Chương 10 Trước Đông lăng, khe Mã Lan, đen ăn đen
Trời tháng Bảy cũng thất thường như cục diện Bắc Kinh hiện giờ. Sáng sớm còn nắng chói chang, đến trưa đã thành âm u, lúc hửng lúc không. Mây giăng khắp mấy trăm dặm quanh kinh thành, phía trên tầng mây là ánh vàng rực rỡ còn phía dưới lại xám xì xám xịt. Ánh nắng không chiếu qua được, chỉ có sức nóng xuyên qua mây phả thẳng xuống đất, ngột ngạt khôn xiết. Đi ngoài đường như đứng giữa ranh giới âm dương, bầu trời trên đỉnh đầu một màu u ám.
Vừa qua giờ ngọ, cổng thành Bình An đã rầm rầm mở toang, rồi hai mươi mấy người cưỡi ngựa lao ra. Sau khi ra khỏi thành, chúng tản thành đội hình cánh quạt, phi như bay. Theo ngay sau là một toán quân phải đến bốn trăm người, toàn bộ binh. Những kẻ này động tác uể oải nhưng vẻ mặt hết sức tươi tỉnh, vừa đi vừa nói cười oang oang, đội ngũ lộn xộn nhốn nháo. Vũ khí của chúng cũng hỗn tạp, kẻ vác Hán Dương 88, người cầm Mauser 13, có kẻ chỉ ôm thanh đao đầu hổ. Quân phục lại càng tạp nham, đủ cả quân phục lính Phụng Thiên, quân Cách mạng Quốc dân, quân Hoàn*, áo đen của hiệu buôn Sơn Tây, áo dài của dân du mục Mông cổ, thậm chí còn có kẻ mặc áo tay trần, lộ ra bắp thịt bóng nhẫy, đầy vẻ hung hăng man rợ.
❖ Một trong ba hệ phái quân phiệt lớn của quân Bắc Dương, thủ lĩnh là Đoàn Kỳ Thụy.
Đi giữa đám thổ phỉ ấy là hơn mười cỗ xe ngựa bỏ trống, chỉ một cỗ có người. Hứa Nhất Thành khoanh tay trước ngực ngồi trên xe nhắm mắt, chẳng nói chẳng rằng, Hải Lan Châu tựa vào người y, bóc quýt cho y ăn.
Vương Thiệu Nghĩa thúc ngựa đi đến trước xe, cười lạnh lùng, “Vui duyên mới ngọt ngào quá nhỉ?”
Hải Lan Châu cười ngọt xớt, “Chúng tôi chưa dâng trà cho lão gia, thực có lỗi quá.”
Vương Thiệu Nghĩa nhìn Hứa Nhất Thành, “Anh nhắm mắt nghĩ gì thế?”
Hứa Nhất Thành từ từ mở mắt, buông ra hai chữ, “Đông lăng.”
Vương Thiệu Nghĩa phá lên cười, vung roi trỏ cả đoàn quân, “Mấy trăm người ở đây có ai không nghĩ tới chuyện đó? Đời này có dịp chứng kiến Đông lăng bị quật, quả là phúc lớn. Lát nữa mở mộ Từ Hi, anh nhớ mở mắt cho to vào nhé.” Ngừng giây lát, thấy Hứa Nhất Thành vẫn lạnh nhạt, lão nhíu mày, “Ta biết anh không được vui, nhưng giam anh trong thành hơn mười ngày không cho ra ngoài cũng là để giữ bí mật thôi. Huống hồ ta đãi anh đâu có bạc, rượu ngon thịt béo dâng tận miệng, anh đòi thả người ta cũng thả ngay, đến vợ bé còn cưới cho anh một cô, chưa đủ hay sao?”
Hứa Nhất Thành chợt trỏ lên trời hỏi, “Trung đoàn phó Vương biết thời tiết hôm nay gọi là gì không?”
Vương Thiệu Nghĩa hỏi là gì, Hứa Nhất Thành nghiêm nghị đáp, “Gọi là trời âm dương, còn có tên khác là chín suối lật đất. Mây che mặt trời, âm u mù mịt, trời đổ mưa giông, đất tuôn chín suối, ranh giới âm dương lẫn lộn, nếu đi lầm đường rất dễ sa xuống âm ti, bước xuống suối vàng, lúc ấy muốn quay lại cũng khó.”
Vương Thiệu Nghĩa sầm mặt, “Anh có ý gì?”
Hứa Nhất Thành đáp, “Trời cao có mắt. Có những việc nên nghĩ cho kỹ hẵng làm.”
Vương Thiệu Nghĩa khinh khỉnh đáp, “Nói phải lắm. Trời cao có mắt, có điều giờ ông trời chỉ biết trơ mắt nhìn, chứ chẳng làm gì được.” Nói rồi lão cười ha hả, quay người đi thẳng.
Thái độ của Hứa Nhất Thành khiến Vương Thiệu Nghĩa hơi cụt hứng. Nếu là trước đây, hẳn lão đã cho đồ không biết điều ấy một phát đạn. Nhưng trong mười mấy ngày bị giam lỏng, Hứa Nhất Thành đã giúp trên dưới thành Bình An giám định khá nhiều cổ vật, quả thực là cao thủ. Vương Thiệu Nghĩa vẫn trông mong y giúp mình xuất hàng nên tạm thời giữ lại.
Đợi Vương Thiệu Nghĩa đi xa, Hải Lan Châu siết nhẹ tay Hứa Nhất Thành dịu giọng, “Giăng cái bẫy lớn như thế, chẳng phải vì hôm nay ư? Sao tự dưng anh lại định làm người tốt thế?” Hứa Nhất Thành cười nhạt, “Vương Thiệu Nghĩa rất đa nghi, nếu tôi giục giã lên đường, lão sẽ sinh nghi. Trái lại nếu tôi ngăn cản, lão lại càng muốn tới Đông lăng thật nhanh.” Nói tới đó, Hứa Nhất Thành thở dài, ngả người ra sau, “Cô không biết đấy thôi, dân buôn cổ vật có ‘ba khuyên’. Dù là bán hàng giả lừa người, thì khi người ta chuẩn bị móc tiền ra, vẫn phải khuyên ba lần để khỏi trái lương tâm. Khuyên ba lần mà đối phương không tỉnh ngộ thì là tự làm tự chịu, số đã định sẽ bị lừa.”
“Thật không? Ai lại tự ngáng đường mình thế?”
“Ha ha, cô khỏi lo. Càng làm thế người mua càng không nghĩ mình bị gạt, trái lại còn cho rằng người bán tiếc của định rút lại, nên mau mắn xuống tiền ngay.” Thấy Hải Lan Châu ngạc nhiên ra mặt, Hứa Nhất Thành cười nói, “Ba khuyên vốn là quy tắc khuyên người ta hướng thiện, ngờ đâu về sau lại thành ngón nghề vờ tha để bắt. Nên cô thấy đấy, giám định cổ vật, thực ra là đo lòng người đấy thôi. Báu vật càng trân quý càng soi thấu lòng người đáng sợ. Thực không dám tưởng tượng kho báu khổng lồ ở Đông lăng sẽ soi ra thứ gì nữa…” Hứa Nhất Thành nheo mắt nhìn ra đường. Xa xa, giữa bốn bề núi bọc là khởi nguồn của tất cả những chuyện này.
