← Quay lại trang sách

Chương 12 Bí mật trong kiếm

Từ tháng Năm đến tháng Bảy, thành Bắc Kinh vẫn rối ren hỗn loạn, trước là quân Phụng Thiên rút khỏi Bắc Kinh, sau lại tới Trương Tác Lâm qua đời, quân Cách mạng Quốc dân tiến vào tiếp quản, đổi tên Bắc Kinh thành Bắc Bình. Hết chuyện lớn này đến chuyện lớn khác khiến người ta không lúc nào được yên.

Sang tháng Tám, dân chúng nhủ bụng, chắc cũng sóng yên gió lặng rồi nhỉ?

Nhưng họ nào có ngờ, ngay đầu tháng Tám, cả Bắc Kinh lại được phen chấn động.

Lộ Thấu xã thình lình đăng tải một bài báo, tác giả giấu tên, nói rằng Đông lăng ở Tuân Hóa bị trộm mộ càn quét, báu vật quốc gia tổn thất vô số. Bài báo còn nói dân chúng quanh khe Mã Lan vào Đông lăng thấy mộ Từ Hi và Càn Long đều bị trộm, địa cung mở toang, đồ bồi táng bên trong đã bị khoắng sạch. Đề nghị chính phủ quốc dân mau phái người điều tra.

Bài báo vừa ra, sóng to gió lớn đã cuồn cuộn nổi lên. Trước đây chiến loạn liên miên, mọi người không còn hơi sức đâu quan tâm tới Đông lăng, giờ cục diện đã ổn định, tất cả lại tập trung chú ý vào nó. Huống hồ người bị quật mồ chẳng phải ai khác mà là Từ Hi tiếng tăm lừng lẫy, càng làm dấy lên vô số suy đoán. Tin này truyền ra, báo chí từ Bắc Kinh cho đến cả nước thi nhau đăng tải, các tầng lớp xã hội đều tỏ thái độ khiển trách, thúc giục chính phủ mau phá án. Dân chúng chụm đầu ghé tai xì xào bàn tán, lời đồn hoang đường tới đâu cũng có. Rốt cuộc ai là kẻ trộm thì mỗi người nói một phách.

Tông thất cũng đưa ra tuyên bố, Phổ Nghi khóc lóc than thở, lên án kẻ trộm, đến Đông lăng bái tế bù, còn phái mấy vị nguyên lão dâng thư thỉnh nguyện lên chính phủ quốc dân.

Vụ án Đông lăng chẳng mấy chốc đã thành chủ đề nóng hổi ở Bắc Kinh. Dưới sức ép dư luận, Bộ Tư lệnh cảnh vệ và Ủy ban Chính vụ chiến trường Bắc Bình tuyên bố đã huy động lực lượng tinh nhuệ trong Sở Cảnh sát Kinh thành do trưởng phòng điều tra Ngô Úc Văn đứng đầu, bắt tay vào điều tra làm rõ. Đồng thời giao cho Lưu Nhân Thụy, ủy viên Quốc phủ thành lập đội điều tra, tới Đông lăng xem xét.

Chẳng bao lâu sau, cuộc điều tra đã bắt đầu có tiến triển. Trung tuần tháng Tám, sư đoàn trưởng sư đoàn 6 quân đoàn 12 Đàm Ôn Giang đưa vợ đến Tiền Môn xem phim, đèn vừa tắt, trong phòng chiếu chợt thấy ánh sáng lập lòe. Cảnh sát tức thì phong tỏa rạp phim, xông vào phòng chiếu, phát hiện thấy hai viên dạ minh châu đính trên đôi giày thêu của vợ Đàm Ôn Giang, được tông thất xác nhận là đồ bồi táng theo Từ Hi thái hậu.

Lưu Ly Xưởng có Tôn Cổ Trai chuyên mua bán cổ vật, ông chủ tên Hoàng Bách Xuyên. Cùng ngày Đàm Ôn Giang bị bắt, Sở Cảnh sát cũng bắt giữ cả Hoàng Bách Xuyên, y khai Đàm Ôn Giang từng đưa đến mấy món cổ vật hiếm có, ra giá đến trăm nghìn, qua điều tra, cũng xác định là trộm từ mộ Từ Hi.

Cùng lúc ấy, hải quan Thanh Đảo ở Sơn Đông báo tin, họ bắt được hai tên lính đào ngũ trên tàu chở khách Trần Bình Hoàn, lục soát tìm thấy ba mươi sáu viên đông châu cùng huy hiệu của quân đoàn 12. Chúng khai từng tham gia khai quật Đông lăng với Tôn Điện Anh, nhặt được một vốc châu báu, giờ không muốn bán mạng cho người ta nữa nên lén chuồn đi.

Sở Cảnh sát Kinh thành trước kia rất lề mề chậm chạp nhưng lần này lại như được thần linh phù hộ, làm việc quy củ đâu ra đấy, liên tiếp lần ra những manh mối quan trọng, cứ như đằng sau có người mách nước vậy. Hơn nữa mỗi lần có tiến triển, đám phóng viên lại biết ngay. Thế nên việc Tôn Điện Anh đầu têu trộm Đông lăng, tuy chưa được tòa án phán xét, song đã trở thành chủ đề nóng hổi đầu đường cuối phố.

Lại có nhà bình luận chính trị đăng bài nghị luận, nói đám quân phi chính quy kiểu này ngông nghênh ngạo ngược, nếu không trị tội nặng e rằng ngày sau sẽ thành mối họa sát sườn, câu nào câu nấy hùng hồn đanh thép.

Dường như thấy chưa đủ sôi sục, ông trời còn rót thêm cho một muôi dầu nóng.

Báo Thời Vụ đăng tải một bài viết của người ký tên Ngũ Nhạc tản nhân, phân tích theo góc độ phong thủy, nói rằng năm xưa Mãn Thanh chọn khe Mã Lan ở Tuân Hóa làm lăng tẩm để bảo vệ long khí của Bắc Kinh. Giờ Tôn Điện Anh khai quật Đông lăng khiến hoàng khí tiêu tán chảy hết xuống phía Nam. Từ đó Bắc Kinh mới đánh mất vị thế đế đô, trở thành một thành phố bình thường ở Hoa Bắc v.v…

Thực ra việc chính phủ quốc dân định dời đô đã được tuyên bố vào hạ tuần tháng Sáu, mà Tôn Điện Anh đến đầu tháng Bảy mới quật mồ. Nhưng dân chúng cần gì quan tâm những chuyện đó, bài báo nọ vừa đăng tải, lập tức dư luận nổi sóng. Lăng tẩm có bị trộm hay không là việc của tông thất, báu vật quốc gia còn hay mất là chuyện nhà nước, nhưng Bắc Kinh đánh mất vị thế thủ đô thì tổn hại tới thể diện của tất cả dân chúng sống dưới chân hoàng thành.

