Chương 11 Tôn Điện Anh nã pháo vào mộ Từ Hi
Trận phục kích trước ải Mã Lan chỉ kéo dài hơn hai tiếng. Tuy ban đầu xảy ra sự cố ngoài ý muốn, nhưng về tổng thể vẫn thành công, hạ hơn một trăm tên thổ phỉ, phe mình chỉ thương vong mười mấy người. Tôn Điện Anh hết sức hài lòng với kết quả này, tuy để Vương Thiệu Nghĩa trốn thoát nhưng giữa đôi bên không có thù oán gì, cũng không cần thiết phải đuổi cùng giết tận, phá tan quân địch là đủ.
Tôn Điện Anh vui nhất là trận này thu giữ được mười mấy cỗ xe có kèm cả ngựa kéo. Vương Thiệu Nghĩa vốn định dùng chúng để chở châu báu, trừ một chiếc bị Hoàng Khắc Vũ lấy đi, còn lại đều trở thành chiến lợi phẩm của Tôn Điện Anh.
“Chẳng biết chú em kết nghĩa của ta có ân oán thế nào với Vương Thiệu Nghĩa, nhưng coi như lần này ông anh đã thay chú ấy trút giận rồi.” Tôn Điện Anh ngậm điếu thuốc, nhìn đống thi thể ngổn ngang trong khe núi trước quan ải, cảm khái với Đàm Ôn Giang.
“Có người báo đã thấy Hoàng Khắc Vũ đánh một cỗ xe ngựa đưa anh ấy và một cô gái chạy đi rồi.” Đàm Ôn Giang kính cẩn thưa.
“Thế thì tốt, không tổn hại gì là tốt, bằng không trận này phí công ta đóng vai ác.” Tôn Điện Anh ném điếu thuốc xuống đất, di cho tắt, “Truyền lệnh ta, toàn quân tập hợp!”
Đàm Ôn Giang nghe vậy thì sáng mắt lên, vội sai tên liên lạc chạy xuống truyền lệnh. Chẳng mấy chốc mười mấy chiếc kèn hiệu từ khắp nơi đã ngân vang khẩu hiệu tập kết. Trừ mấy chục người đang dọn dẹp chiến trường thu nhặt xác chết ra, tất cả quân lính đều lũ lượt kéo tới tập kết trước ải Mã Lan, xếp thành một đội hình tạm gọi là ngay hàng thẳng lối.
Tôn Điện Anh cầm roi ngựa, chắp tay sau lưng đi lại trước đội ngũ mấy bước rồi cao giọng, “Hôm nay các anh em đánh hay lắm, mọi người vất vả rồi.” Quân lính đồng thanh hô vang, “Quân đoàn trưởng cũng vất vả.”
Tôn Điện Anh hài lòng xua tay rồi trỏ ải Mã Lan, “Chắc rất nhiều người không biết vì sao hôm nay chúng ta lại đánh trận này. Các anh em có biết sau quan ải này là gì không? Sau đó là Đông lăng. Đông lăng là gì, chính là lăng mộ của các hoàng đế Mãn Thanh.”
Các binh lính ngơ ngác nhìn nhau, chẳng hiểu Tôn Điện Anh có ý gì.
Tôn Điện Anh chợt rầu rầu nét mặt, trỏ vào mình, “Các người có biết thân thế của ta không? Tổ tiên ta, tên Tôn…” Nói tới đây, hắn hơi ngập ngừng rồi vội vàng chụm hai ống tay áo, liếc mảnh giấy trong lòng bàn tay, kể tiếp, “Tôn Thừa Tông, là Đông Các đại học sĩ thời Minh. Khi hoàng đế Mãn Châu đánh xuống phía Nam, tổ tiên ta đã tử thủ Cao Dương, cuối cùng cả gia tộc đều bỏ mình, chỉ có một người con trai trốn thoát, phải mai danh ẩn tích suốt bao đời, cho đến tận đời ta. Mối thù của tổ tiên ta không lúc nào dám quên, chỉ tâm niệm nghĩ cách báo thù cho họ…” Tôn Điện Anh nghẹn ngào, cúi xuống lau nước mắt, tiện thể lại liếc mẩu giấy trong tay.
“Năm xưa người Mãn giết cả nhà ta, giờ Mãn Thanh đã mất, hoàng đế bỏ chạy, nhưng mộ phần của chúng vẫn còn kia. Các anh em thử nói xem, mối thù giết cả họ có nên báo hay không? Mồ mả hoàng đế Mãn Thanh đã ở ngay trước mắt, có nên đào hay không?”
Đàm Ôn Giang cầm đầu hô vang, “Đúng lắm! Nên đào! Nên đào! Báo thù cho quân tọa!” Đám lính cũng rộ lên hô theo, càng hô càng rõ ràng, càng hào hứng.
Tôn Điện Anh khiêm tốn xua tay, “Ta biết đào mồ quật mả tổn âm đức lắm. Nhưng cũng phải xét hoàn cảnh, người Mãn thiếu chúng ta quá nhiều nợ máu, Tôn các lão, Viên đốc sư*, nếu tính về trước thì còn cả Nhạc Vũ Mục đánh người Kim nữa, từng món nợ ấy đều phải trả đầy đủ! Huống hồ giờ chúng ta là quân Cách mạng Quốc dân, hành động cũng phải có ý thức cách mạng. Mấy năm trước chẳng phải chính tướng Lộc Chung Lân đã đuổi Phổ Nghi ra khỏi Cố cung ư? Còn mang đại pháo đến chĩa vào tận cửa, con mẹ nó đã quá đi mất! Hôm nay chúng ta cũng học theo ông ta, đuổi lũ hoàng đế ấy ra khỏi Đông lăng, phải không nào?”
❖ Tức Tôn Thừa Tông và Viên Sùng Hoán, hai vị anh hùng dân tộc trung thành với nhà Minh, sau đều bị quân Mãn Thanh giết chết.
“Phải lắm! Phải lắm!” Các binh lính chẳng cần động viên, tự giác hô vang.
Tôn Điện Anh hứng chí bắn một phát về phía Đông lăng, “Nếu đã làm cách mạng thì phải cách mạng triệt để, đập tan bè lũ hoàng đế thái hậu kia, mới có thể đi đến cộng hòa dân chủ được!” Nói tới đó, Tôn Điện Anh hô lớn, “Được! Nghe lệnh ta, vào Đông lăng! Lấy báu vật!”
