà mừng đây này.”
“Cô không cần giải thích với tôi.”
“Có điều khi anh ấy vào thành, tôi quả thực có hơi cảm động. Nghĩ mà xem, một người đàn ông, để cứu một cô gái mà chẳng màng sinh tử, một mình dấn thân vào trại địch, ở Anh, đó được gọi là romantic.” Hải Lan Châu chống đầu ngón tay vào cằm, tao nhã nhìn Phó Quý, “Đàn ông Trung Quốc rất ít người hiểu được điều này. Rặt một đám bẩn thỉu ích kỷ, tự đại, chỉ coi phụ nữ như kẻ lệ thuộc và công cụ tình dục. Nhất Thành không giống họ, anh ấy có thể coi là một quý ông, dù xét theo tiêu chuẩn khắt khe cỡ nào.”
Dứt lời cô mới nhận ra Phó Quý đã biến mất trong màn đêm, trước cửa gian Âm ti chỉ còn một mình mình. Hải Lan Châu vén lại mấy sợi tóc, ánh mắt sáng lên, vẻ quyến rũ vừa rồi thoắt chốc đã biến mất, cô thở hắt ra, đi thẳng ra ngoài.
Trong lúc thành Bình An sục sôi sóng ngầm, kinh thành cũng chẳng hề yên tĩnh.
Lưu Nhất Minh ở lại trấn giữ Bắc Kinh càng ngày càng bồn chồn, Anegakoji Eitoku vẫn không thấy tăm hơi, nhưng Lưu Nhất Minh chẳng những không nhẹ nhõm, mà còn lo lắng hơn. Anegakoji Eitoku là một quân nhân điển hình, không kéo người đến báo thù chỉ có thể là bởi còn việc quan trọng hơn phải làm.
Việc đó chắc chắn có liên quan tới Đông lăng và kiếm Cửu Long, Lưu Nhất Minh dám khẳng định như vậy. Quan trọng là, chúng định làm thế nào.
Cậu luôn cảm thấy manh mối ở ngay trước mắt mình nhưng hễ đưa tay ra toan nắm lấy thì nó lại biến mất, không sao nghĩ ra được bất thường ở chỗ nào. Cảm giác bất lực khi xa khi gần này khiến cậu vô cùng khó chịu. Sức khỏe cậu đã hồi phục kha khá, hoạt động bình thường không vấn đề gì, nhưng tâm trạng không sao khá lên nổi.
Lưu Nhất Minh sai Dược Lai ra phố nghe ngóng tin tức, mua báo về cả ngày cắm đầu ngồi đọc, những mong lần ra chút manh mối. Xung quanh cậu chồng chất đủ loại tài liệu làm Dược Lai không chỉ một lần càu nhàu rằng chỗ anh sắp thành đống rác đến nơi rồi. Song Lưu Nhất Minh nhớ mãi lời Hứa Nhất Thành nói, trong giám định cổ vật, nếu không xác định được thì cứ xem đi xem lại thật kỹ. Đọc sách trăm lần, ắt sẽ hiểu nghĩa.
Thời gian này, trong thành Bắc Kinh vô cùng náo nhiệt. Sau giai đoạn rối ren ngắn ngủi vì cái chết của Trương Tác Lâm, theo chân đoàn quân Cách mạng Quốc dân tiến vào thành, cuộc sống ở Bắc Kinh cũng dần lấy lại vẻ thanh bình, lệnh giới nghiêm bị hủy bỏ, chợ búa mở lại, rạp hát lại treo biển chuẩn bị diễn vở. Dân chúng lục tục quay về, khiến kinh thành thêm phần nhộn nhịp. Các đoàn thể xã hội cũng rục rịch hoạt động trở lại, thi nhau lên báo phát biểu. Hôm qua là Hội liên hiệp thương nghiệp phát thông cáo ủng hộ Bắc phạt, hôm nay là thầy trò trường Thanh Hoa Hà Bắc đòi nợ máu “Ngũ tứ”; ngoài ra còn đủ các loại quảng cáo, tuyên bố cá nhân, cáo phó và tin tức chính trị mới nhất, nhan nhản khắp các mặt báo.
Dục Phương cũng đích thân viết một bài phát biểu đăng trên báo Thời vụ, nói rằng rất mừng được tin chủ tịch Tưởng sắp ghé kinh thành thị sát, xin hãy quan tâm tới việc trị an và tu sửa lăng mộ hoàng gia ở gần kinh thành, hy vọng văn vật được bảo hộ, đừng để người đời sau phải tiếc nuối than khóc v.v… Đáng tiếc rằng hiện giờ cả Bắc Kinh đều đang ráo riết tìm lấy vị trí cho mình trong cục thế mới, ai buồn để tâm tới việc tu sửa lăng mộ hoàng đế triều trước. Giữa không khí sôi nổi ấy, Đông lăng chỉ là một nơi cũ kỹ bị lãng quên, một thứ tầm thường bé mọn. Chẳng ai quan tâm, cũng chẳng ai chú ý.