Ai nấy đều ấm ức chưa biết trút vào đâu, nay tìm được lý do này, dĩ nhiên sẽ thi nhau mắng chửi. Anh rỗ dám cắt đứt cả hoàng khí Bắc Kinh, chặt mất gốc rễ nên kinh đô sáu trăm năm mới bị hủy hoại trong tay hắn. Các ông các bà đây đang từ dưới chân thiên tử lại thành xó xỉnh ngóc ngách, tự dưng bị hạ xuống một bậc, Tôn Điện Anh có đáng chết hay không chứ? Chỉ trong nháy mắt, cái tên Tôn Điện Anh đã bị chửi rủa khắp hang cùng ngõ hẻm, đến mức không giết thì không xoa dịu được cơn giận của nhân dân.

“Gắn việc dời đô với việc quật mồ, quả là cao minh hết mức. Giờ náo loạn thế này, Tôn Điện Anh hoặc phải ngoan ngoãn ra tự thú, hoặc bỏ đi làm giặc, không còn đường nào khác.” Dục Phương cười tít mắt bảo Hứa Nhất Thành.

Hứa Nhất Thành lạnh nhạt đáp, “Tự làm tự chịu thôi.”

Lúc này hai người đang ngồi trong một quán trà nhỏ. Quán này là sản nghiệp của tông thất, không rộng nhưng rất tinh tế. Dục Phương đặt tiệc khoản đãi ở đây để cảm ơn Hứa Nhất Thành ra sức bấy lâu nay. Hải Lan Châu cũng có mặt, cô vận xường xám, hai cánh tay trắng ngần như ngó sen để lộ ra ngoài, đang thoăn thoắt pha trà cho hai người, mắt lấp lánh ý cười, luôn cúi đầu nhìn xuống, rất ra dáng tiểu thư khuê các.

Dục Phương giơ ngón cái tán thưởng, “Anh Thành cao tay thật, chỉ mấy chiêu đã làm Tôn Điện Anh đứng ngồi không yên. Giờ chắc hắn hối hận vì kết nghĩa với anh lắm.”

Chứng kiến hàng loạt đòn tấn công hết sức bài bản sử dụng sức mạnh dư luận làm người ta hoa cả mắt, Dục Phương không tin tất cả chỉ là tình cờ, tính đi tính lại chỉ có Hứa Nhất Thành mới có thủ đoạn và kiến thức như vậy, có thể từng bước dẫn dắt dư luận, giăng thiên la địa võng khiến Tôn Điện Anh không trốn đi đâu được.

Hứa Nhất Thành thở dài, “Họa lớn đã xảy ra rồi, giờ chẳng qua mất bò mới lo làm chuồng thôi, sao có thể gọi là tính toán như thần được. Huống hồ tôi chỉ đưa vài ý kiến, nếu không có nhân vật lớn chủ trì ở trên thì chẳng đạt được hiệu quả lớn thế đâu.”

“Ồ, là ai vậy?” Dục Phương tò mò hỏi, song Hứa Nhất Thành chỉ giơ một ngón tay trỏ lên trên, chứ không đáp.

Thấy y không chịu nói, Dục Phương gượng cười rồi cúi đầu hớp một ngụm trà chữa ngượng.

Ban đầu tông thất chỉ nhờ Hứa Nhất Thành điều tra vụ mộ Thục Thận hoàng quý phi bị trộm. Vụ này đã tra rõ là do Vương Thiệu Nghĩa gây ra, về sau Vương Thiệu Nghĩa đã giao tất cả đồ tùy táng bên trong cho Hứa Nhất Thành như khoản đặt cọc vụ xuất hàng Đông lăng, số châu báu ấy Hứa Nhất Thành đã trả lại nguyên vẹn cho tông thất, xem như hoàn thành việc ủy thác.

Có điều biểu hiện của tông thất khi Đông lăng bị khai quật thực quá mức buồn nôn, họ chỉ biết lăng xăng khắp nơi tìm người đổ tội, kẻ thì trách Dục Phương quản giáo không nghiêm, kẻ lại sợ chính quyền quốc dân nhân việc này làm suy giảm thế lực của mình, thậm chí có kẻ còn quy chụp rằng chính Hứa Nhất Thành đã dẫn đường cho Tôn Điện Anh, phải hỏi tội luôn cả y. Đúng như Hải Lan Châu nói, họ hết sức sợ hãi, chỉ biết liên tục chỉ trích kẻ khác để đổi lấy cảm giác an toàn.

Lần này Dục Phương mời Hứa Nhất Thành đến là muốn kết thúc việc ủy thác này. Dục Phương uống cạn trà xanh trong cốc rồi bảo Hứa Nhất Thành, “Xảy ra chuyện lớn như vậy là tông thất đã phụ lòng tiên sinh, chứ tiên sinh không có lỗi gì với tông thất cả. Dục Phương tạm chuẩn bị chút thù lao, mong tiên sinh nhận cho.” Dứt lời người hầu đã bưng đến một chiếc khay, trên đặt một chuỗi hạt mười sáu viên ngọc to bằng đồng xu, xanh biếc, cầm trong tay cảm thấy mát lạnh như nước.

Đây có lẽ cũng là báu vật trong cung, Dục Phương đem ra trao tặng, có thể coi là thành ý. Hứa Nhất Thành đặt chén trà xuống, nhận lấy chuỗi ngọc cất vào ngực áo rồi nói luôn, “Phú Lão Công chôn ở trấn Mã Thiên Kiều, vị trí cụ thể tôi sẽ vẽ một bức bản đồ, tông thất các vị nhớ cho người đến dời mộ đi. Tôi còn có việc, xin phép đi trước.”

Hiện giờ y cảm thấy chán ghét đám người tông thất, không muốn phí thời gian vàng bạc nhiều lời với họ.