Tôn Điện Anh vừa dứt lời thì đùng một tiếng, sấm nổ vang trời, làm mọi người ù cả tai. Các binh lính đang hào hứng chợt quay ra ngần ngại. Song Tôn Điện Anh lại ngẩng lên cười ha hả, “Các người xem, cả ông trời cũng thấy chướng mắt, nôn nóng giáng sấm sét xuống ngay. Lũ vua chúa Mãn Thanh kia trốn trong lăng mộ dưới đất, sét đánh không tới, chúng ta mau giúp ông trời lôi bọn chúng ra!”
Hắn vừa lên tiếng đã xua tan ngần ngại trong lòng quân sĩ, ai nấy sáng mắt lên, xoa tay sẵn sàng vào việc. Tôn Điện Anh rốt cuộc có phải con cháu Tôn Thừa Tông hay không thì chẳng ai biết được, song chúng đều hiểu rõ trong lăng mộ này là hoàng đế, là vô vàn báu vật chôn theo. Giờ kéo vào Đông lăng, ai ai cũng có phần. Tiền tài làm lóa mắt, bạc vàng làm đen tâm, hầu như tất cả đều thèm rỏ dãi.
Đội ngũ tức thì loạn cào cào, mạnh ai nấy chen lên trước, tên nào cũng muốn xông vào Đông lăng đầu tiên. Tôn Điện Anh vội sai Đàm Ôn Giang lấy lại trật tự, còn mình thì sửa lại thắt lưng, dẫn đầu tiến vào ải Mã Lan.
Đứng lúc này lại nghe một tiếng sấm rền vang, Tôn Điện Anh chợt khựng lại, ngạc nhiên ngẩng đầu nhìn lên.
Một bóng người đang đứng chắn trước ải Mã Lan, chặn trước mặt Tôn Điện Anh. Kẻ này dáng dong dỏng cao, đầu còn quấn một chiếc khăn tay thấm máu, sừng sững đứng đó như đã bén rễ xuống đất.
“Ô, chú em? Chú về rồi đấy à?” Tôn Điện Anh ngạc nhiên xen lẫn mừng rỡ, cười ha hả bước tới định nắm lấy tay y. Hứa Nhất Thành bình thản đáp, “Tôi vừa nghe bài diễn văn của ngài rồi.” Tôn Điện Anh hỏi, “Nghe rồi à? Vậy thì tốt! Chú yên tâm, anh nghĩa khí lắm, không ăn mảnh đâu. Khai quật Đông lăng, chú cũng sẽ được chia phần.”
Hứa Nhất Thành nhìn hắn, giọng điềm nhiên, song từng chữ đều nặng nề, “Việc này, tôi tuyệt không cho phép.”
Tôn Điện Anh nhíu mày, “Chú em nói gì vậy?” Hứa Nhất Thành đáp, “Ân oán giữa quân đoàn trưởng và tôn thất nhà Thanh, tôi không quản được. Nhưng đào mồ quật mả là tội lớn đi ngược lại nhân luân, ngài chớ để tiếng xấu muôn đời.”
Tôn Điện Anh đáp, “Mấy lời nhảm nhí ấy của người Mãn, không thể tin được.”
Hứa Nhất Thành bước lên một bước, ánh mắt như lửa, “Thời Tiên Tần, kẻ nào quật mộ, trị tội chết; thời Hán, phá hủy mồ mả, phải chém đầu; thời Đường, đào mồ nạy áo quan, xử treo cổ; luật Đại Minh xử tội trộm mộ rất nghiêm; luật Đại Thanh có ba mươi sáu điều, trị tội kẻ đào mồ cuốc mả cực nặng; luật Dân Quốc kẻ trộm mộ nặng nhất thậm chí có thể xử bắn. Các triều đại đều quy tội này vào hàng đại ác. Quân đoàn trưởng muốn làm kẻ bất nghĩa ư?”
Tôn Điện Anh bực mình hỏi, “Đây là mộ bọn vua chúa Mãn Thanh chó má, ta báo thù cho tổ tiên, có gì không đúng hả? Chú cũng là người Hán, sao lại đứng về phía người Mãn?”
“Vậy ngài cấu kết với người Nhật Oa, trộm cả Trung Hoa chúng ta thì sao?”
Tôn Điện Anh trợn mắt cãi, “Nói láo! Chuyện này liên quan gì đến người Nhật! Còn nói lung tung nữa ông bắn chết bây giờ!”
Hứa Nhất Thành chẳng mảy may sợ hãi mà hiên ngang bước tới, khiến Tôn Điện Anh lúng túng lùi lại, “Mãn Thanh đã mất, Đông lăng nay thuộc về quốc gia, phải bảo vệ chu toàn để lại cho đời sau. Hôm nay ngài cấu kết với người Nhật đào Đông lăng, ngày mai cấu kết người Nga đào Tây lăng, về sau kẻ nào đó lại thông đồng với người Mỹ đào Minh lăng, Tống lăng, Đường lăng, Hán lăng, Tần lăng thì Trung Hoa chúng ta còn đâu lịch sử nữa? Chẳng phải huyết mạch văn hóa sẽ đứt đoạn sao?”
Nghe những đạo lý to tát này, Tôn Điện Anh cũng phát cáu, tắt hẳn nụ cười, sầm mặt hỏi, “Nếu ta nhất định quật thì sao? Chú chỉ có một người, còn ta có cả sư đoàn đấy.”
Hứa Nhất Thành tủm tỉm cười, “Một mình tôi dĩ nhiên là châu chấu đá xe. Nhưng Tưởng Trung Chính thì sao?”
Nghe cái tên này, khóe môi Tôn Điện Anh giần giật, lại lùi thêm bước nữa. Cả Trung Quốc hiện giờ, chỉ có người này gần giống hoàng thượng nhất. Hứa Nhất Thành nói thêm, “Ông Tưởng đang thị sát Bắc Kinh, tôi cũng đã phái người bên cạnh về kinh rồi. Nếu ngài quyết động thủ, tôi đành phải tố giác với ông Tưởng và các tòa soạn báo ở Bắc Kinh thôi.”
“Hừ, giờ đang lúc dùng người, ông Tưởng đời nào vì mấy nắm xương khô mà quay ra trở mặt với ta.”
“Đến lúc đó dư luận xôn xao, e rằng ông Tưởng cũng chẳng bảo vệ một đội quân ô hợp mới quy phục làm gì, trái lại còn muốn giết gà dọa khỉ ấy chứ.”
Bị Hứa Nhất Thành chọc trúng chỗ yếu, Tôn Điện Anh lặng đi. Ai mà chẳng biết Tưởng Giới Thạch hẹp hòi, phân biệt rõ ràng quân chính quy với quân tạp nham. Lỡ như vụ trộm Đông lăng vỡ lở, Tưởng Giới Thạch có che chở cho hắn không còn chưa biết được.