Đúng lúc ấy, Vương Thiệu Nghĩa đang đi bên cạnh đoàn quân, thúc ngựa hô vang, “Các anh em, nhanh chân lên. Mụ già Từ Hi đã nằm ngửa ra chờ chúng ta rồi kìa!”
Nghe lão nói, đám thổ phỉ cười ồ lên, sĩ khí dâng cao, tiếng hò hét, huýt sáo vang thấu tận trời, cả đoàn cố sải bước thật nhanh.
Cách đó hai mươi dặm về phía trước là một ngọn núi lớn tên Phủ Quân. Núi này nằm phía Đông Đông lăng, cách một bức tường phong thủy. Thế núi hiểm trở khúc khuỷu, kết hợp với những đồi những khe gần đó tạo thành một cửa ải hẹp gọi là ải Mã Lan, gần đó còn có trường thành từ thời Tần, là vị trí trọng yếu của khe Mã Lan.
Khi Vương Thiệu Nghĩa đang dốc toàn lực tiến lên thì trong sở chỉ huy nằm ở chỗ khuất nẻo trên núi Phủ Quân, Đàm Ôn Giang hạ ống nhòm đôi của Đức xuống, quay lại bảo Tôn Điện Anh, “Quân đoàn trưởng, người của ta đều đã vào vị trí mai phục rồi.”
Tôn Điện Anh bỏ mũ, phơi ra cái đầu trọc, ngồi trên ghế xếp lúi húi gặm dưa hấu. Dưới chân hắn đặt một thùng nước giếng, ngâm ba bốn quả dưa hấu to tướng xanh mướt. Nghe Đàm Ôn Giang báo cáo xong, hắn phẩy tay, “Khi nào Vương Thiệu Nghĩa cách trận địa hai dặm hẵng báo tiếp. Mẹ nó chứ, trời nóng như nung thế này, người cũng chảy thành mỡ hết.” Than xong một câu, hắn lại gặm một miếng dưa to, nhổ phì ra mấy hạt đen.
Ngẩng lên thấy Hoàng Khắc Vũ đứng bên, mặt đầm đìa mồ hôi song vẫn ngóng xuống núi, Tôn Điện Anh gọi, “Này, nhóc cũng lại ăn một miếng đi.”
Hoàng Khắc Vũ lắc đầu hỏi, “Quân đoàn trưởng, liệu chúng có đến không?”
Tôn Điện Anh gặm thêm miếng nữa, “Chính chú mày nói hôm nay Vương Thiệu Nghĩa sẽ kéo quân đến khe Mã Lan đấy chứ, ta có nói đâu. Chú mày cũng thấy đấy, chúng ta đã lấy cớ tập trận ở gần đây, quây một khu quân sự, đuổi hết dân chúng đi rồi. Giờ mọi sự đã sẵn sàng, chỉ đợi gió Đông. Xem cậu em kết nghĩa của ta có lừa nổi lão già kia tới đây không nào.” Nói đoạn hắn lại í a hát một đoạn trong vở Mượn gió Đông*.
❖ Ý nói tới chuyện Gia cát Lượng mượn gió Đông để đốt chiến thuyền quân Tào Tháo trong trận Xích Bích.
Hoàng Khắc Vũ vẫn chưa hết lo, “Chú Thành vẫn ở chỗ chúng, lát nữa đánh nhau liệu chú ấy có bị thương không?”
Tôn Điện Anh đáp, “Súng đạn không có mắt, không nói chắc được đâu.” Hoàng Khắc Vũ nghe vậy thì cuống lên đòi xuống núi. Tôn Điện Anh cũng chẳng ngăn cản, “Này nhóc, ta bảo nhé, đánh trận không phải chuyện đùa đâu. Nhóc tưởng nhóc là La Thành hay Lý Nguyên Bá*?”
❖ Hai dũng tướng trẻ tuổi nổi tiếng thời Đường, được đưa vào truyện Thuyết Đường của Mộng Bình Sơn.
Hoàng Khắc Vũ ôm quyền vái chào, “Cháu đã hứa với chú Thành sẽ bảo vệ chú ấy chu toàn, không thể nuốt lời được.” Dứt lời quay người xuống núi. Tôn Điện Anh cụt hứng, hậm hực vẫy tay gọi Đàm Ôn Giang lại, “Phái mấy đứa đi theo nó. Chú em kết nghĩa của ta cũng thật là, chỉ cứu một người mà bày vẽ thế này, còn bất chấp cả tính mạng dấn thân vào trại giặc, thực chẳng hiểu nghĩ gì trong đầu nữa.”
Đàm Ôn Giang thừa cơ nịnh hót, “Thế chẳng chứng tỏ anh ta nghĩa khí sao, bằng không đời nào ngài lại kết bái với anh ta?” Tôn Điện Anh ném vỏ dưa đi, vỗ đùi đánh đét, “Ấy không phải! Nếu nói nghĩa khí thì vẫn phải là người Hán chúng ta, còn những kẻ khác… có câu gì ấy nhỉ? Khác máu tanh lòng à, hừm…” Hắn thoáng vẻ hậm hực.
Rời khỏi sở chỉ huy, Hoàng Khắc Vũ hối hả chạy xuống núi. Tới chân núi, cậu chợt khựng lại bởi trông thấy mấy chục người lố nhố, già có trẻ có, đều ăn mặc theo lối thời Thanh đứng lấp ló trong khe núi gần đó, bên cạnh còn một đại đội lính đứng canh.
Tuy chưa gặp, nhưng nhìn tướng mạo và cách ăn mặc, Hoàng Khắc Vũ vẫn đoán ra được đó là Dực trưởng A Hòa Hiên, cha của Hải Lan Châu, phụ trách canh giữ lăng mộ.
“Sao họ không ở Đông lăng mà lại đến đây?”
Hoàng Khắc Vũ sinh nghi định lại gần hỏi. Song toán lính kia không cho cậu đến gần, nói rằng đã lấy cớ tập trận, đuổi hết mọi người quanh đây đi, A Hòa Hiên và đội lính gác lăng cũng bị xua đi, song họ không chịu đi xa nên đóng lại trong khe núi này.
“Lạ thật, Dục Phương không báo với họ à?” Hoàng Khắc Vũ ngạc nhiên, nhưng thấy mấy chục người toàn đeo đao Mông cổ, chẳng có lấy một khẩu súng, dù có chuẩn bị trước cũng chẳng ích gì. Hoàng Khắc Vũ đang vội ra tuyến đầu, chẳng còn tâm trí đâu lo cho họ, bèn quay đầu đi thẳng.