Thấy Hứa Nhất Thành định đi, Dục Phương vội đưa mắt cho Hải Lan Châu. Hải Lan Châu đặt dụng cụ pha trà xuống nói, để tôi tiễn anh. Hứa Nhất Thành chẳng nói chẳng rằng đi thẳng ra ngoài, Hải Lan Châu sải bước đi theo.

Vừa đi Hải Lan Châu vừa tò mò nhìn Hứa Nhất Thành, cảm thấy phong thái y hình như hơi khang khác. Nhưng khác ở đâu thì cô không nói rõ được. Y như một món đồ sứ cổ, những sắc sảo và hỏa khí đều thu cả vào trong, toàn thân toát lên vẻ thâm sâu khó dò.

“Xin chia buồn với cô.” Hứa Nhất Thành chợt nói khẽ.

Hải Lan Châu gượng cười, “Cha tôi xem như cũng đã chết đúng nơi đúng chỗ. Sinh thời ông ấy rất đau khổ, một mặt không thể từ bỏ lòng trung, mặt khác lại thấy tông thất không ngừng sa đọa hủ bại, nên mới canh giữ Đông lăng, coi như lánh đời. Lần này ông ấy vì bảo vệ lăng mà chết, cũng được giải thoát rồi.”

Hứa Nhất Thành lặng thinh bước tiếp, không nói gì nữa.

“ Đã tìm ra tung tích đám người Nhật kia chưa?” Hải Lan Châu chuyển chủ đề.

Hứa Nhất Thành lắc đầu, thoáng vẻ tiếc nuối.

Sau khi Sakai Daisuke và Anegakoji Eitoku mang kiếm Cửu Long rời khỏi Đông lăng đã mất tăm mất tích. Dược Lai từng đến khách sạn Đại Hoa hỏi thăm, được biết cả Đoàn khảo sát phong tục China, bao gồm Kido Yuzo đã đột ngột trả phòng, không biết đi đâu.

“Ôi nếu chúng mang thanh kiếm kia về nước thì không đòi lại được nữa đâu.” Hải Lan Châu lo lắng nói.

Hứa Nhất Thành mím môi, “Không, theo trực giác của tôi thì chúng vẫn chưa đi đâu, ít nhất là vẫn chưa rời khỏi Trung Quốc. Chúng lấy kiếm Cửu Long, nhất định có nguyên nhân gì đó đằng sau. Cái chết của Duy Lễ hẳn còn một ý nghĩa khác.”

Hải Lan Châu lặng lẽ đặt tay lên vai y. Hứa Nhất Thành chợt dừng bước.

“Nhất Thành, anh đừng vơ hết mọi tội lỗi vào mình như thế.” Hải Lan Châu dịu giọng an ủi. Hứa Nhất Thành cười với cô rồi giơ hai tay lên, hai ngón cái chụm lại, tám ngón kia đan chéo, vái ba vái, sau đó lại lật cổ tay, vái ba vái nữa. Hải Lan Châu ngẩn người hỏi y có ý gì. Hứa Nhất Thành nghiêm trang đáp, “Đây là vái cậy nhờ, đã nhận lời thì đến chết không hối hận. Tôi đã vái như thế trước bài vị Duy Lễ, nhất định phải điều tra cho rõ ngọn ngành. Khi nào tìm ra được chân tướng, bắt giữ hung thủ, tôi sẽ đảo ngược lại thế tay vái một lần nữa trước mộ chú ấy, mới coi như hoàn thành.”

Hải Lan Châu nhìn vào mắt y, tự biết người này hết sức ngoan cố nên chẳng khuyên nhủ nữa. Thấy không khí quá nặng nề, cô bèn đảo mắt cười, đổi sang một chủ đề nhẹ nhàng hơn, “Anh cũng ác thật, chằng ngay vụ Tôn Điện Anh vào chuyện dời đô, làm dân chúng chửi hắn như tát nước. Anh nói dối cứ như thật ấy, nếu định lừa ai thì gớm lắm chứ vừa à.”

Hứa Nhất Thành gượng cười, “Chẳng qua mất bò mới lo làm chuồng đấy thôi.”

Ra đến cửa quán trà, Hải Lan Châu đứng bên trong, vịn tay vào khung cửa, rầu rầu hỏi, “Việc ủy thác của tông thất xong rồi, về sau chúng ta cũng không còn cơ hội gặp lại nữa phải không?” Hứa Nhất Thành nhìn cô, đắn đo hồi lâu mới thốt ra bốn chữ lấp lửng, “Cũng không hẳn vậy.” Hải Lan Châu tức thì tươi như hoa, “Anh yên tâm, lúc ở thành Bình An, tuy hai ta…” Cô khẽ cúi đầu, nhìn lảng đi, “Hai ta từng làm đám cưới, nhưng chẳng qua là để che mắt kẻ địch thôi, không tính là thật, chúng ta vẫn là bạn bè. À phải, vợ anh sắp sinh rồi nhỉ? Để tôi đánh một chiếc khóa trường mệnh cho em bé.”

“Cảm ơn cô.”

Hứa Nhất Thành không có nhiều lời để nói, y vái chào rồi giơ tay vẫy một chiếc xe kéo đi thẳng. Hải Lan Châu nhìn theo mãi đến khi y khuất bóng rồi mới thẫn thờ quay trở vào trong.

Xe kéo chạy qua nửa thành Bắc Kinh, cuối cùng dừng ở ngõ Nam La cổ. Bên trong có hẻm Chùa Viên Ân, còn gọi là vườn Ân, một dinh thự thênh thang kết hợp phong cách cả Đông lẫn Tây. Lúc này con hẻm đã bị ngăn lại, dựng một trạm gác tạm thời, trong ngoài đều có binh lính mang súng đạn đứng gác, canh phòng cẩn mật, trong vòng trăm mét, đừng nói là sạp hàng rong, ngay người qua kẻ lại cũng chẳng có mấy.

Đây là hành dinh của Tưởng Giới Thạch ở Bắc Kinh, giờ tuy y đã quay về Nam Kinh nhưng việc canh phòng vẫn không hề lơi lỏng.

Hứa Nhất Thành tới trước trạm gác báo tên. Lính gác gọi điện rồi lục soát người y một lượt, đoạn cung kính mời vào. Y vừa bước vào nhà trong của vườn Ân, đã có người bước ra đón. Kẻ này mặc quân phục quân Bắc phạt, môi mỏng mà thẳng, hai hàng lông mày như mực kẻ hơi xếch lên, nhìn bừng bừng khí thế.