Thấy Tôn Điện Anh đã hơi dao động, Hứa Nhất Thành lại đổi giọng, “Ông anh xem bấy nhiêu kịch có anh hùng hảo hán nào tự hào về việc trộm mộ không? Đào bới phần mộ sẽ gặp báo ứng đấy, anh thôi đi cho.” Nào ngờ Tôn Điện Anh đảo mắt, giở ngay thói vô lại ra, “Ta đào xong sẽ đi ngay! Không có chứng cứ, ai bắt được ta?”
“Đông lăng rộng mênh mông, bên trong có rất nhiều cạm bẫy. Ngài dẫu có cả một quân đoàn, nhưng nếu không biết vị trí hầm mộ thì ít cũng phải đào mười mấy ngày.” Tôn Điện Anh chưng hửng, đào mồ trộm mả cần có kỹ thuật, mà hắn quả thực không quen làm.
Hứa Nhất Thành bồi thêm, “Trong khoảng thời gian ấy, tôi thừa sức về Bắc Kinh triệu tập phóng viên tới chụp ảnh đăng báo.”
Tôn Điện Anh nổi điên rút súng ra, chĩa vào đầu Hứa Nhất Thành, “Quân bất nghĩa! Ông đối xử với mày như thế mà mày cứ khăng khăng phá đám ông! Ông cho mày chết!” Hứa Nhất Thành không tránh mà nhắm mắt lặng lẽ đợi, dường như chẳng hề sợ hãi.
Gã Hứa Nhất Thành này đuổi không đi, đánh không được. Tôn Điện Anh quả thực cũng hơi chùn bước. Hắn vốn chẳng quan tâm đếch gì tới đại nghĩa dân tộc, nhưng đào Đông lăng mất mười mấy ngày, nếu bị Tưởng Giới Thạch biết được, to chuyện ra thì hắn không gánh nổi. Nghiến răng suy tính hồi lâu, cuối cùng Tôn Điện Anh cũng hạ súng xuống, hậm hực nói, “Bắn chết mày thì Liêu Định liều mạng với ông mất.” Giọng điệu đã có phần dịu đi.
Đúng lúc này, bên cạnh chợt có người cất tiếng, “Quân đoàn trưởng vẫn khỏe chứ?”
Nhận ra Sakai Daisuke, Tôn Điện Anh sầm mặt xuống. Đường tiền tài của hắn bị chính tên này và công ty Cổ phần Serizawa sau lưng gã chặt đứt, tuy bị ép phải bắt tay với gã, nhưng kiểu hợp tác bất đắc dĩ thế này khiến hắn tức anh ách.
Sakai Daisuke nhìn Hứa Nhất Thành, tao nhã làm động tác mời, “Chúng tôi tới tặng quà cho ngài đây.” Sau lưng gã ló ra gương mặt lạnh lùng của Anegakoji Eitoku, y đang tóm chặt một ông lão da nhăn nheo như hạt táo tàu, chính là thợ đá họ Khương.
“Người này họ Khương, là kẻ may mắn sống sót duy nhất trong số nhân công từng xây mộ Từ Hi năm xưa. Có lão dẫn đường, quân đoàn trưởng tha hồ ngồi duỗi mà ăn.”
Đầu Hứa Nhất Thành ong lên, thợ đá họ Khương đáng lẽ phải được Phó Quý đưa đi rồi mới đúng, sao giờ lại rơi vào tay người Nhật? Phó Quý đâu?
Tôn Điện Anh nghe vậy thì mừng ra mặt, nhưng nhìn sang Hứa Nhất Thành, hắn lại hơi e dè. Mới rồi hắn vừa đanh thép khẳng định không hợp tác với người Nhật, vậy mà mấy phút sau đã được phen bẽ mặt. Sakai Daisuke thúc giục, “Kẻ làm việc lớn không câu nệ tiểu tiết. Sau lưng quân đoàn trưởng có đại quân, phía trước là Đông lăng, kẻ dẫn đường cũng đã ở đây, thiên thời địa lợi nhân hòa đủ cả, còn gì mà do dự?”
Lòng tham vốn đã hơi lắng xuống lại bùng lên trong Tôn Điện Anh. Hắn nhìn các binh sĩ đang rục rịch hành động bên dưới rồi siết chặt nắm tay, cao giọng hô, “Đi thôi!” Sakai Daisuke dặn thêm, “Hy vọng quân đoàn trưởng không quên thỏa thuận giữa chúng ta.” Tôn Điện Anh cười nhạt, không phủ nhận cũng không đồng ý, đoạn cầm súng đi thẳng vào ải Mã Lan.
“Các người không được vào!”
Hứa Nhất Thành gầm lên, dang hai tay ra, lao vào Tôn Điện Anh. Anegakoji Eitoku ghì Hứa Nhất Thành lại, toan đá văng y ra thì Tôn Điện Anh đã quát lên, “Chú ấy là em kết nghĩa của ta! Ai dám động vào?”
Sakai Daisuke đưa mắt ra hiệu, Anegakoji Eitoku lập tức thả Hứa Nhất Thành ra. Tôn Điện Anh ngồi xuống nói với y, “Chú em, hôm khác anh sẽ tạ tội với chú!” Đoạn đứng thẳng dậy, hùng hồn ra lệnh cho các binh lính trước quan ải, “Các anh em! Xông lên cho ta! Mở Đông lăng ra, các người muốn lấy gì thì lấy!”
Câu này thốt lên, trăm ngàn con dã thú như được sổ lồng, rú lên như sóng gầm trước ải Mã Lan làm chấn động cả bầu không khí. Quân Tôn Điện Anh không giữ vững được đội hình nữa, đua nhau ném vũ khí, ba chân bốn cẳng chạy vào ải Mã Lan, mắt đỏ ngầu thèm muốn, chỉ sợ chậm chân lại mất phần.
Ải Mã Lan tức thì náo loạn, cơn hồng thủy của lòng tham đã phá vỡ con đập lương tâm, cuồn cuộn tràn vào Đông lăng.
Hứa Nhất Thành đờ đẫn nhìn cảnh tượng đó, y há miệng định gào lên, nhưng không sao thốt nổi ra tiếng. Cuống quýt níu áo Tôn Điện Anh, song hắn đã giằng ra đi thẳng, không muốn dùng dằng với y. Hứa Nhất Thành quay ra định níu một tên lính trẻ đang chạy lại. Trước đây ở trấn Mã Thiên Kiều, y từng gặp tên lính này, bấy giờ thái độ gã rất cung kính, nói năng lễ độ. Ấy vậy mà lúc này gương mặt gã đã méo mó đi vì dục vọng, chẳng buồn nhìn Hứa Nhất Thành, đẩy phắt y ra rồi cắm đầu lao đi.