Dục Phương kêu gọi một đám bề tôi triều trước, định viết thêm mấy bài nữa, nhưng làn sóng tuyên truyền này chẳng mấy chốc đã bị một quả lựu đạn nặng ký cắt ngang.
Hạ tuần tháng Sáu, đảng Quốc dân tổ chức Hội nghị chính trị trung ương, tuyên bố từ tháng Bảy trở đi, Bắc Kinh đổi tên thành thành phố đặc biệt Bắc Bình, trực thuộc trung ương.
Tin này vừa truyền ra, hết thảy dân Bắc Kinh sững sờ. Từ khi Minh Thành Tổ rời Nam Kinh đến Bắc Kinh, mấy trăm năm nay, vị trí thủ đô của Bắc Kinh chưa bao giờ lung lay. Thực không ngờ trận gió Hoàng sát tháng Năm không chỉ thổi bay Trương Tác Lâm mà còn quét sạch phong khí kinh đô của cả Bắc Kinh. Nên biết rằng kinh đô một nước là nơi tiền bạc khắp chốn đổ về, Bắc Kinh tụt xuống thành Bắc Bình, không chỉ đánh mất danh vọng và địa vị mà còn mất vô số cơ hội làm ăn buôn bán và phát triển, dần trở thành một thành phố bình thường. Nên tin tức vừa lộ ra, khắp kinh thành đã rộ lên tiếng than oán.
Trước tình hình đó, chẳng ai còn bụng dạ nào nghĩ tới Đông lăng nữa.
Việc này cũng ảnh hưởng rất nhiều đến Minh Nhãn Mai Hoa, song Lưu Nhất Minh chẳng buồn để tâm. Cậu chỉ quan tâm tới những tin tức về Nhật Bản. Tin tức không ít nhưng phần lớn là về mặt quân sự và ngoại giao, hơn nữa đều liên quan tới Phụng Thiên. Song hôm nay, đọc được bài báo nói rằng quan chức ngoại giao Nhật Bản gửi công hàm tới Nam Kinh, hy vọng việc chuyển đổi chính quyền không ảnh hưởng tới việc giao thương giữa hai nước cùng đặc quyền mà hàng hóa Nhật đang được hưởng trên thị trường Hoa Bắc, cậu chợt thấy hết sức cảnh giác.
Lưu Nhất Minh sáng mắt lên, quay sang rút mấy tờ báo từ một chồng khác ra, trên báo có mục tin tức được đánh dấu đỏ. Tin quảng cáo nọ nói công ty cổ phần Serizawa tuyển nhân viên bốc vác trên tàu. Ngoài ra kinh thành còn có tờ Trải nghiệm Hoa Bắc do một nhà truyền giáo người Pháp làm chủ bút, viết rằng người hút xách ngày càng nhiều, kêu gọi chính phủ thành lập nhiều cơ sở cai thuốc phiện hơn.
Lưu Nhất Minh nhớ Serizawa là công ty vận chuyển thuốc phiện từ Đại Liên tới Bắc Kinh, họ bắt được Anegakoji Eitoku tại chính kho hàng ở Thành Nam của công ty này. Lưu Nhất Minh sầm mặt ngẩng lên, gọi Dược Lai lại, “Lần trước mày thấy Đàm Ôn Giang chuyên chở thuốc hiệu Chim Ưng phải không?”
“Đúng thế.”
“Tao nhớ mày từng nói từ sau khi Kim Đan xuất hiện, rất ít người dùng Chim Ưng hử?”
“Không thể nói thế được. Kim Đan là hàng xa xỉ, đắt đỏ, Chim Ưng dẫu sao giá cả cũng phải chăng hơn. Có điều vị hai hiệu này chênh lệch quá lớn…” Hễ nhắc đến thuốc phiện, Dược Lai lại thao thao bất tuyệt.
Lưu Nhất Minh tái mặt nói chúng ta phải đi tìm Đàm Ôn Giang ngay, tao muốn xác nhận lại một chuyện.
Dược Lai chẳng hiểu đầu cua tai nheo gì, song vẫn theo cậu ra ngoài. Quân đoàn 12 đặt văn phòng ở ngõ Giáo Tử phía Nam thành, trong một gian nhà rộng, mảnh sân thênh thang chất đống thuốc phiện phủ vải bạt. Tới hỏi thăm mới biết Đàm Ôn Giang đã quay về trấn Mã Thiên Kiều, chỉ để lại hơn mười tay lính trông giữ, do một thượng úy cai quản.