“Ha ha, Nhất Thành đến rồi đấy à?” Gã cười sang sảng, nắm tay Hứa Nhất Thành lắc thật mạnh. Hứa Nhất Thành cười đáp, “May mà anh vẫn ở lại Bắc Kinh.”

“Chủ tịch Tưởng bận bịu, còn nhiều việc chưa xử lý xong ở Bắc Kinh nên tôi phải lưu lại thêm mấy hôm, cũng sắp đi rồi đây.”

Người này họ Đới tên Lạp, tên chữ là Vũ Nông, hiện đang là cố vấn liên lạc Bộ Tổng tư lệnh quân Cách mạng Quốc dân.

Hai người hàn huyên mấy câu, rồi Đới Lạp mời Hứa Nhất Thành vào phòng bên. Phòng này hơi tối, không bài trí gì cả, chỉ có một chiếc điện thoại quay số màu đen, một bản đồ quân sự và đủ loại tài liệu chồng chất. Sau khi ngồi xuống, Hứa Nhất Thành rút trong túi ngực ra chuỗi ngọc mười sáu viên kia, đặt vào tay Đới Lạp, “Việc Đông lăng may có anh dốc sức ủng hộ, đây coi như chút lòng thành của tôi.”

Đới Lạp cầm lấy, thản nhiên nói, “Chẳng qua chỉ nói mấy câu với các anh em làm báo thôi mà, Nhất Thành khách sáo quá.”

“Đâu có, đây là tông thất biếu tôi, tôi chỉ mượn hoa dâng Phật mà thôi.” Hứa Nhất Thành cười đáp.

Đới Lạp cười, đặt chuỗi ngọc lên bàn.

Hứa Nhất Thành biết thực lực của viên cố vấn liên lạc này đáng sợ hơn chức vụ nhiều. Dưới tay gã chỉ có một nhóm chuyên điều tra và đưa tin, gọi là Tổ Mười Người, nhưng lại có thể trình báo thẳng lên cấp cao nhất, là cơ quan tình báo riêng của Tưởng Giới Thạch, chức thấp mà quyền cao. Ở Bắc Kinh, những người có chút địa vị đều phải kiêng dè Đới Lạp. Chỉ xét riêng việc Tưởng Giới Thạch đi khỏi, để một mình gã ở vườn Ân, là đủ biết vị thế của người này trong lòng lãnh đạo tối cao.

Lần này Đới Lạp theo Tưởng Giới Thạch đến Bắc Kinh là để gây dựng tai mắt cho lãnh tụ ở kinh thành. Sau khi rời bệnh viện Liên Hiệp, Hứa Nhất Thành đã đến đây thăm gã ngay. Hai người vốn quen nhau từ trước, nên rất ăn ý. Hàng loạt hành vi nhằm vào Tôn Điện Anh vừa rồi đều là Hứa Nhất Thành đứng sau sắp đặt, Đới Lạp liên lạc với Sở Cảnh sát kinh thành và các tòa báo lớn, bằng không họ đâu thể phối hợp nhịp nhàng đến vậy.

“À phải rồi, tay Ngô Úc Văn chú giới thiệu hôm qua cũng tới đây thăm hỏi, tiện thể tranh công vì phá được vụ Tôn Điện Anh.” Đới Lạp vắt tréo chân, vẻ ung dung.

“Anh thấy người này thế nào?”

“Đó là một con chó dữ.” Đới Lạp thẳng thắn trả lời, “Có điều cũng thức thời lắm. Lần này hắn dốc sức giúp chú phá án, chẳng qua là muốn thể hiện với tôi thôi. Tôi đã thỏa thuận xong với hắn rồi, chuẩn bị cho hắn làm chân đội phó tổng đội Huấn luyện quân cảnh trung ương.”

Hứa Nhất Thành tặc lưỡi thầm nghĩ, tổng đội Huấn luyện quân cảnh trung ương có thể coi là quân chính quy dưới quyền Tưởng Giới Thạch, Ngô Úc Văn quá may mắn, nhanh như vậy đã kiếm được một chỗ ngon nghẻ dưới trướng chủ mới. Đới Lạp hơi rướn về phía trước, tủm tỉm cười nhìn Hứa Nhất Thành, “Nhất Thành cần gì phải ngưỡng mộ. Chú cứ nói một câu, tôi sẽ tìm ngay cho một chỗ còn ngon hơn.” Hứa Nhất Thành xua tay lia lịa, “Chúng ta chẳng đã nói rõ rồi ư. Tôi chỉ chuyên tâm vào học thuật thôi, không có hứng thú với chính trị.”

Đới Lạp lại ngả người ra ghế, nuối tiếc nói, “Chú chỉ viết mấy bài báo mà đã dồn cho Tôn Điện Anh thiếu điều thắt cổ tự tử. Bản lĩnh ấy nếu dùng vào việc lớn thì quả là cái phúc cho lãnh tụ, cho quốc gia.”

Nhắc tới Tôn Điện Anh, Hứa Nhất Thành hào hứng hẳn, “Bề trên nói thế nào về vụ này?” Y dốc ra bấy nhiêu tâm huyết, chỉ mong có thể trừng phạt nghiêm minh kẻ đào bới Đông lăng để làm gương. Dường như Đới Lạp cũng đoán được, thong thả đưa một công hàm trên bàn cho y. Hứa Nhất Thành giở ra xem, là một công văn viết tay rồng bay phượng múa: “Đề nghị chuẩn bị đầy đủ, báo cho các cơ quan hữu quan, nhất loạt truy bắt thật nghiêm, điều tra cho ra ngọn ngành, không được lơ là chểnh mảng.” Lạc khoản đề Tưởng Trung Chính.

“Chủ tịch Tưởng đã chính tay hạ lệnh, chú yên tâm rồi chứ?” Đoạn Đới Lạp lại lấy ra mấy công văn ví như lệnh điều động nhân viên tòa án Bắc Bình tới Đông lăng tìm chứng cứ, điện của chủ tịch tỉnh Hà Bắc là Thương Chấn lệnh cho trưởng ty cảnh sát Trương Ấm Ngô điều quân tới bảo vệ Đông lăng Tây lăng, lệnh truy nã kẻ trộm mộ của huyện Tuân Hóa v.v… Tóm lại từ Tưởng Giới Thạch trở xuống, quan chức các cấp lũ lượt ra lệnh, khí thế kinh người, đặt vào thời xưa có thể coi như vụ án lớn sáu bộ cùng hội thẩm.