Hứa Nhất Thành không giữ nổi bình tĩnh nữa. Y gào lên, muốn giữ từng người một lại. Nhưng gào khản cả giọng cũng chẳng ích gì. Y níu được một người lính già, bị đẩy ra, lại túm lấy một người khác, cũng bị đẩy ra, có lúc còn bị đạp cho ngã dúi dụi rồi lại lồm cồm bò dậy, thảm hại khôn tả. Chẳng mấy chốc áo y đã bị xé rách, cả người lấm lem đất cát, đầu tóc rối bù. Trước cơn hồng thủy hung hãn ấy, y chỉ như một mỏm đá ngầm nhỏ nhoi, không cách nào chống lại, cũng không thể xoay chuyển cục diện.
Thấy một cậu lính trẻ chỉ chừng mười lăm mười sáu háo hức chạy vào ải, Hứa Nhất Thành giữ lấy vai cậu ta bằng cả hai tay, hét lên như điên dại, “Không vào được, các người không được vào! Cậu còn nhỏ, cậu phải biết rằng làm thế là không được!” Nào ngờ cậu ta thoi mạnh một cú vào bụng y, hung hăng quát lên, “Cút mẹ mày đi! Đừng có ngáng đường ông!”
Nghe câu ấy, Hứa Nhất Thành khựng lại. Y chợt nhận ra có làm gì cũng chỉ tổ uổng công, không thể thay đổi được tình thế nữa. Tâm trạng kích động và phẫn uất vỡ òa trong lồng ngực, đau đớn còn hơn ăn một đấm vào bụng, tựa hồ cả linh hồn cũng vỡ vụn. Hứa Nhất Thành lảo đảo hộc ra một ngụm máu, ngã xuống giữa đám đông, ngay trước ải Mã Lan.
Đám binh lính chẳng hề chú ý thấy có người vừa ngã xuống, mà dù có thấy cũng chẳng quan tâm, trong mắt chúng đã chẳng thấy bất cứ thứ gì nữa. Vô số đôi chân rầm rập chạy qua, giẫm lên thân thể Hứa Nhất Thành, như giẫm lên một đoạn cành khô một mảnh ngói vỡ.
Tôn Điện Anh từ đằng xa dừng bước, day dứt ngoái lại nhìn thấy vậy, biết rằng nếu cứ để mặc, Hứa Nhất Thành rất có thể sẽ bị giẫm chết. Hắn lắc đầu sai hai tên vệ binh kéo y ra khỏi đám loạn quân rồi đi tiếp. Sakai Daisuke và Anegakoji Eitoku lạnh lùng quan sát tất cả, Sakai Daisuke cười nửa miệng hỏi, “Anh thấy sao?”
Gương mặt lạnh băng của Anegakoji Eitoku thoáng vẻ xúc động, “Y cũng là hạng hiếm có trong số người Trung Quốc rồi.”
“May mà người như y không nhiều.” Sakai Daisuke khẽ cúi đầu về phía Hứa Nhất Thành bị kéo đi, chẳng biết là tỏ lòng kính trọng hay từ biệt.
Một giọt mưa rơi xuống vai gã, sau đó là giọt thứ hai, giọt thứ ba… Chẳng mấy chốc mưa đã ào ào đổ xuống như trút, song trận mưa như thác đổ chỉ ngăn được tầm nhìn, chứ không dập tắt nổi dã tâm của con người.
… Trong cơn mơ chập chờn hỗn loạn, Hứa Nhất Thành thấy rất nhiều người, Trần Duy Lễ đứng trên tàu thủy sang Nhật vui vẻ vẫy tay chào y. Đứng bên cạnh là Phú Lão Công thong dong nhàn nhã, gấm lụa khắp người, song tàu thủy đã biến thành lối dẫn vào Đông lăng. Hải Lan Châu, Lưu Nhất Minh, Hoàng Khắc Vũ, Dược Lai, Phó Quý và Kido Yuzo cũng lần lượt xuất hiện, ai nấy đều từ từ già đi, vừa hiện ra đã biến mất. Cuối cùng là vợ y, ẵm một đứa bé vừa chào đời, môi mấp máy nhưng không phát ra tiếng rồi từ từ chìm vào vầng hào quang vàng rực. Hứa Nhất Thành tựa hồ nhìn thấy đứa bé trong lòng mẹ kia lớn lên, già đi rồi không lâu sau cũng đột ngột biến mất, thay vào đó là một bóng người khác. Bóng người nọ vừa lạ vừa quen, gương mặt mơ hồ, song dáng vẻ quật cường không khác mảy may. Hứa Nhất Thành vươn tay, toan nói gì đó với người nọ, song người nọ đã hất ra, biến mất khỏi tầm mắt y…
Hứa Nhất Thành mở mắt ra, thấy mình đang nằm trong phòng bệnh ở bệnh viện Liên Hiệp, vợ y đang phủ phục trước giường thiêm thiếp ngủ.
Hứa Nhất Thành định vươn tay ra vuốt tóc vợ nhưng vừa chạm vào chị đã tỉnh giấc. Thấy Hứa Nhất Thành đã tỉnh, chị khệ nệ đứng dậy, lấy ống nghe và máy đo huyết áp trên bàn đến kiểm tra cẩn thận. Trong suốt cả quá trình, chị chỉ chăm chú kiểm tra thật kỹ, không nói một lời, ngay vết trầy nhỏ cũng không bỏ qua. Hứa Nhất Thành mấy lần định lên tiếng, đều bị chị dùng ánh mắt ngăn lại. Y đành ngậm miệng, im lặng nhìn chị làm.
Một lúc sau mới kiểm tra xong, chị thông báo, “Thân thể không có gì đáng ngại. Anh bị sốc nặng thôi, nghỉ ngơi ít lâu là không sao.” Hứa Nhất Thành cười nhăn nhó, cảm giác hồn phách mình đã bị hút mất một nửa, cả người trống rỗng thất thần, tinh thần suy sụp. Nhưng y học hiện đại đâu thể kiểm tra ra được những điều này.
Nhận ra tâm trạng của Hứa Nhất Thành, vợ y liếc sang bên cạnh, “Anh còn đỡ hơn Phó Quý nhiều, đến giờ anh ấy vẫn phải nằm ở phòng bên cạnh đây.”
“Hở? Anh ấy bị thương nặng lắm à?”
“Chấn thương sọ não, cứu được rồi, nhưng phải hai ba tháng mới rời giường được.”
“Là anh hại anh ấy…” Hứa Nhất Thành gượng dậy định sang thăm Phó Quý, song chị đã nói, “Nhất Minh, Khắc Vũ và Dược Lai vẫn luân phiên đợi ở cửa, hình như có chuyện muốn nói với anh. Giờ anh có muốn gặp bọn nó không?”