Dưới sự chỉ dẫn của vệ binh Tôn Điện Anh, Hoàng Khắc Vũ đã tới được tuyến đầu trận địa phục kích. Nơi này có một dải núi gấp khúc nhô lên như một tấm chắn, tiện ẩn nấp. Bên dưới nếp gấp lại là một con đường lớn thông thẳng đến ải Mã Lan. Hoàng Khắc Vũ khom lưng ngồi xuống một chỗ khuất, nhìn chằm chằm về phía xa. Tuy mây đen vần vũ nhưng không ảnh hưởng tới tầm nhìn, xa xa đã thấy bụi mù cuộn lên, tựa hồ có đại quân kéo đến. Vệ binh còn cho cậu một khẩu pạc hoọc nhưng Hoàng Khắc Vũ xua tay từ chối, cậu chưa bao giờ dùng súng, bởi tin vào hai nắm đấm của mình hơn.
Hoàng Khắc Vũ hít sâu một hơi, tim đập dồn dập. Cậu đặt tay lên ngực, cố lấy lại bình tĩnh.
Chờ đợi rất dễ khiến người ta trầm tư. Cánh quân của Vương Thiệu Nghĩa còn chưa đến, Hoàng Khắc Vũ ngồi đợi mãi, bắt đầu miên man suy nghĩ.
Trước thành Bình An, cậu đã cãi nhau rất găng với Phó Quý, đến giờ vẫn không thấy mình sai. Phó Quý chỉ là một cảnh sát thô lỗ, trong khi cậu là người yêu cổ vật đến si mê. Câu nói “Một nước hưng suy cũng chỉ vỏn vẹn mấy chục đến mấy trăm năm, trong khi một món cổ vật lại tồn tại cả mấy nghìn năm” của Kido Yuzo đã chạm đến đáy lòng cậu. Tại sao nỡ để bấy nhiêu báu vật người xưa lưu lại bị hủy hoại trong khói lửa thời loạn mà không đưa nó ra nước ngoài bảo tồn?
Nghĩ tới đây, Hoàng Khắc Vũ nhíu mày. Cậu chỉ e ngại một điều duy nhất là thái độ của chú Thành thôi.
Khác với Lưu Nhất Minh, Hoàng Khắc Vũ không khăng khăng muốn Hứa Nhất Thành lên làm chưởng môn. Cậu ngưỡng mộ chú Thành, đi theo chú là bởi chú trân trọng cổ vật từ tận đáy lòng, đó là thứ tình cảm thuần túy, không bợn mảy may lợi ích. Hoàng Khắc Vũ cảm thấy mình rất muốn trở thành người như chú, có chú Thành làm gương, cậu cũng muốn đi học ngành khảo cổ.
Lúc rời thành Bình An lần trước, cậu đã khéo léo bày tỏ cách nghĩ của mình, song lại bị Hứa Nhất Thành phê bình. Điều này khiến Hoàng Khắc Vũ chột dạ, chẳng biết suy nghĩ của mình đúng hay sai nữa.
Bất luận thế nào cũng phải bảo vệ được chú ấy đã. Hoàng Khắc Vũ cố gạt những suy nghĩ ấy ra khỏi tâm trí, ngẩng lên nhìn về phía xa, thấy quân Vương Thiệu Nghĩa đã đến gần.
Cậu không biết rằng, cùng lúc ấy, một đôi mắt khác cũng đang dõi theo toán quân kia.
Phó Quý vạch bụi cỏ ra, vẻ mặt vẫn lạnh như thường ngày. Trời nóng hầm hập song trán anh ta không có một giọt mồ hôi, tựa hồ cả người vẫn ở trạng thái lạnh băng.
Mục tiêu của anh ta là tốp lính trước mắt, chính xác ra là ông lão đi giữa tốp lính ấy.
Ông lão đầu tóc bạc phơ, lưng còng gập, dáng đi liêu xiêu. Cánh tay lão chỉ đung đưa được rất khẽ, còn cả bờ vai cứng đờ, người biết chuyện nhìn qua sẽ thấy ngay đó là vết thương do hồi trẻ bị đá đè. Bên cạnh lão có bảy tám tên lính đầu đội mũ phớt, lăm lăm súng lục quân dụng. Chúng hẳn là người Vương Thiệu Nghĩa phái đi đón thợ đá họ Khương. Có lẽ cũng biết giá trị của ông lão nên chúng đối với lão khá lễ độ, nhưng không thể coi là cung kính, dọc đường cứ xô đẩy giục lão đi nhanh. Ông lão chẳng có sức phản kháng, đành mặc cho chúng sai phái.
Sau khi rời thành Bình An, Phó Quý đến thẳng làng Lưu, chẳng bao lâu đã tìm được nhà thợ đá họ Khương. Người của Vương Thiệu Nghĩa đã đến trước, ở ngay trong nhà lão, canh chừng suốt mười hai canh giờ, lúc ngủ còn buộc cả dây vào chân lão, sợ lão bỏ trốn. Người thợ đá năm xưa may mắn thoát chết, cứ ngỡ từ nay chẳng liên quan gì tới Đông lăng nữa, ngờ đâu đến năm bảy mươi tuổi lại dính phải chuyện này, thực đáng thương.
Binh lính kéo vào ở trong nhà thợ đá họ Khương, dĩ nhiên phải đuổi hết người nhà đi, họ tức giận nhưng không dám nói. Vợ chồng con trai út ông lão tạm thời ở nhờ một nhà đầu làng. Phó Quý chẳng mấy chốc đã lần ra bọn họ, chỉ cần ném ra mấy đồng đại dương sáng bóng, anh ta đã trở thành cháu họ xa đằng ngoại của nhà họ Khương.
Toán lính chỉ nhốt ông lão trong nhà, chứ không ngăn trở sinh hoạt của người nhà họ Khương. Thế nên đứa cháu họ xa đằng ngoại nọ bèn xách cút rượu trắng và một xâu cá khô tới thăm lão. Lão Khương già cả lẫn cẫn, quên mất họ hàng cũng chẳng lấy gì làm lạ, được con trai út nhắc nhở, hình như lão đã láng máng nhớ ra. Cậu cháu họ thỉnh thoảng lại tới thăm, hôm nay mang ít đồ ăn, mai biếu thớt vải, trò chuyện rôm rả với ông lão, về sau chẳng biết xảy ra chuyện gì mà hai người lại quay ra cãi nhau dữ dội. Cậu cháu đùng đùng bỏ đi, từ bấy không đến nữa.
Sau đó nhận được lệnh của Vương Thiệu Nghĩa, toán lính xua hết người nhà họ Khương đi, “hộ tống” thợ đá họ Khương đến khe Mã Lan. Trước lúc đi, sợ ông lão sức yếu không trụ nổi, chúng còn ép lão làm hai hơi thuốc phiện.