Thượng úy hôm ấy cũng đi theo Đàm Ôn Giang nên từng gặp Dược Lai, biết họ là khách quý của quân đoàn trưởng nên thái độ rất hòa nhã. Dược Lai khéo ăn khéo nói, dúi ngay cho hắn một đồng đại dương, chỉ mấy câu đã tâng bốc cho tay thượng úy vui vẻ hẳn lên, mời họ vào nhà ngồi chơi rồi sai người đi pha trà.
Trong nhà nghi ngút khói, rõ ràng đám lính này đang hút thuốc phiện, tên nào tên nấy đều có vẻ phê pha. Thượng úy phải đá cho cái, một tên trong bọn mới lờ đờ ngồi dậy. Ba người ngồi xuống nói chuyện, tay thượng úy cũng không hề giấu giếm, nhận ngay mấy cỗ xe kia đều chở thuốc phiện hiệu Chim Ưng, đưa đến Bắc Kinh để hối lộ các quan viên.
Một lúc lâu sau, tên lính vừa nãy mới bưng lên ba chén trà pha qua quýt. Lưu Nhất Minh nhìn hắn chằm chằm, chẳng rõ nhìn cái gì. Dược Lai chuyện trò câu được câu chăng với tay thượng úy, nghe hắn ca thán giá cả kinh thành đắt đỏ, thuốc phiện không được giá, chỉ nuôi ăn mấy tên lính mà mất bao nhiêu tiền, rồi quay ra than thở rằng quân đội chẳng có đồng phụ cấp nào cả, quân đoàn trưởng hơi tí lại phát thuốc phiện trừ nợ, cứ đà này thà về quê cày ruộng lấy vợ còn hơn.
Nói tới đây, tay thượng úy tức tối vung vẩy tay. Thấy Dược Lai đột nhiên biến sắc, vẻ mặt là lạ, Lưu Nhất Minh gặng hỏi, nó thì thào nói nhỏ, “Cha em từng đến đây.” Lưu Nhất Minh nhíu mày, sao lại mắc mớ gì đến Dược Thận Hành? Bèn hỏi Dược Lai làm sao biết được, nó bèn nói anh có thấy chiếc nhẫn trên ngón cái tay thượng úy không? Đó là nhẫn võ.
Nhẫn ngón cái chia làm hai loại văn võ, văn chủ yếu làm từ ngọc hoặc sừng tê, ngà voi, thuần túy là trang sức của con cháu Bát Kỳ. Võ mới thực sự được dùng trên chiến trường, làm bằng sừng nai sừng tấm, màu nâu nhạt. Vì nhà Thanh càng về sau càng lơi lỏng việc võ bị, Bát Kỳ sa đọa nên sừng nai sừng tấm ngày càng hiếm thấy. Dược Thận Hành có một chiếc, vốn của một vương gia ở quan ngoại thời Mãn Thanh, về sau con cháu đều ăn lộc Bát Kỳ, chẳng có chí tiến thủ gì nên nó rơi vào tay Minh Nhãn Mai Hoa.
Thứ này bảo là không đáng tiền cũng không phải, vì nó rất quý hiếm; nhưng nói là đáng tiền thì so với nhẫn ngọc lại chẳng biết ra giá làm sao. Thế nên dân chơi cổ vật gọi những thứ thế này là hàng gõ cửa, ý là rất hợp để tặng những người không quá quan trọng nhưng cần móc nối quan hệ, vừa tỏ thái độ tôn trọng, lại không quá đắt đỏ.
Hiện giờ chiếc nhẫn nọ đang nằm trên tay gã thượng úy, hẳn là quà Dược Thận Hành tặng. Lưu Nhất Minh thắc mắc, “Nhẫn võ có phải chỉ có một cái đâu, sao mày dám chắc là của nhà mày?” Dược Lai đáp, “Em từng đánh cắp nó đem cầm, sơ ý làm sứt mất một góc. Cha em chuộc về, còn dần cho em một trận. Ký ức được khắc bằng ba mươi roi, không thể nào sai được.”
Dược Lai bóng gió hỏi dò, quả nhiên tay thượng úy kể mấy bữa trước có người tới thăm sư đoàn trưởng Đàm, hai người trò chuyện rất lâu, song cụ thể nói những gì thì không rõ. Hỏi đến hình dáng, đúng là Dược Thận Hành.
Thực quá lạ lùng. Trước đây Dược Thận Hành gặp Anegakoji Eitoku ở kho hàng Thành Nam là vì Ghi chép về đồ cổ China; lần này hắn lại đến gặp Đàm Ôn Giang là vì cái gì? Lần trước Thành Nam có Kim Đan, lần này lại có cả mấy xe thuốc Chim Ưng. Sao lần nào hắn cũng tìm tới những nơi có thuốc phiện vậy?
Sau khi rời văn phòng của sư đoàn 12, Dược Lai và Lưu Nhất Minh đều mặt nặng như chì. Dược Lai là vì phát hiện hành tung của cha mình ngày càng quái lạ, không sao giải thích n