“Ừm.” Hứa Nhất Thành gật đầu, y đang nôn nóng muốn biết tình hình Đông lăng.
Vợ anh mở cửa thò đầu ra. Hoàng Khắc Vũ đang đợi trước cửa, nghe nói Hứa Nhất Thành đã tỉnh thì mừng rỡ chạy vào ngay, săm soi quan sát y giây lát rồi nói để cháu đi gọi người, đoạn lao vụt ra ngoài.
“ À phải, cô Hải Lan Châu cũng đến thăm anh đấy.” Chị vừa cắm cúi sửa lại ga giường vừa thản nhiên kể, “Cô ấy nói lúc ở thành Bình An, vì tình thế bắt buộc nên phải kết hôn giả với anh, bảo em đừng coi là thật.”
Hứa Nhất Thành lúng túng, “ừm, cô ấy là người của tông thất phái đến hợp tác…” Song vợ y đã đặt một ngón tay lên miệng y ngăn lại, nhét chiếc khăn tay đã được giặt trắng tinh vào túi y, nhẹ nhàng trách, “Anh cũng thật là, em cứ tưởng không thể gặp lại anh rồi chứ.” Đến lúc này, giọng chị mới hơi run rẩy. Hứa Nhất Thành thở dài, giơ tay toan ôm chị vào lòng thì nghe tiếng chân ngoài cửa, vội buông tay xuống, đúng lúc ba cậu nhóc ùa vào phòng.
Vợ y sửa lại tóc tơ trước trán rồi hỏi, “Các cháu định báo với chú Thành tin xấu đúng không?” Ba đứa nhìn nhau, cuối cùng Lưu Nhất Minh gượng gạo gật đầu. Chị lại nhìn sang Hứa Nhất Thành, “Anh nhất định phải nghe luôn bây giờ à?”
Hứa Nhất Thành mặt tái nhợt, “Đông lăng…” Song vợ y đã ngắt lời, “Không cần nói với em, anh có dám chắc mình chịu đựng nổi không?” Hứa Nhất Thành ừm một tiếng. Chị thở dài ngán ngẩm, “Đàn ông các anh đúng là… đừng nói chuyện lâu quá nhé.” Đoạn ôm đống ga giường bẩn đi ra.
Ba cậu thiếu niên đều rầu rĩ ra mặt. Đông lăng bị Tôn Điện Anh chà đạp, nỗ lực của mấy chú cháu đổ sông đổ biển, các cậu khó tránh khỏi nản lòng thoái chí. Lúc này thấy chú Thành cũng thẫn thờ như mất hồn, cả ba càng thêm thất vọng.
“ Cuối cùng chúng vẫn khai quật Đông lăng phải không?” Hứa Nhất Thành thều thào hỏi.
Ba cậu bối rối nhìn nhau, cuối cùng vẫn là Lưu Nhất Minh kể lại đầu đuôi.
Hôm đó Hứa Nhất Thành ngất lịm, rồi được người của Tôn Điện Anh khiêng đi. Nhưng mấy tên đó cũng chỉ sốt ruột muốn chạy vào Đông lăng vơ vét nên đã ném y bên ngoài ải Mã Lan. Khi bọn Lưu Nhất Minh đuổi đến nơi, Hoàng Khắc Vũ và Dược Lai vội hỏa tốc đưa Hứa Nhất Thành về Bắc Kinh còn Lưu Nhất Minh kiếm một bộ quân phục của quân đoàn 12, cải trang thành một tên lính trà trộn vào Đông lăng.
Lưu Nhất Minh biết Đông lăng không giữ được nữa, nhưng nếu cứ thế từ bỏ thì e rằng ngay cơ hội trừng trị hung thủ cũng không có. Cậu biết Hứa Nhất Thành không cách nào chủ trì cục diện được nữa, bèn quyết định tự mình mạo hiểm một phen.
Bấy giờ tình hình hết sức hỗn loạn, quân không biết tướng, tướng không biết quân, chẳng ai buồn kiểm tra thân phận Lưu Nhất Minh. Theo dòng loạn quân tràn vào Đông lăng, cậu phát hiện ra ngay đám giặc này chỉ biết chạy tứ tán khắp nơi như ruồi mất đầu. Những thứ đáng tiền trên mặt đất đều đã bị bọn Dục Bành và Cục Khai khẩn bán sạch, báu vật thực sự nằm ở trong lăng mộ bên dưới. Nhưng địa cung phòng ngừa nghiêm mật, không phải bạ ai cũng đào ra được. Muốn khai quật một lăng mộ quy mô lớn như Đông lăng cần nhân lực khổng lồ và phối hợp nhịp nhàng thống nhất.
Mượn cơn mưa lớn, Lưu Nhất Minh lẻn đến gần Tôn Điện Anh, tin rằng kẻ này nhất định có sắp xếp. Quả nhiên Lưu Nhất Minh phát hiện Tôn Điện Anh và hai tên người Nhật kia cùng đội vệ binh áp giải người thợ đá vẫn chỉnh tề hàng ngũ đi thẳng về phía Định Đông lăng ở khe Phổ Đà, nơi chôn cất Từ Hi thái hậu.
Từ Hi thái hậu nổi tiếng hoang phí xa xỉ, nghe đồn còn hơn cả các hoàng đế nhà Thanh. Tôn Điện Anh nhắm vào mộ Từ Hi, hẳn là đã lên kế hoạch từ trước.
Đến được Định Đông lăng, Tôn Điện Anh bắt đầu thổi còi tập hợp các binh sĩ xung quanh lại. Lưu Nhất Minh cũng bị coi là một tên lính quèn, đẩy lên hàng đầu tiên đào đất quanh bảo đỉnh. Sau đó cậu thấy lão Khương bị lôi vào lăng, Đàm Ôn Giang tra hỏi lão lối vào mộ khi xưa ở đâu, xác định được vị trí nằm bên dưới bức chiếu bích lưu ly bên cạnh minh lâu. Sau khi tìm thấy lối vào, ông lão bị gạt sang một bên, Tôn Điện Anh phái mấy tên lính công binh đi xem thử, nào ngờ lại đụng phải một bức tường kim cương.
Tường kim cương xây bằng đá hoa cương, kẽ gạch đổ dầu cây trẩu và hồ bột, vô cùng kiên cố. Tôn Điện Anh sai người đập ra, nhưng búa lớn đập vào chỉ để lại vài vết trắng. Sau đó một tên sĩ quan nảy sáng kiến đổ acid nitric vào, hòng làm kẽ đá mềm ra, nhưng cũng thất bại. Tôn Điện Anh nổi giận bèn lấy thuốc nổ đến, cho nổ tung cửa địa cung.