Chúng vừa rời làng Lưu, Phó Quý đã bám theo sau.
Mọi việc đã sắp xếp đâu vào đó, chỉ đợi thời cơ thích hợp để ra tay. Không thể ra tay quá sớm kẻo Vương Thiệu Nghĩa phát hiện được sẽ không sa bẫy. Cũng không thể quá muộn, để lão được đưa đến chỗ cánh quân chủ lực của Vương Thiệu Nghĩa thì không kịp ra tay nữa.
Thực ra nếu bất chấp mạng sống của ông lão thì chẳng cần phiền phức như vậy. Chỉ cần Vương Thiệu Nghĩa sa bẫy thì việc sống chết của ông lão thợ đá còn quan trọng gì nữa. Về điểm này, Phó Quý cũng đồng tình với Hải Lan Châu. Chỉ có người như Hứa Nhất Thành mới vẽ rắn thêm chân, dặn đi dặn lại rằng phải lo bảo vệ lão Khương chu toàn.
Nhưng Hứa Nhất Thành đã dặn, thì nhất định phải làm.
Phó Quý chẳng có nhiều lời để nói, cũng chẳng nghĩ ngợi gì nhiều. Giờ anh ta đã tiến vào trạng thái chiến đấu, cơ bắp săn lại, nhịp thở được điều chỉnh đến mức tối ưu, sát khí đang từ từ tỏa ra, song tâm trí lại lạnh như băng.
Khi lão Khương đi đến một vị trí nhất định, anh sẽ xông ra giết sạch toán lính kia, cứu lấy ông ta. Hiện giờ trong đầu Phó Quý chỉ có duy nhất ý nghĩ này.
Trái với Phó Quý, tâm trí Lưu Nhất Minh lúc này lại ngổn ngang muôn vàn ý nghĩ. Nhưng cậu chẳng còn bụng dạ nào để ý tới nữa.
Lưu Nhất Minh đang cưỡi trên một con ngựa cao màu xám tro, Dược Lai ngồi sau ôm cứng lưng cậu kêu oai oái, song cậu dường như không nghe thấy, cứ liều mạng ra roi thúc ngựa phi điên cuồng, nhằm thẳng hướng khe Mã Lan. Cậu vốn nho nhã yếu ớt, không giỏi cưỡi ngựa, vậy mà lúc này lại như được Quan Công nhập thể, cưỡi ngựa thuần thục như nước chảy mây trôi.
Lúc thúc ngựa phi nhanh rất kỵ nói chuyện, vì trên lưng ngựa xóc nẩy, dễ cắn phải lưỡi. Nhưng Lưu Nhất Minh bất chấp, cứ lẩm bẩm mãi một câu, Dược Lai nghe loáng thoáng hình như là, “Nhanh lên, nhanh nữa lên, kẻo không kịp mất.”
Vậy là, dưới nền trời âm dương đầu tháng Bảy, mỗi người ôm một tâm trạng, một mục đích khác nhau, cùng kéo đến mảnh đất đầy thị phi là Đông lăng.
Tiếng súng đầu tiên vang lên từ toán quân của Vương Thiệu Nghĩa.
Toán thổ phỉ nọ đã đến gần ải Mã Lan, quân sĩ có phần mỏi mệt vì hành quân khẩn cấp, đội ngũ kéo ra dài dằng dặc, tốp dẫn đầu đã băng qua tấm bia cổ trước ải mà đám khóa đuôi vẫn đang ở bìa cánh rừng ngoài khe núi. Vương Thiệu Nghĩa tính thời gian thấy toán lính hộ tống lão thợ đá cũng sắp đến bèn lệnh cho cả đội dừng lại nghỉ ngơi, đợi thợ đá Khương đến hội hợp.
Chợt một tên lính đi mãi mệt phờ, ngẩng đầu lên thấy con chim khách béo mập từ trong rừng là là bay ra thì không khỏi ngứa tay. Gã vốn là tay thiện xạ, bèn gỡ súng khỏi vai, kéo chốt, nhắm bắn lên trời.
Quân Vương Thiệu Nghĩa kỷ luật rất lỏng lẻo, chẳng ai cấm không được tùy tiện bắn súng trên đường hành quân. Gã thiện xạ bắn một phát, chim khách rơi xuống, đám đồng đội xung quanh tức thì ồ lên thán phục.
Nhưng đội ngũ của chúng trải quá dài, phía sau nổ súng, phía trước không hề biết là bắn chim. Thình lình nghe thấy tiếng súng, toán lính đi trước giật bắn mình, vô thức siết chặt vũ khí trong tay, rụt cổ lại dáo dác nhìn quanh, cứ ngỡ hai bên khe núi có người mai phục.
Lính của Tôn Điện Anh mai phục sẵn cũng đang tập trung tinh thần cao độ. Chợt nghe tiếng súng vang lên, họ cứ ngỡ quân ta đã động thủ, lũ lượt ló đầu ra, vừa hay bị quân Vương Thiệu Nghĩa trông thấy.
Hai bên lặng đi, rồi lũ lượt nổ súng trong sự ngỡ ngàng và bất ngờ. Cuộc phục kích được sắp đặt kỳ công đã bắt đầu bởi một hiểu lầm tức cười như vậy.
Tiếng súng vang vọng bốn bề, đạn bay chiu chíu, biển lửa bùng lên ngay trước ải Mã Lan.
Quân Tôn Điện Anh đã có chuẩn bị sẵn, vũ khí hiện đại lại tấn công từ trên xuống nên vừa khai chiến đã nhanh chóng chiếm được ưu thế, dồn ép quân Vương Thiệu Nghĩa, khiến chúng tử thương liên tiếp, kêu la rên rỉ không ngừng. Nhiều tên vừa rút được súng ra đã bị đạn từ hai phía đồng thời bắn xuyên qua người, giữ nguyên tư thế ngã gục xuống đất; có tên phản ứng nhanh, ôm đầu nằm lăn ra đất giả chết, tiếc rằng quân Tôn Điện Anh chẳng buồn ngắm mà cứ bắn ra như vãi đạn tạo thành lưới lửa, không phân biệt sống chết; có kẻ xui xẻo đã chết rồi mà vẫn trúng đạn, giật bắn lên từng hồi như quỷ nhập tràng.
Có điều vì đội ngũ kéo dãn quá dài nên chỉ nửa cánh quân đi trước rơi vào vòng vây phục kích, nửa cánh quân phía sau vẫn bình yên vô sự. Đám thổ phỉ này dù sao cũng từng giao tranh chính diện với quân Phụng Thiên, sau phút hoảng loạn ban đầu, chúng nhanh chóng phản kích bài bản.