Hứa Nhất Thành xem một lượt, cũng thấy vững dạ hẳn. Có điều y nhận ra trong tất cả các công văn đều không nhắc tới tên Tôn Điện Anh, chỉ nói mập mờ là “thuộc quân Phụng Thiên” “quân phản loạn” “phường giặc cướp”.

Đới Lạp cũng nhận ra sự nghi hoặc của y, “Công văn chính phủ phải viết theo pháp luật. Trước khi tòa tuyên án, dĩ nhiên không được nói rõ tên họ.” Dứt lời gã thu lại mớ công văn, “Vừa hay có chú lại chơi, gần đây có người gửi tôi một món đồ cổ, nhờ chuyển cho chủ tịch. Chú giám định giúp cho, kẻo lỡ là hàng giả tôi lại bẽ mặt.”

Hứa Nhất Thành cũng tò mò, chẳng biết là món đồ quý giá nhường nào mà được dâng lên Tưởng Giới Thạch. Đới Lạp cả cười, nghiêng người lấy trong ngăn tủ bên cạnh ra. Vừa thấy thứ đó, Hứa Nhất Thành đã bật dậy như bị ong đốt, mặt tái mét, nói không nên lời.

Trong tay Đới Lạp là một thanh kiếm ngắn, thân kiếm hơi cong, vỏ làm bằng da cá mập, nạm đá quý đủ màu, bên trên có chín đường vân vàng rực, cao quý tột bậc, hết sức oai nghiêm. Dù là trong căn phòng tối tăm này, nó vẫn toát lên vẻ ung dung tự tại.

Kiếm Cửu Long của Càn Long đế?!

Hứa Nhất Thành không giấu nổi bàng hoàng. Thanh kiếm này chẳng phải đã bị Sakai Daisuke lấy đi rồi ư? Sao lại rơi vào tay Đới Lạp? Lẽ nào Đoàn khảo sát phong tục China đã bị Đới Lạp khống chế?

“Ai đưa nó cho anh vậy?” Hứa Nhất Thành lớn tiếng hỏi, bất chấp phép tắc. Đới Lạp không ngờ Hứa Nhất Thành lại phản ứng dữ dội như vậy, nhất thời hơi lúng túng, hồi lâu mới đáp, “Tôn Điện Anh đưa đến đấy, nói là lấy được trong lúc đánh dẹp đám thổ phỉ Mã Phúc Điền, Vương Thiệu Nghĩa. Chú xem thử xem?” Dứt lời bèn đưa cho y.

Hứa Nhất Thành đang dồn hết chú ý vào thanh kiếm, không hề nhận ra hàm ý của Đới Lạp. Y cầm kiếm lên đặt ngang trước mặt, tay phải chậm rãi vuốt dọc từ mũi kiếm xuống tới chuôi kiếm rồi nắm chặt lấy.

Khởi nguồn của tất cả bi kịch, kết thúc của hết thảy hoài nghi, cuối cùng cũng được y nắm trong tay.

Hứa Nhất Thành nheo mắt quan sát kỹ từng chi tiết nhỏ của nó, nghiêm túc chưa từng thấy. Chuôi kiếm và đốc kiếm làm từ một khối ngọc thượng hạng hoàn chỉnh, không hề có vết ghép nối, chứng tỏ miếng ngọc thô phải to đến kinh người. Ngọc thô cực phẩm chỉ đẽo thành thế này, mười phần chẳng còn một, đúng là xa xỉ đến kinh người. Ngoài ra bên ngoài chuôi kiếm còn quấn tơ đồng đen để trang trí. Loại đồng đen này là hợp kim đồng được chế luyện theo phương pháp bí mật trong cung đình nhà Thanh, dùng đồng đỏ, vàng, bạc, thiếc, sắt, chì, thủy ngân, bột thủy tinh năm màu và dùi kim cương luyện thành, sản lượng cực thấp, thông thường hay để đúc tượng Phật thờ phụng trong cung. Thanh kiếm này trang trí bằng đồng đen, đủ thấy được coi trọng bậc nào.

Hứa Nhất Thành đờ đẫn như bị ma nhập, chậm rãi rút kiếm ra khỏi vỏ. Thân kiếm Cửu Long dày hơn kiếm bình thường ba phân, có vẻ khá nặng. Thân kiếm xỉn màu, hơi cong, lưỡi kiếm chưa từng nhuốm máu nên không toát lên vẻ sắc bén sát phạt như vũ khí thông thường, mà lại mang phong thái ung dung của một món đồ cúng tế. Hai bên thân kiếm sin sít hoa văn thếp vàng, đi nét rất kỳ công, dường như là thần chú gì đó, chẳng biết có phải của Mật tông không.

Khắc hoa văn thếp vàng lên thân kiếm bằng kim loại không khó. Khó là ở chỗ khắc được những hoa văn chi chít mà vẫn mịn như vậy. Nên biết rằng muốn thếp vàng trước tiên cần khoét rãnh trên bề mặt kim loại, đáy rãnh phải hơi nhám, sau đó nạm tơ vàng vào nện chặt. Đường nét hoa văn Mật tông trên kiếm Cửu Long rất mảnh, chỉ bằng sợi tóc, lại uốn lượn vòng vèo dày đặc, có rất ít khoảng trống. Khoét rãnh đã khó, nạm tơ cũng khó chẳng kém. Người thợ chế tác ra nó quả không phải người phàm nữa.

Chỉ cần nhìn những hoa văn thếp vàng ấy cũng đủ biết thanh kiếm này là hàng thật trăm phần trăm.

Hình vẽ thanh kiếm hằn trên mảnh giấy viết thư của Trần Duy Lễ đã in sâu vào tâm trí Hứa Nhất Thành, giờ hồi tưởng lại cũng hoàn toàn trùng khớp với vật thật, chỉ khác ở chỗ hình trên giấy là thanh kiếm hai thân.

Nhìn thanh kiếm sờ sờ trước mặt, Hứa Nhất Thành lại càng khó hiểu. Ở Đông lăng, Lưu Nhất Minh đã chứng kiến Sakai Daisuke lấy kiếm từ mộ Càn Long đem đi, Tôn Điện Anh cũng không giữ. Sao giờ kiếm này lại rơi vào tay Tôn Điện Anh, còn được lão dâng cho Đới Lạp?