Địa cung mở ra, bên trong lại gặp một cánh cửa bằng đá cẩm thạch, có cột đá chốt đằng sau. Chốt cài đá này gọi là đá tự sập, treo ngay sau cửa từ lúc xây cất, khi đóng cửa lại, nó sẽ tự động trượt xuống, chèn cứng cửa từ phía trong, không ai mở ra được. Tôn Điện Anh định dùng thuốc nổ lần nữa nhưng sợ làm sập cả mộ, đành triệu tập khoảng trăm tên lính lại hò dô đập cửa, cuối cùng cũng đập gãy chốt đá.
Cửa địa cung vừa bị phá, mộ Từ Hi cũng mở toang. Đại quân lúc trước vẫn còn khá quy củ, tức thì loạn cả lên. Tôn Điện Anh dẫn đầu, sau đó tới đội vệ binh của Đàm Ôn Giang, sau nữa là cả đám binh lính túa vào như ong vỡ tổ. Bọn chúng đã nửa năm nay không có lương, thấy châu báu đầy đất thực chẳng khác nào chuột sa chĩnh gạo, ra sức vơ vét. Cảnh tượng hỗn loạn mà điên cuồng ấy, cả đời này Lưu Nhất Minh cũng không thể quên được.
Báu vật trong mộ Từ Hi nhiều vô kể, ngay ở lối đi cũng chất đầy chuỗi ngọc, Phật vàng, ngọc san hô v.v… Song gặp phải đám loạn quân này, đến quan tài Từ Hi cũng bị cạy ra, chăn kinh đắp trên mình, ngọc ngậm trong miệng, mũ miện đội đầu, thậm chí cả răng vàng đều bị nhổ mất. Những báu vật khác trong lăng mộ cũng bị cướp sạch. Thi hài Từ Hi bị vứt ra lối đi, đầu bị giẫm nát. về phần thợ đá Khương, một tên lính trong bọn thấy ông ta vướng chân vướng tay bèn cho một phát đạn. Mấy cỗ xe Vương Thiệu Nghĩa chuẩn bị đều bị Tôn Điện Anh đem ra dùng cả, từng xe từng xe của cải được chở ra ngoài. Lưu Nhất Minh tận mắt trông thấy đôi dưa hấu bằng phỉ thúy Từ Hi gối đầu được Đàm Ôn Giang chính tay dâng cho Tôn Điện Anh, hắn ngắm nghía rồi cười không khép nổi miệng.
Nghe vậy, ánh mắt Hứa Nhất Thành tối sầm lại, không phải y thương xót Từ Hi, mụ đàn bà độc ác đó không hề đáng được thương hại, mà chỉ tiếc nỗi bao nhiêu báu vật đã bị cướp đoạt, những thứ bị hủy hoại có lẽ còn nhiều hơn. Với một người học ngành khảo cổ, đây mới là sự giày vò thực sự.
“Đều tại chú cả, lẽ ra chú phải nghĩ được rằng lòng tham của con người ta đâu thể khắc chế bằng những thủ đoạn tầm thường. Là chú học nghệ chưa tinh, nhìn người không tỏ nên mới dẫn tới đại họa này…” Hứa Nhất Thành đau khổ nhíu mày tự trách.
Lưu Nhất Minh lắc đầu, “Chú nói sai rồi. Việc Tôn Điện Anh quật mộ là do người Nhật sắp đặt, có hay không có chú thì sớm muộn chúng cũng ra tay.” Hứa Nhất Thành vội hỏi, “Phải rồi, cháu có thấy bọn Sakai Daisuke không?”
“Cháu đang kể đến đoạn ấy đây.”
Lưu Nhất Minh kể, mộ Từ Hi bị đào bới hơn hai ngày, của cải bị khoắng gần hết, Tôn Điện Anh vẫn chưa thỏa mãn, lại định nhắm vào Dụ lăng của Càn Long. Càn Long hiệu xưng Thập Toàn lão nhân, cai trị vào thời kỳ đỉnh cao của Mãn Thanh, trong mộ hẳn cũng đầy báu vật.
Có điều lần này không ai biết lối vào mộ, chúng đành đào lung tung quanh bảo đỉnh, hì hục suốt mấy ngày cuối cùng cũng đào ra.
Ngờ đâu lúc này lại xảy ra một việc kỳ lạ.
Lúc quật mộ Từ Hi, cửa vừa mở ra, tất cả quân tướng cùng ùa vào, chẳng ai ngăn cản. Nhưng khi mở được mộ Càn Long, Tôn Điện Anh lại phái một đội quân đốc chiến dàn thành hàng ngang, cấm những binh lính bình thường lại gần. Lưu Nhất Minh cũng không lẻn vào được, chỉ có thể đứng đợi bên ngoài. Cậu thấy Sakai Daisuke và Anegakoji Eitoku theo Tôn Điện Anh đi vào, chẳng bao lâu sau, hai tên người Nhật trở ra trước, Sakai Daisuke cầm một thanh kiếm, thân kiếm hơi cong, vỏ kiếm bọc da cá mập, nạm đủ loại châu báu hồng ngọc, hoàng ngọc, lục ngọc v.v… chín đường vân vàng rực uốn lượn như chín con rồng quấn lấy vỏ kiếm, thoạt trông đã thấy không phải tầm thường.
Hứa Nhất Thành bàng hoàng, “Kiếm Cửu Long ư?”
Lưu Nhất Minh đáp, “Trông hình dạng chắc là đúng đấy, có lẽ chúng đã cạy quan tài ra để lấy. Hai tên Nhật Bản nọ bỏ kiếm vào bao da rồi rời Dụ lăng.”
“Đợi đã…” Hứa Nhất Thành ngắt lời cậu, “Cháu bảo người Nhật chỉ lấy kiếm Cửu Long, không đụng tới những thứ khác ư?”
“Đúng thế. Cháu thấy rõ chúng chỉ lấy kiếm Cửu Long thôi.”
Hứa Nhất Thành nghi hoặc ra mặt. Y cứ ngỡ người Nhật ngấp nghé báu vật trong Dụ lăng, kiếm Cửu Long chỉ là một hình ảnh tượng trưng, thực không ngờ chúng lại lấy mỗi thanh kiếm thật.
Rốt cuộc chúng đang nghĩ gì? Trả cái giá đắt như vậy, hao tốn bao nhiêu tinh lực chỉ vì một thanh kiếm ư? Thực quá mức hoang đường. Kiếm Cửu Long dù là báu vật quốc gia, song giá trị cũng chỉ như dưa hấu phỉ thúy mà thôi. Người Nhật có nghèo đến đâu cũng chẳng tới mức phải mò sang tận đây vì một thanh kiếm.