Vương Thiệu Nghĩa đi phía sau nên không rơi vào vòng phục kích. Vừa nghe tiếng súng, lão đã nhanh nhẹn nhảy xuống ngựa, rút súng ra, nhìn lên núi Phủ Quân, mặt sa sầm u ám như cương thi mới bò dưới mồ lên. Theo dự liệu của Vương Thiệu Nghĩa, chúng cùng lắm sẽ chỉ gặp phải mấy chục tên lính của A Hòa Hiên, nhưng nhìn mật độ xạ kích, nhịp tấn công và cách mai phục bài bản thế này, hẳn là một đội quân chuyên nghiệp.
Mà gần đây chỉ có quân đoàn 12 của Tôn Điện Anh.
Ông mày có bao giờ trêu vào chúng đâu? Vương Thiệu Nghĩa lấy làm nghi hoặc. Nhưng lúc này đang ở giữa chiến trường, chẳng hơi đâu tìm hiểu căn nguyên, lão vung súng lục, cao giọng hò hét trấn áp tinh thần đám lính xung quanh hòng khôi phục lại trật tự.
Vương Thiệu Nghĩa định tổ chức hai đội cảm tử vòng ra hai bên sườn núi đánh vào sau lưng toán quân mai phục. Đám thổ phỉ khó khăn lắm mới tập trung lại được, la oai oái leo lên triền núi dưới sự dẫn dắt của hai tên đầu lĩnh, nhưng chẳng được mấy chốc, giữa đội ngũ thình lình bùng lên một tiếng nổ vang dội, năm sáu tên lính bị hất tung lên cùng đất đá. Những kẻ còn lại cuống cuồng ôm đầu chạy ngược về, ngờ đâu hỏa lực đã đuổi sát sau lưng, nhắm bắn chuẩn xác vào giữa đám tàn quân.
Pháo 41* ư?
❖ Một loại pháo do bộ binh Nhật chế tạo vào đầu thế kỷ XX. Do được chế tạo vào năm Minh Trị thứ bốn mươi mốt (1908) nên gọi là pháo 41.
Khóe môi Vương Thiệu Nghĩa giần giật. Tôn Điện Anh mang theo cả thứ này? Xem ra đây không phải một cuộc chiến tình cờ, chúng đã có chuẩn bị sẵn sàng, chỉ chờ ông đây đưa đầu vào tròng!
Tiếng pháo đùng đoàng bắn vỡ mật đám thổ phỉ. Giao chiến trực diện trên chiến trường với quân Phụng Thiên, chúng có thể dũng mãnh không màng cái chết. Nhưng hôm nay chúng xuất quân mục đích là tới Đông lăng đánh quả, giờ lại gặp phải phục kích, tâm lý khó tránh hụt hẫng, sĩ khí tức thì tan tác. Chẳng qua sợ tiếng Gia Cát ác nên phần lớn quân sĩ tạm thời không dám bỏ chạy, nhưng tên nào tên nấy nhớn nhác ra mặt, phủ phục hoặc quỳ một chân dưới đất, co người lại, vừa như để tránh đạn, lại vừa như cố xoa dịu nỗi kinh hoàng đang dâng trào.
Gia Cát ác biết, một khi ánh mắt quân lính nhớn nhác như thế, thì chẳng mấy mà sụp đổ. Lão nhìn đội quân đi trước thương vong nặng nề và đội quân phía sau sĩ khí tan tác, lòng đầy căm phẫn. Nhìn quanh một vòng, cuối cùng ánh mắt lão dừng ở một cỗ xe ngựa.
Hứa Nhất Thành vẫn đang ôm Hải Lan Châu nấp dưới gầm xe, giữa hai bánh. Vương Thiệu Nghĩa sực nhớ ra ban nãy vừa nghe tiếng súng, Hứa Nhất Thành lập tức kéo Hải Lan Châu lăn xuống dưới gầm xe. Phản ứng của y phải nói là nhanh nhẹn, có điều hơi quá nhanh.
Người bình thường gặp chuyện này lẽ ra phải ngây người kinh ngạc, dáo dác tìm xem tiếng súng phát ra từ đâu, ước chừng mức độ nguy hiểm xung quanh rồi mới tìm chỗ trốn. Vậy mà Hứa Nhất Thành vừa nghe tiếng súng đã nấp ngay xuống dưới gầm xe, chứng tỏ y đã biết trước nơi này có phục kích.
Chưa chừng đây chính là cái bẫy tên khốn này giăng ra, ngay từ đầu y đã không chịu yên phận.
Nghĩ đến đó, sát khí bùng lên trong mắt Vương Thiệu Nghĩa, Gia Cát ác như lão đã bao giờ bị đùa cợt thế này đâu. Máu hung tàn nổi lên, Vương Thiệu Nghĩa nghiến răng, vung khẩu súng trong tay. Dù có chết thêm mấy thằng nữa, cũng phải lấy mạng hai đứa chó má kia. Không, không thể lấy mạng ngay được, phải bắt sống đem về, khiến bọn chúng sống không bằng chết!
Đạn vẫn bay vun vút trên chiến trường, hỏa lực của Tôn Điện Anh đang lan tới, xác chết ngổn ngang trước ải Mã Lan. Song Vương Thiệu Nghĩa bất chấp tất cả, sải bước đi thẳng về phía xe ngựa. Hứa Nhất Thành vừa ngẩng lên, thấy ánh mắt lão đằng đằng sát khí thì biết Gia Cát ác đã phát hiện ra chân tướng. Một kẻ luôn tự xưng là “Gia Cát” nay lại bị lừa một vố đau, giờ chỉ còn lại cái ác.
“Lát nữa cô chạy trước nhé, để tôi nghĩ cách ngăn lão ta.” Hứa Nhất Thành bảo Hải Lan Châu. Song cô lắc đầu, “Muốn đi thì cả hai cùng đi.”
“Lão hận nhất là tôi, để tôi ở lại, sẽ không ai đuổi theo cô đâu.”
“Em không để anh làm chuyện ngu ngốc đâu.” Hải Lan Châu ghì chặt tay y.
Vương Thiệu Nghĩa cười hung tợn, “Hai vị vẫn quấn quýt quá nhỉ.” Đoạn lão chậm rãi giơ súng lên.
Đúng lúc này, thân thể Hứa Nhất Thành nhoáng động. Vừa rồi y đã điều chỉnh tư thế, người hơi đổ về phía trước, chân phải co lại như lò xo. Vương Thiệu Nghĩa vừa giơ súng lên, y đã đạp chân phải, bật người lao thẳng vào lão. Hiện giờ chỉ có duy nhất một cách là khống chế Vương Thiệu Nghĩa, cố chờ đến khi quân Tôn Điện Anh đánh tới mới giữ được mạng sống.
Nhưng Hứa Nhất Thành không ngờ y đã nhanh, có người còn nhanh hơn.
Một bóng người nhỏ nhắn lướt qua Hứa Nhất Thành, xô thẳng vào bụng Vương Thiệu Nghĩa. Vương Thiệu Nghĩa chỉ mải nhìn Hứa Nhất Thành, không ngờ Hải Lan Châu lại thình lình vùng dậy, hơn nữa còn nhanh hơn cả Hứa Nhất Thành, lão lập tức bị cô xô lùi mấy bước, suýt rơi cả súng.