Liệu có khi nào Tôn Điện Anh bỗng dưng hối hận, giết phăng đám người Nhật kia không? Không thể nào, bởi Dược Lai đã đến tận khách sạn Đại Hoa hỏi han, biết được chúng còn quay lại trả phòng thanh toán tiền rồi mới đi. Tôn Điện Anh tàn nhẫn là vậy, nếu đã cướp lại từ tay Đoàn khảo sát phong tục China, ắt sẽ không để kẻ nào còn sống.

Đủ mọi suy đoán xoay vòng trong đầu Hứa Nhất Thành, rồi lần lượt bị phủ định. Đới Lạp giục mấy lần, y mới bừng tỉnh.

“Thứ này có vấn đề à?” Đới Lạp lo lắng hỏi.

Hứa Nhất Thành siết chặt thanh kiếm trong tay, “Anh Vũ Nông này, tôi có một yêu cầu hơi quá đáng.”

“Chú cứ nói đi.”

“Cho tôi mượn kiếm này mấy hôm được không?”

Đới Lạp bối rối ra mặt. Nếu là của gã thì không sao, nhưng thứ này được nhờ giao cho Tưởng Giới Thạch, gã không muốn tự tiện giữ lại. Hứa Nhất Thành khẩn thiết nài, “Tôi không định chiếm làm của riêng đâu, kiếm này có ý nghĩa hết sức quan trọng với tôi nên tôi chỉ muốn mượn dùng vài hôm thôi, bảo đảm sẽ trả lại nguyên vẹn cho anh.”

Đới Lạp phân vân, “Tôi không ngại chuyện đó. Nhưng ngày mai tôi phải bay về Nam Kinh rồi, liệu chú có kịp không?” Hứa Nhất Thành nói ngay, “Dùng xong tôi sẽ đích thân đem đến Nam Kinh, anh thấy sao?” Ánh mắt y tha thiết mà quật cường, tựa hồ không đạt được mục đích không thôi. Đới Lạp cũng là người cố chấp, song không sao chống đỡ nổi ánh mắt khẩn nài của Hứa Nhất Thành. Gã chắp tay sau lưng đi lại trong phòng mấy bước rồi chịu thua, “Được rồi, chúng ta quen biết bấy lâu, tôi cũng hiểu con người chú. Thôi thì giúp chú lần này vậy. Có điều tôi không chỉ muốn thanh kiếm này đến Nam Kinh đâu.”

Thấy Hứa Nhất Thành gật đầu không chút do dự, Đới Lạp nhướng mày, tức đến suýt phì cười, “Tôi năm lần bảy lượt mời mọc chú, thế mà không đủ sức thuyết phục bằng một thanh kiếm ư?”

Xem chừng Hứa Nhất Thành đang kích động, không còn tâm trạng trò chuyện nữa, Đới Lạp đành tiu nghỉu đứng dậy tiễn khách. Trước lúc Hứa Nhất Thành đi, Đới Lạp dặn y khi nào xong việc thì đến vườn Ân tìm Mã Hán Tam, đó là cấp phó của gã để lại Bắc Bình, người này sẽ sắp xếp cho y đến Nam Kinh.

Cầm kiếm Cửu Long rời vườn Ân, Hứa Nhất Thành đi liêu xiêu như say rượu. Tâm trạng y hết sức hưng phấn, song lại khó mà tập trung, vô số nghi vấn dồn dập ùa đến khiến y không sao ứng phó, cũng chẳng thể sắp xếp lại suy nghĩ được. Người xung quanh thấy y lăm lăm thanh kiếm, bước đi loạng choạng đều dạt ra xa, sợ kẻ say hành hung.

Hứa Nhất Thành tạm thời chưa nói với ai cả, y cần yên tĩnh một mình. Thế nên trong vô thức y lại quay về căn nhà hai tầng ở Thanh Hoa. Lý Tế lúc này đang ở gò Ân, An Dương chủ trì công tác khai quật, cả khu nhà chỉ có một bác lao công già ở lại trông nom, vô cùng yên tĩnh. Hứa Nhất Thành về phòng làm việc của mình, đập ngay vào mắt là tấm bài vị của Trần Duy Lễ.

Hứa Nhất Thành lau sạch bụi bặm rồi đặt kiếm Cửu Long nằm trước bài vị còn mình khoanh chân ngồi xuống đối diện, ngẩn ngơ nhìn thanh kiếm suốt một ngày. Hứa Nhất Thành không ăn không uống, cứ thẫn thờ ngồi lặng như vậy, tưởng chừng linh hồn Trần Duy Lễ sẽ hiện ra giải thích cho y mọi chuyện.

Tiếc rằng bài vị chỉ là bài vị, bảo kiếm chỉ là bảo kiếm, cả hai đều là vật chết, không thể kể với y câu chuyện đằng sau chúng.

Đến tối, nghe tiếng gõ cửa dè dặt, Hứa Nhất Thành mới miễn cưỡng quay đầu nhìn ra. Bác lao công đẩy cửa bước vào nói, thấy anh cả ngày không ăn không uống nên tôi lên xem. Hứa Nhất Thành gượng cười đáp không sao. Bác ta bèn nói vậy tôi về trước đây, nhưng mới đi không bao lâu lại thình lình vòng lại, “À phải, mấy bữa trước anh đi vắng, có người đưa tới cho anh một phong thư, tôi để trên bàn đây.”

“Ồ, là ai vậy?” Tâm tư Hứa Nhất Thành đang đặt cả vào kiếm Cửu Long, hoàn toàn không để tâm tới những việc lặt vặt.

“Một người Nhật, tên là Ki ki gì đó, nghe lạ lắm.”

Mắt Hứa Nhất Thành chợt tóe lửa, y lồm cồm đứng dậy, run run lê đôi chân tê rần lao tới bàn, thấy một phong thư xanh nhạt đặt trên cùng. Ngoài bì thư có một hàng chữ ngay ngắn bằng mực tàu: “Kính gửi anh Hứa Nhất Thành”.

Bác lao công cũng hết hồn trước hành động bộc phát của Hứa Nhất Thành, đứng đờ ra tại chỗ không dám đi. Hứa Nhất Thành hỏi lá thư được đưa tới khi nào, người đưa có nhắn nhủ gì không, bác ta ngẫm nghĩ hồi lâu rồi nói khoảng chừng mùng mười tháng Bảy, không thấy nhắn gì thêm cả.