Hứa Nhất Thành chợt nghĩ có lẽ mình vẫn chưa hiểu hết bí mật trong nửa mảnh thư của Trần Duy Lễ.
Hàng chữ lạ lùng tìm được trong phòng Sakai Daisuke “Nói giữa chừng… phiêu linh… Tuy bị vùi… chẳng… dùng” cũng chưa chắc đã là một bài thơ chữ Hán tỏ lòng cảm khái.
Kể cũng lạ, tâm trạng y vốn đang suy sụp vì chuyện Đông lăng bị trộm, nhưng vừa nghĩ tới vẫn còn bí ẩn chưa được giải quyết, mắt y lại từ từ sáng lên. Người nhà họ Hứa xưa nay vẫn luôn cố chấp như thế.
Thấy vẻ mặt Hứa Nhất Thành đã khá hơn, Lưu Nhất Minh cũng yên tâm, tiếp tục kể.
Sau khi người Nhật đi khỏi, Tôn Điện Anh cũng khoắng sạch mộ Càn Long. Lưu Nhất Minh không chen vào nhưng nghe các binh lính kể, thi thể Càn Long trong mộ đã mục rữa hết, chỉ còn một bím tóc. Có điều những đồ bồi táng đều là vàng ròng bạc trắng, nhiều không kể xiết, lũ lượt được chất lên xe. Tiếc rằng những tranh chữ quý hiếm mà Càn Long sưu tầm đều bị đám võ biền dốt nát kia giẫm đạp lên, rồi ngâm nước mưa hỏng hết. Lưu Nhất Minh xuất thân thế gia thư họa, kể đến đó cũng không nén nổi căm phẫn, siết chặt tay đến độ trắng bệch cả đốt.
Khoắng hết mộ Càn Long, Tôn Điện Anh còn chưa thỏa mãn, định đào luôn Hiếu lăng của Thuận Trị. Đàm Ôn Giang nói Thuận Trị xuất gia làm hòa thượng, trong quan tài cũng chẳng có gì đáng giá. Tôn Điện Anh bèn nghĩ, không đào được cha thì đào sang con, lại quay sang mộ Khang Hi. Có điều lần này chúng vừa đào đến mép hầm mộ thì nước vàng ào ạt phun ra, càng phun càng mạnh, nháy mắt đã ngập đến mấy thước.
Đám lính thấy nước này vàng phát hãi thì không dám lại gần. Có kẻ nói đó là nước từ xác thối, dính phải sẽ tiêu đời làm cả bọn dạt ra, không ai dám động thủ nữa. Tôn Điện Anh cũng sợ nấn ná quá lâu sẽ rầy rà rắc rối, nên tuyên bố rút lui. Đám lính tên nào cũng nhồi nhét phồng cả người, hớn hở rời Đông lăng. Tôn Điện Anh càng khỏi phải nói, đem đi tận mười mấy cỗ xe đầy chật. Nếu Vương Thiệu Nghĩa trông thấy chắc phải tức hộc máu ra mất.
“Đợi đã, chúng vơ vét trong bao lâu?”
“Bảy ngày bảy đêm ạ.” Lưu Nhất Minh thở dài, “Lúc chúng kéo đi, cả Đông lăng đã tiêu điều ngổn ngang, đến bia đá cũng chẳng còn mấy tấm lành lặn.”
Hứa Nhất Thành từ từ ngả người ra thành giường, rờ tay lên ngực trầm ngâm, “Chú hôn mê lâu thế cơ à… Về sau thì sao?”
Lưu Nhất Minh nhìn sang Hoàng Khắc Vũ, Hoàng Khắc Vũ vội kể, “Cháu và Dược Lai đưa chú về Bắc Kinh, tới thẳng bệnh viện Liên Hiệp, còn chị Hải Lan Châu đi báo cho tông thất. Đám tông thất vô tích sự hay tin thì cuống cả lên, Dục Phương nói mình không thể tự quyết được, lại tới Thiên Tân xin ý kiến Phổ Nghi. Phổ Nghi lại triệu tập các nguyên lão tông thất bàn bạc, mất thêm mấy ngày nữa. Khi họ kéo tới Đông lăng thì bọn Tôn Điện Anh đã đi từ đời tám hoánh! Chỉ còn thi thể A Hòa Hiên tự sát trước lối vào mà thôi!”
“A Hòa Hiên chết rồi sao?” Hứa Nhất Thành kinh ngạc.
“Họ bị Tôn Điện Anh nhốt trong khe núi, khi quân Tôn Điện Anh đi rồi mới thoát ra được. Đám lính dưới trướng tản đi hết, e rằng A Hòa Hiên là người cuối cùng tuẫn táng theo nhà Thanh.”
Hứa Nhất Thành thầm nghĩ A Hòa Hiên là cha ruột Hải Lan Châu, chẳng biết được tin này cô ta sẽ phản ứng thế nào.
“Tông thất bỏ mặc không làm gì ư?”
“Trước mắt vẫn đang bàn bạc xem nên làm thế nào.” Lưu Nhất Minh mỉa mai đáp.
“À phải, chú Phó Quý cũng phải đến lúc đó mới được người ta phát hiện. Nghe nói người nhà ông lão thợ đá họ Khương tìm tới Đông lăng, lúc tới gần khe Mã Lan thì thấy chú ấy, bèn đưa về Bắc Kinh.” Dược Lai bổ sung.
Hứa Nhất Thành gắng gượng ngồi dậy, đời sang thăm Phó Quý.
Trong phòng bệnh sát vách, Phó Quý mê mệt nằm trên giường, mắt nhắm nghiền, đầu quấn băng dày cộp, hoạt kê như một anh lính Ấn Độ. Dù đang hôn mê, trông Phó Quý vẫn lạnh lùng. Trên tủ đầu giường không đặt hoa tươi, thay vào đó là một khẩu súng ngắn Mauser ổ hai mươi viên. Đây là ý của vợ Hứa Nhất Thành, chị nói với Phó Quý thì ngửi mùi dầu lau súng và thuốc súng còn thư thái hơn hương hoa.
Hứa Nhất Thành chậm chạp đi đến bên giường, ngồi xuống, vươn tay ra sửa lại chăn cho Phó Quý. Phó Quý nằm im bất động, tựa hồ chẳng buồn đếm xỉa đến tay bạn thân lắm chuyện. Thực ra anh ta cũng nào có quan tâm gì đến dân tộc hay văn vật, sở dĩ tham dự vào việc này hoàn toàn là vì tình bạn với Hứa Nhất Thành mà thôi.