“Hai đứa chúng mày giỏi lắm!” Vương Thiệu Nghĩa bật cười giận dữ. Nhìn nhầm Hứa Nhất Thành đã đành, còn nhìn nhầm luôn con ả này. Song Hải Lan Châu không buồn trả lời mà lao vào đánh xáp lá cà với lão, khiến lão không có cơ hội nổ súng.
Đám thổ phỉ xung quanh thấy thủ lĩnh bị đánh cũng dần lấy lại dũng khí, hò hét lao tới. Đúng lúc này một người từ hướng chênh chếch thình lình nhảy ra, ra đòn mạnh mẽ dứt khoát, hạ gục liền ba bốn tên thổ phỉ rồi chắn trước mặt Hứa Nhất Thành.
“Khắc Vũ?” Hứa Nhất Thành kinh ngạc thốt lên.
Người vừa đến chính là Hoàng Khắc Vũ. Trận phục kích vừa nổ ra, cậu đã từ khe núi nhảy ra, băng qua lửa đạn đột nhập vào hàng ngũ quân địch. Đám thổ phỉ bị đánh úp bất ngờ, tức thì rối cả lên, không ai để ý tới cậu. Hoàng Khắc Vũ vừa xông xáo ngang dọc giữa chiến trường vừa tìm tung tích Hứa Nhất Thành. Lúc Hải Lan Châu lao ra, cậu cũng vừa đuổi đến, thấy Hứa Nhất Thành bị vây đánh liền nhào vào ra tay luôn.
“Tôn Điện Anh nói quân chủ lực của ông ấy đang vòng ra sau, chỉ lát nữa thôi sẽ đem chúng đi gói sủi cảo.” Hoàng Khắc Vũ hào hứng la lên bảo y.
Hứa Nhất Thành chẳng rõ cậu nói thực hay cố tình hư trương thanh thế, song đám thổ phỉ xung quanh nghe vậy thì sĩ khí lung lay dữ dội. Vương Thiệu Nghĩa vốn đang đấu với Hải Lan Châu cũng có ý thoái lui. Báo thù dĩ nhiên quan trọng nhưng tính mạng còn quan trọng hơn.
Hải Lan Châu bỗng lùi lại mấy bước, hai người thuận thế tách ra. Hoàng Khắc Vũ thừa cơ tung người nhảy lên xe ngựa giật lấy dây cương hô lớn, “Lên xe!” Hải Lan Châu và Hứa Nhất Thành rất ăn ý, nhất loạt leo lên. Hoàng Khắc Vũ tiện tay nhặt một thanh chủy thủ đâm thẳng vào mông ngựa, thớt ngựa hí lên thảm thiết rồi chạy vụt đi, kéo theo cả cỗ xe.
Vương Thiệu Nghĩa bấy giờ mới nhận ra mình lại bị lừa. Lão tức điên người, giơ súng kéo cò bắn liền mấy phát, đạn bay sượt qua đầu ba người, nguy hiểm vô cùng. Xe ngựa vẫn lao đi, xô dạt đám thổ phỉ phía sau, chạy thẳng ra đường cái. Vương Thiệu Nghĩa bèn quát đám phỉ xung quanh mau nổ súng, quyết không để lũ khốn kia chạy mất. Mấy tên thổ phỉ run rẩy đứng thẳng dậy, vừa định nhắm bắn đã kêu rú lên, ngã ra đất. Sau lưng chúng, tiếng súng mỗi lúc một vang dội. Quân Tôn Điện Anh đã tràn đến. Đám thổ phỉ này vốn không hề có quyết tâm chống cự, thấy anh em chết như ngả rạ, chúng cũng suy sụp tinh thần, cắm đầu bỏ chạy tan tác. Tuy quân Tôn Điện Anh chẳng lấy gì làm tinh nhuệ nhưng đằng nào cũng từng ra chiến trường, lũ lượt tràn xuống thế như chẻ tre, đua nhau cướp đoạt của cải trên thi thể. Hiện trường rối loạn cả lên.
Thấy xe ngựa đã chạy xa, Vương Thiệu Nghĩa tự biết không thể cứu vãn nổi tình thế, đành nghiến răng ra lệnh lui quân. Lão chẳng lo nổi cho toán quân đi trước nữa, phải giữ mạng mình cái đã.
Đúng lúc này một tên lính truyền tin vừa khóc vừa la từ phía sau chạy đến, luôn miệng hét toáng lên hỏng rồi, hỏng rồi. Vương Thiệu Nghĩa hỏi ra mới biết thành Bình An đã bị quân Tôn Điện Anh công phá, Mã Phúc Điền trấn thủ trong thành bị giết. Vương Thiệu Nghĩa thấy trước mắt tối sầm, nghiến răng nghiến lợi chửi Tôn Điện Anh độc ác. Định thần lại, lão tuyên bố không rút lui nữa, mau chạy!
Vương Thiệu Nghĩa làm phỉ đã quen, thất bại lần này tuy nặng nề nhưng cùng lắm là quay lại đường cũ. Chỉ có điều lão nghĩ mãi không ra, Hứa Nhất Thành rốt cuộc có thù oán gì mà phải bày mưu tính kế hại lão đến nước này.
Được thầu bán tất cả cổ vật Đông lăng, hời biết là bao! Lão còn đứng ra làm mối tác hợp cho y với con ả Hải Lan Châu xinh đẹp như hoa kia nữa! Sao y lại giăng bẫy hại mình? Vừa chạy lão vừa căm uất nhìn về phía cỗ xe ngựa đang đi xa dần, ngoài phẫn nộ, còn thoáng mấy phần ấm ức.
Ngoái đầu lại, Vương Thiệu Nghĩa trông thấy bức tường thành sừng sững trước ải Mã Lan, qua khỏi bức tường này là Đông lăng, là vinh hoa phú quý hưởng không hết. Gần trong gang tấc, mà cách tận chân trời.
Mẹ kiếp, sớm muộn cũng sẽ có ngày ông quay lại! Lão nhủ bụng.
Từ xa, nghe thấy tiếng súng bắn như vãi đạn, Phó Quý biết Tôn Điện Anh đã động thủ.
Cách đó không xa, tám tên lính hộ tống lão thợ đá họ Khương cũng nghe thấy. Chúng ngơ ngác nhìn nhau, chẳng hiểu đầu đuôi thế nào. Bọn chúng được lệnh đưa lão già tới trước khe Mã Lan, nhưng không biết nếu giao chiến thì phải làm sao. Cuối cùng cả bọn dừng lại, xúm xít bàn bạc xem nên phái người đi trước dò xét thực hư hay cứ theo đúng kế hoạch mà tới.
Phó Quý vạch đám lá cây, rón rén lại gần. Tới một khoảng cách nhất định, anh thình lình xông ra quát lớn, “Lão Khương kia, đi chết đi!”