Hứa Nhất Thành nhẩm lại, thấy vừa đúng thời gian Tôn Điện Anh hôi của Đông lăng rồi rút lui, bấy giờ y vẫn đang hôn mê trong bệnh viện Liên Hiệp.

Bác lao công lật đật đi khỏi, Hứa Nhất Thành vội mở phong thư, thấy bên trong là một bức thư viết bằng tiếng Trung, không dài lắm, tuy lời lẽ không tao nhã nhưng về cơ bản vẫn rõ ràng suôn sẻ, quả nhiên là do Kido Yuzo viết.

Trước hết Kido Yuzo cảm tạ ơn cứu mạng của Hứa Nhất Thành, sau đó nói đã kết thúc đợt khảo sát ở Trung Quốc, phải về Nhật Bản trước, mong rằng nếu y có cơ hội sang Nhật, đôi bên sẽ trao đổi học thuật. Kido Yuzo nói lịch sử của Trung Quốc cần có học giả Trung Quốc tham gia, nhân tài như anh Hứa đây sẽ phát huy tác dụng rất lớn, Trung Nhật cần bắt tay với nhau phá vỡ thế độc quyền của người phương Tây trong nghiên cứu lịch sử Đông Á.

Bức thư rất ngắn, chủ yếu là những lời khách sáo. Có thể thấy Kido Yuzo là một kẻ thực thà, vẫn cho rằng mình chỉ tham gia vào một cuộc khảo sát điền dã bình thường, còn vui vẻ gửi thư cho Hứa Nhất Thành, hy vọng có thể tiếp tục trao đổi học thuật với y. Dường như Kido Yuzo hoàn toàn không hay biết về những đấu đá công khai lẫn ngấm ngầm quanh Đông lăng, có lẽ trong đoàn khảo sát chỉ có mấy kẻ như Sakai Daisuke và Anegakoji Eitoku biết chuyện mà thôi.

Lá thư không có tin tức giá trị nào song Hứa Nhất Thành vẫn đọc đi đọc lại mấy lượt, lần ra được vài manh mối.

Kido Yuzo từng kể với Hứa Nhất Thành, chuyên ngành của mình là binh khí và tinh luyện kim loại thời cổ đại, hơn nữa còn khoe rằng mình am hiểu lĩnh vực này nhất trong cả đoàn khảo sát. Vậy có khi nào Sakai Daisuke mời Kido Yuzo vào đoàn khảo sát vì thanh kiếm Cửu Long này không? Biết đâu thanh kiếm này ẩn giấu bí mật gì đó mà chỉ những chuyên gia có thâm niên như Kido Yuzo mới phân tích được?

Kido Yuzo là tên mọt sách, ngoài học thuật ra chẳng để tâm đến một thứ gì. Trong mắt Sakai Daisuke, đó là một người vô cùng thích hợp, bởi Sakai Daisuke chẳng cần tiết lộ bất cứ thông tin gì, vẫn có thể yêu cầu Kido Yuzo nghiên cứu về kiếm Cửu Long.

Đông lăng bị trộm từ đầu tháng Bảy, sau đó Sakai Daisuke mang kiếm Cửu Long về Bắc Kinh. Đến mùng mười Kido Yuzo gửi thư cho Hứa Nhất Thành rồi lập tức về nước. Đáng chú ý là trong lá thư này, Kido Yuzo viết rằng “phải về Nhật Bản trước”, nói cách khác, có lẽ đoàn khảo sát lúc này đã chia làm hai nhóm, Kido đã hoàn thành công tác nghiên cứu, không cần ở lại nữa, nhưng vẫn còn một nhóm tạm thời lưu lại Trung Quốc, rất có khả năng là Sakai Daisuke và Anegakoji Eitoku, những kẻ thực sự tham dự vào kế hoạch Cửu Long này. Chắc hẳn trong mấy ngày này Kido Yuzo đã “nghiên cứu” gì đó về kiếm Cửu Long, sau khi hết giá trị sử dụng, lập tức được đưa về nước. Còn bọn Sakai Daisuke chẳng hiểu sao lại đem kiếm trả cho Tôn Điện Anh, rồi âm thầm bỏ đi, không rõ tung tích.

Hứa Nhất Thành giơ kiếm Cửu Long lên trước mắt, suy nghĩ rất lung. Xem ra y lại một lần nữa hiểu lầm ý đồ của Sakai Daisuke. Thoạt đầu Hứa Nhất Thành đoán Sakai Daisuke nhằm vào đồ tùy táng trong mộ Càn Long, sau đó lại đoán là kiếm Cửu Long của Càn Long, song đều sai cả.

Sakai Daisuke hoàn toàn không hứng thú với thanh kiếm. Thứ hắn muốn có lẽ là thông tin gì đó trên kiếm Cửu Long. Sau khi lấy được thông tin này, kiếm Cửu Long không còn giá trị gì nữa, hắn mới trả lại cho Tôn Điện Anh. Có lẽ ngay từ đầu Sakai Daisuke đã giao ước với Tôn Điện Anh rằng sau khi quật mộ Càn Long, xin mượn tạm kiếm Cửu Long ba ngày. Thấy món hời như thế, dĩ nhiên Tôn Điện Anh phải nhận lời ngay.

Hứa Nhất Thành nhăn nhó cười, điều tra lâu như thế mà tới giờ mới tiếp cận được ý đồ thực sự của kẻ địch.

Giỏi lắm, người Nhật huy động nhiều thuốc phiện và quan hệ chính trị như thế, vòng vo tam quốc mãi, chỉ vì bí mật trong thanh kiếm Cửu Long này thôi sao? Rốt cuộc đó là bí mật kinh thiên động địa nhường nào?

Xưa nay y vẫn luôn cảnh giác với người Nhật. Tôn Điện Anh tham lam, song đó cũng chỉ là hành vi của người Trung Quốc, còn người Nhật hâm mộ văn hóa Trung Hoa đến phát cuồng, nếu nảy lòng tham thì đó mới là họa lớn của dân tộc, không sao ngăn cản nổi.

Bí mật càng kinh khủng thì càng gây tổn thất nhiều hơn.

Vấn đề bây giờ là bí mật đó có còn trong kiếm Cửu Long không?

Hứa Nhất Thành lật đi lật lại thanh kiếm, ngắm nghía mấy lần, chẳng thấy chỗ nào đáng nghi cả. Y tìm hiểu để đọc những hoa văn trên thân kiếm, song vẫn hoang mang không rõ. Tuy tay nghề giám định của y cao siêu nhưng chuyện này không liên quan nhiều đến giám định. Giờ ngay cả phải tìm thứ gì còn không biết, nói gì đến chuyện tìm bằng cách nào.