Phó Quý vốn dĩ có thể ở lại kinh thành yên ổn làm thanh tra, vậy mà lại bị thương nặng đến thế này vì một việc không đâu. Nỗi áy náy vô tận tràn ngập trong lòng Hứa Nhất Thành, y bỗng dưng lại nhớ tới Trần Duy Lễ.
Trần Duy Lễ tin tưởng y, trước khi chết còn giao phó lại một bí mật trọng đại; Phó Quý cũng tin tưởng y, có thể vì y mà lao vào dầu sôi lửa bỏng. Cả hai đều coi Hứa Nhất Thành là sinh tử chi giao, dốc lòng tin tưởng. Hiện giờ một chết một bị thương, trong khi Tôn Điện Anh vẫn nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật, âm mưu của người Nhật rốt cuộc là gì vẫn chưa làm rõ được. Một giọng nói không ngừng gào thét trong lòng y: Hứa Nhất Thành ơi là Hứa Nhất Thành, kẻ thù chưa bị diệt, chân tường chưa tra rõ, ngươi lấy tư cách gì mà suy sụp?
Thấy Hứa Nhất Thành ngồi ủ rũ, đầu cúi gằm, im lìm thật lâu chẳng nói năng gì, ba cậu thanh niên ngỡ rằng y thương tâm quá độ, vội lại gần khuyên giải. Lưu Nhất Minh vừa chạm tay vào vai Hứa Nhất Thành, y liền từ từ ngẩng lên, khiến Lưu Nhất Minh giật nẩy mình vội lùi lại một bước.
Nét ủ ê thất vọng trên mặt Hứa Nhất Thành đã hoàn toàn tan biến. Ánh mắt yếu ớt và trống rỗng của y cũng biến mất, thay vào đó là cặp mắt sáng rực trước kia, cùng vẻ cố chấp đặc trưng của nhà họ Hứa.
“Chú… chú Thành?” Lưu Nhất Minh ngạc nhiên nhìn y.
Hứa Nhất Thành đứng dậy khỏi ghế, giọng nói ủ dột đã có thêm mấy phần sức sống, “Chuyện này vẫn chưa kết thúc đâu. Chúng ta không thể ngăn được vụ quật mồ, nhưng có thể khiến đám trộm mộ ấy phải trả giá đắt, nhận lấy sự trừng phạt xứng đáng.”
“Trộm thì cũng đã bị trộm rồi, còn sức khỏe của chú…” Dược Lai lo lắng. Đông lăng bị trộm, Hứa Nhất Thành là kẻ tổn thương tinh thần nặng nhất, giờ liệu có ứng phó nổi với những việc nguy hiểm như thế không. Hứa Nhất Thành nghiêm mặt đáp, “Đông lăng đã bị khai quật, nhưng mục đích của người Nhật là gì thì chưa rõ. Giờ bảo chú khoanh tay ngồi nhìn, e rằng tinh thần còn tổn thương hơn.” Đoạn y hơi hếch cằm, ngạo nghễ nói, “Người nhà họ Hứa xưa nay đều đâm đầu vào ngõ cụt mà chết, chứ chưa thấy ai nửa đường thoái lui.”
Lưu Nhất Minh hỏi, “Vậy chú định làm thế nào?”
Hứa Nhất Thành giơ tay phải lên, mấy ngón tay thon dài siết lại, giọng thoáng nuối tiếc, “Chú đã chuẩn bị một kế dự phòng để đối phó với cục diện này. Vốn hy vọng không bao giờ phải dùng đến, giờ xem ra không thể không dùng rồi…”
Nghe vậy mọi người đều nín lặng đợi y đưa ra một kế sách hiệu quả nhanh. Nhưng y không nói tiếp mà bảo Dược Lai thuật lại cho mình nghe cục diện Bắc Kinh những ngày gần đây.
Được hỏi tới, Dược Lai phấn chấn tuôn ra hàng tràng. Gần đây tình hình Bắc Kinh đã có phần ổn định, các cơ quan của quân Cách mạng Quốc dân đang nườm nượp đổ về. Đằng Phụng Thiên đã chính thức phát tang cho Trương Tác Lâm, tất cả đều đang chờ con trai ông ta là Trương Học Lương đưa ra lựa chọn.
Hứa Nhất Thành nhắm mắt lắng nghe, thỉnh thoảng lại hỏi vài câu. Dược Lai kể một hồi, y chợt hỏi, “ Vậy là chủ tịch Tưởng vẫn đang ở Bắc Kinh hả?” Dược Lai gật đầu, “Vâng, đang phải tiếp đón các đoàn thể xã hội, bận túi bụi, ngày nào báo cũng đưa tin đấy.”
“Giờ bên ngoài xôn xao nhất là chuyện gì?” Các câu hỏi của Hứa Nhất Thành chẳng liên quan gì đến nhau, khiến người ta không sao đoán được ý y.
Dược Lai bối rối gãi đầu, nghĩ ngợi giây lát rồi vỗ tay đánh đét, “À phải, còn chuyện này nữa, rất nhiều người đang định ra đường biểu tình phản đối đổi tên Bắc Kinh thành Bắc Bình. Bắc Kinh vốn được Lưu Bá Ôn năm xưa đích thân coi phong thủy, là thành Na Tra tám tay* do Diêu Quảng Hiếu đích thân xây dựng, bên trong Tứ Cửu thành hội tụ phong khí đế vương, đâu phải nói dời đô là dời đô được. Nhiều đoàn thể xã hội đã liên kết lại gửi đơn thư yêu cầu chính phủ xem xét lại.”
❖ Một cách gọi khác của thành Bắc Kinh. Bởi khi Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương muốn xây dựng thành Bắc Kinh, một viên quan bộ Công đã tâu rằng, “Bắc Kinh vốn là Khổ Hải U Châu, có ác long trấn giữ, cực kỳ hung ác, không hàng phục được.” Chu Nguyên Chương thấy rất phải, nếu không có người trên thông thiên văn dưới tường địa lý, trên biết thần dưới biết quỷ thì không thể xây được thành, về sau Lưu Bá Ôn và Diêu Quảng Hiếu đảm nhận việc xây xướng, cho rằng chỉ có Na Tra tám tay mới hàng phục được ác long, nên thành Bắc Kinh được gọi là thành Na Tra tám tay.
Hứa Nhất Thành có vẻ rất quan tâm tới việc này, hỏi kỹ thêm mấy câu rồi nhắm mắt lại trầm tư, “Mấy đứa cứ đợi xem kịch hay đi.” Ánh mắt y nhìn xuyên qua phòng bệnh, trông về phía Đông lăng, ngón tay gõ nhịp vào mép giường.