Mấy tên hộ vệ thấy một người bỗng dưng từ bụi cây xông ra, quát tháo đòi giết thợ đá họ Khương. Định thần nhìn kỹ chúng mới nhận ra là tên cháu họ đằng ngoại, có lẽ vẫn ôm hận từ lần cãi vã trước nên tìm tới báo thù chăng?
Đám hộ vệ căng thẳng tụ lại xung quanh lão Khương, toan bảo vệ ông ta khỏi bị một tên không đâu đả thương. Lão Khương nghe tiếng quát tức thì ngã lăn ra đất.
Phó Quý rút sau lưng ra một cây súng hoa cải, “đoàng” một tiếng, một nắm bi sắt vãi xuống đám lính.
Phó Quý mua được thứ này trong làng, tuy thô sơ, độ chính xác thấp, tầm bắn ngắn, nhưng nếu trúng ở cự ly gần thì lợn rừng cũng không chịu nổi. Tám tên lính xúm lại một chỗ, chỉ trong nháy mắt đã bị bi sắt bắn trúng. Tuy không trí mạng nhưng loại đạn bi này bắn vào người sẽ khiến người ta đau đến mức mất khả năng phản kích trong nháy mắt.
Nhân lúc đám hộ vệ đang đau đớn không kịp phản ứng, Phó Quý ném ngay cây súng đi, rút súng lục của mình ra. Đây là một khẩu Mauser C96 bản giới hạn, ổ đạn hai mươi viên, anh ta tự sắm riêng. Súng đã nhồi đầy đạn, Phó Quý sải bước đi đến, giơ súng bắn liên tiếp, phát nào phát nấy đều trúng đầu, mỗi phát một mạng. Chỉ mười mấy giây, tám tên hộ vệ đều đã ngã gục dưới đất, đầu thủng một lỗ, máu chảy lênh láng.
Thấy cảnh tượng ấy, thợ đá họ Khương nằm phủ phục dưới đất run bắn lên. Lúc trước đứa “cháu họ” này đã nói sẽ cứu ông ta khỏi tay bọn thổ phỉ, chỉ cần hai người phối hợp diễn một vở kịch, rồi dặn rằng bất luận đi đến đâu, chỉ cần nghe thấy câu quát “Lão Khương kia, đi chết đi!” thì phải lập tức nằm xuống. Song ông ta không ngờ “cháu họ” lại tàn nhẫn như vậy, chỉ trong nháy mắt đã lấy mạng tám người.
Phó Quý kiểm tra các thi thể một lượt, xác định chúng đã chết cả mới cúi xuống kéo thợ đá họ Khương dậy.
“Theo tôi.”
Thợ đá họ Khương ngẩng lên, cặp mắt đục đầy vẻ kinh hoàng. Phó Quý ngỡ ông ta vẫn chưa hết sợ, định giơ tay kéo dậy lần nữa. Nào ngờ thợ đá họ Khương run rẩy giơ tay chỉ ra sau lưng Phó Quý.
Liền sau đó, Phó Quý thấy gáy mình bị một vật nặng đập mạnh, mắt tối sầm lại, ngất lịm đi…
Hoàng Khắc Vũ ra roi thúc ngựa chạy như điên trên đường. Dọc đường thỉnh thoảng vẫn gặp vài ba tên lính lẻ tẻ, có điều bọn chúng hoặc đã sợ vỡ mật, chẳng hơi đâu để ý tới họ, hoặc ngỡ rằng người trên xe cũng chạy từ tuyến đầu ra, tóm lại xe ngựa chạy băng băng không bị ai cản trở.
Hứa Nhất Thành và Hải Lan Châu ngồi trong thùng xe, mồ hôi đầm đìa, thở không ra hơi. Chạy thoát khỏi tay Gia Cát ác cũng coi như một kỳ tích đáng nể rồi.
Đầu Hứa Nhất Thành bị đạn sượt qua, chỉ sây sát ngoài da, nhưng máu đã chảy ướt sũng nửa đầu, nhìn rất đáng sợ. Hải Lan Châu rút từ thắt lưng ra một mảnh vải định lau cho y, song Hứa Nhất Thành xua tay, lấy chiếc khăn tay trắng muốt trong túi ngực ra bịt vết thương lại. Chẳng mấy chốc mảnh khăn trắng đã loang đỏ máu.
“Cô giỏi võ thật đấy.” Hứa Nhất Thành cười bảo Hải Lan Châu. Cô nghe ra thái độ nghi ngờ thoáng qua trong giọng y, bèn cười đáp, “Tông thất huấn luyện tôi như thế mà.”
“Sao họ lại huấn luyện cô như vậy?”
“Vì sợ hãi.” Hải Lan Châu đáp, “Từ sau khi Phổ Nghi thoái vị, tông thất luôn sống trong sợ hãi, ba trăm năm áo gấm cơm vàng đã khiến bọn họ trở nên ngu ngốc và kiêu ngạo. Khi đánh mất tất cả, họ mới nhận ra mình không thể sống như người bình thường được nữa, rơi vào khủng hoảng nặng nề, không có cảm giác an toàn.”
Hứa Nhất Thành tinh ý phát hiện cô chỉ gọi là Phổ Nghi, không gọi hoàng thượng.
Hải Lan Châu nói, “Thế nên con cháu tông thất như tôi đều được đưa ra nước ngoài huấn luyện đặc biệt, bởi đám người Bát Kỳ trong nước đã thối nát cực độ, không trông hòng gì được.”
“Trông hòng cái gì? Lẽ nào còn muốn tạo ra một Trương Huân thứ hai?” Hứa Nhất Thành hỏi.
“Làm gì có chuyện.” Hải Lan Châu khẽ cười, “Họ luôn sợ hãi, sợ bị tấn công, bị báo thù, nên muốn tăng thêm năng lực phòng thân mà thôi.”
“Nếu họ không xác định được chỗ đứng của mình, không thể chấp nhận thân phận một người dân thường ở Trung Hoa dân quốc thì có xảy ra chuyện cũng đáng đời.”
“Ái chà, nói ra thì họ rất hài lòng khi thấy anh dốc sức bảo vệ Đông lăng đấy. Tôi nghĩ dù giờ anh có cầu hôn, họ cũng vui vẻ nhận lời.” Hải Lan Châu đánh bạo nhìn y, song Hứa Nhất Thành nhìn lảng đi, “Mọi việc tôi làm chẳng liên quan gì tới tông thất cả. Chỉ là không muốn để đám trộm mộ diễu võ dương oai, làm tổn hại đến nền tảng văn hóa nước ta mà thôi.”
“Chỉ thế thôi ư?”
Hứa Nhất Thành không đáp, mà đột ngột đứng dậy trỏ về một phía bảo Hoàng Khắc Vũ, “Người kia là Nhất Minh à?”
Hoàng Khắc Vũ tinh mắt, mở to mắt nhìn, quả nhiên thấy kẻ ngồi trên ngựa là Lưu Nhất Minh, đằng sau còn có cả Dược Lai, đang phi như bay về phía này, cậu liền vẫy tay gọi rối rít. Nghe tiếng gọi, Lưu Nhất Minh vội quay đầu ngựa chạy đến trước xe. Con ngựa mồ hôi như suối, vừa dừng lại đã khuỵu xuống đất, miệng phì bọt trắng.
Lưu Nhất Minh và Dược Lai loạng choạng leo xuống, thấy Hứa Nhất Thành đầu đầy máu thì giật bắn mình.
Hứa Nhất Thành vội trấn an, “Không sao đâu, bị thương ngoài da thôi. Quân Vương Thiệu Nghĩa đã bị đánh tan, bọn chú cũng vừa từ trong đám loạn quân chạy ra, mọi việc kết thúc rồi.”
Lưu Nhất Minh thở hồng hộc đáp, “Không, chưa kết thúc đâu!”
“Hở?” Hứa Nhất Thành ngẩn người. Hải Lan Châu và Hoàng Khắc Vũ cũng chạy lại.
Thấy Lưu Nhất Minh đưa mắt ra hiệu, Dược Lai vội móc trong túi ngực ra một hộp thuốc phiện, “Chứ biết thuốc này của ai không? Tôn Điện Anh đấy!”
“Cái đó chú biết. Hắn ta có hút, còn sai Đàm Ôn Giang đưa mấy xe đến Bắc Kinh.”
“Thế chú có biết hắn không chỉ bán mà còn sản xuất thuốc phiện không? Nhãn hiệu Chim Ưng này vốn là của Tôn Điện Anh!” Dược Lai nói, “Ban đầu nó được gọi là Điện Ưng*, về sau mới đổi tên.”
❖ Trong tiếng Trung, Điện Ưng và Điện Anh đồng âm với nhau.
Dược Lai dù sao cũng từng hút xách nên chỉ cần đi hỏi han vài câu là biết ngay. Nghe vậy, Hứa Nhất Thành hít vào một hơi. Sản xuất và buôn bán thuốc phiện là hai khái niệm khác nhau, chi phí sản xuất thuốc rất thấp, chủ yếu chỉ tốn tiền vận chuyển, nếu một người vừa nắm được đầu mối sản xuất, lại có quân đội để bán thì lợi nhuận quả là khủng khiếp. Thực không ngờ trong tay Tôn Điện Anh còn một cây rung tiền như vậy, thảo nào thỏa sức gió chiều nào xoay chiều ấy, đứng vững giữa thế cục rối ren.
Dược Lai ngượng nghịu gãi đầu, “Chú có nhớ Kim Đan không, loại cháu hút lần cuối ấy?”
Hứa Nhất Thành gật đầu.
Dược Lai kể, “Nhà máy của người Nhật ở Đại Liên vẫn luôn bán phá giá Kim Đan cho Hoa Bắc. Giá Kim Đan sắp bằng với Chim Ưng rồi. Kim Đan hút ngon hơn hẳn, giá lại xấp xỉ…” Lưu Nhất Minh tiếp lời, “Hơn nữa kẻ đầu têu việc này chính là công ty cổ phần Serizawa có quan hệ mật thiết với Đoàn khảo sát phong tục China.”
Hứa Nhất Thành biến sắc. Y đã nghe ra ý Lưu Nhất Minh. Bán phá giá Kim Đan sẽ khiến Chim Ưng hoàn toàn bị gạt ra khỏi thị trường. Mất đi Chim Ưng, nguồn tiền quan trọng nhất trong tay Tôn Điện Anh sẽ cạn kiệt.
Lúc còn ở trấn Mã Thiên Kiều, y được biết quân Tôn Điện Anh đã nửa năm không có lương, sắp nổi loạn tới nơi, bằng không Tôn Điện Anh cũng chẳng đi đánh úp Lý Đức Tiêu. Tôn Điện Anh đã quẫn đến nỗi phải đưa hàng tới Bắc Kinh để khơi thông quan hệ, đủ thấy đang bị tồn quá nhiều hàng, chẳng đẩy đi đâu được.
Số thuốc phiện này ở Bắc Kinh cũng chỉ đắp chiếu trong sân văn phòng quân đoàn, chứng tỏ tình hình thị trường đã cạnh tranh vô cùng khốc liệt.
Có thể nói Tôn Điện Anh đã bị chiến lược bán phá giá của người Nhật dồn vào đường cùng.
Chuỗi suy luận ban đầu của Hứa Nhất Thành vẫn thiếu một mắt xích quan trọng, đó là không tìm được chứng cứ Đoàn khảo sát phong tục China ra tay với Đông lăng. Việc này mấy giáo sư trói gà không chặt chẳng thể nào làm được, cần huy động thật nhiều người mới xong. Hứa Nhất Thành tưởng rằng chúng sẽ mượn sức Vương Thiệu Nghĩa, nhưng giờ xem ra chúng lại lựa chọn Tôn Điện Anh.
Công ty Cổ phần Serizawa dùng thuốc phiện làm vũ khí, cắt đứt nguồn tiền của Tôn Điện Anh, sau đó Đoàn khảo sát phong tục China lại tìm tới đề nghị hợp tác, đem lại cho con sói dữ sắp phát điên vì đói ấy một tia hy vọng. Xem ra Sakai Daisuke mấy lần xin gặp Tôn Điện Anh là có dụng ý khác, thảo nào Tôn Điện Anh khó chịu nhưng không dám đuổi gã đi.
Nghĩ đến đó, Hứa Nhất Thành tái mét mặt. Nếu suy đoán của Lưu Nhất Minh là đúng thì tình thế hiện giờ thực nguy như trứng để đầu đẳng. Sau khi Tôn Điện Anh phá tan quân Vương Thiệu Nghĩa, rất có khả năng sẽ bị Sakai Daisuke xúi bẩy đi quật Đông lăng.
Đây mới thực là sóng trước chưa lui, sóng sau đã tới.
“Không sao, vẫn còn cơ hội. Chú đã nhờ Phó Quý đi cứu thợ đá họ Khương rồi. Không có ông ấy dẫn đường, Tôn Điện Anh không thể một chốc một lát mà tìm được lối vào hầm mộ ngay đâu. Giờ Tưởng Giới Thạch và các quan chức cao cấp đang ở Bắc Kinh thị sát, Tôn Điện Anh cũng không dám lần lữa lâu, sợ lại to chuyện…”
“Vậy chúng ta làm sao bây giờ?” Lưu Nhất Minh căng thẳng hỏi.
Hứa Nhất Thành vỗ vai Lưu Nhất Minh, ngẩng đầu nhìn trời, đôi mày vừa rồi giữa lúc ngàn cân treo sợi tóc cũng chưa mảy may lay động, giờ cuối cùng đã nhíu lại.
“Duy Lễ hy sinh cả tính mạng vì việc này, tiếp theo phải trông vào chú thôi.”