Từ khi nhận ra Sakai Daisuke còn ấp ủ âm mưu khác, Hứa Nhất Thành vô cùng lo lắng. Giờ đã tháng Tám, ở đâu đó, Sakai Daisuke nhất định đang tiến tới gần mục tiêu của hắn. Ở Bắc Kinh, không, giờ phải gọi là Bắc Bình, y lần lữa thêm ngày nào là Sakai Daisuke lại tăng thêm khả năng thành công ngày đó.

Hứa Nhất Thành xem đi xem lại thanh kiếm vẫn không tìm được manh mối. Nhìn mãi mắt cũng nhức, y đành nghỉ một lát, để mai tính. Y nheo mắt lại, quờ tay tìm bao tra kiếm vào. Song ngón tay vừa lướt trên vỏ bao kiếm, y chợt ồ lên.

Bao kiếm được làm từ da cá mập, nạm đá quý đủ màu và hoa văn rồng vàng rực, cực kỳ tinh xảo. Cá mập còn gọi là cá nhám, da dày, dẻo mà ráp, bên trên chi chít những nốt sần bằng hạt gạo, tự hình thành những đường vân, dù dính máu cũng không trơn. Thời Thanh rất chuộng dùng binh khí trang trí bằng da cá mập để tỏ sự dũng mãnh. Bao kiếm này được làm bằng da cá mập Nam Hải, các nốt sần rất to, gọi là hột vua hoặc đốm sao, sờ tay có cảm giác tê tê.

Vừa rồi ngón tay Hứa Nhất Thành chạm vào, phát hiện thấy một đoạn da không được nhám, như có thứ gì cắt ngang. Y vội bật đèn bàn lên xem kỹ, cuối cùng phát hiện ở một chỗ khuất có mấy đường vân không khớp với đường vân trên da cá. Vì da cá mập tối màu, hoa văn chìm nên không nhìn kỹ khó mà phát hiện được.

Hứa Nhất Thành lại dùng cách cũ, bôi mực lên da cá rồi rập lại vào giấy. Mấy đường vân được che giấu rất khéo nọ rốt cuộc cũng phơi bày. Hứa Nhất Thành nhìn thấy giữa những hoa văn da cá bán bầu dục, xuất hiện một hình vẽ hết sức tinh xảo, phần lớn dựa trên những đường vân vốn có trên da cá, chỉ ở những chỗ quan trọng mới phải bổ sung thêm vài nét.

Hình vẽ này gồm bốn áng mây tụ lại, ở giữa có thêm một vầng thái dương, Hứa Nhất Thành cũng chẳng lạ lẫm gì, bởi nó giống hệt dấu ấn trên Kim Đáy Bể, là hoa văn vén mây không sai vào đâu được.

Hứa Nhất Thành hết sức bất ngờ. Kim Đáy Bể là do một người thợ khéo họ Âu Dương làm tặng Minh Nhãn Mai Hoa từ thời Càn Long, hoàn toàn trùng khớp với thời gian Càn Long ra lệnh đúc kiếm Cửu Long. Xem ra ông ta không chỉ tạo ra Kim Đáy Bể, mà còn được Càn Long triệu đi đúc kiếm.

Mỗi người thợ đều có lòng kiêu hãnh riêng. Bất luận là thợ gốm hay thợ đúc đồng, họ đều sẽ nghĩ cách để lại dấu ấn của mình trên đồ vật. Người thợ họ Âu Dương này là một thiên tài ẩn dật, nên lòng kiêu hãnh càng mãnh liệt. Lúc rèn Kim Đáy Bể cho Minh Nhãn Mai Hoa, ông ta cũng không quên để lại hoa văn vén mây trên lớp da trâu. Khi đúc kiếm Cửu Long cho Càn Long, chắc chắn ông ta cũng muốn lưu dấu ấn của mình trên thanh kiếm.

Có điều đây là vật ngự dụng, là vũ khí Càn Long định đem xuống âm ti sử dụng, từ hình dạng cho đến từng chi tiết đều có ý nghĩa đặc thù. Càn Long nhất định không cho phép một người thợ để lại dấu ấn của mình trên đó. Người thợ họ Âu Dương này cũng to gan quá chừng, lại nghĩ ra cách lợi dụng chất liệu da cá mập, âm thầm để lại một hoa văn vén mây trên kiếm Cửu Long.

Nhìn dấu ấn ấy, Hứa Nhất Thành không khỏi bái phục tay nghề tinh tế cùng lòng can đảm của người thợ họ Âu Dương.

Song phát hiện này chỉ làm y phấn khởi được chốc lát.

Kim Đáy Bể và kiếm Cửu Long do cùng một người làm ra, quả là một sự tình cờ thú vị, nhưng thế thì sao chứ? Điều này hoàn toàn chẳng liên quan gì tới kế hoạch của Sakai Daisuke.

Y đã mệt nhoài bèn đặt kiếm Cửu Long xuống, nằm ngay ra sàn ngủ thiếp đi.

Khi ánh bình minh ló dạng lần nữa, Hứa Nhất Thành khẽ cựa quậy, rất lâu sau, y đột ngột ngồi bật dậy, tóm lấy kiếm Cửu Long đặt trên sàn nhà, hai mắt đỏ ngầu, đầu tóc rối bù, hoàn toàn không còn dáng vẻ tiêu sái trước đây.

Chợt mùi cháo thơm ngát phả vào mũi y, Hứa Nhất Thành nghi hoặc ngẩng lên, phát hiện trong phòng làm việc đã có thêm một người, đang lo lắng nhìn mình.

Là Hải Lan Châu, cô đang bưng một hộp đồ ăn sơn bóng, bên trong đựng cháo táo đỏ nghi ngút khói, một đĩa bánh đậu, một ít dưa và hai chiếc quẩy.

“Sao cô lại đến đây?” Hứa Nhất Thành mệt mỏi hỏi. Hải Lan Châu lần lượt bày từng món trong hộp ra, vừa bày vừa trách móc, “Tôi thấy lúc rời quán trà anh cứ thẫn thờ như người mất hồn nên hơi lo. Hỏi mấy người mới biết anh quay về Thanh Hoa. Tôi bèn tới xem, tiện thể mang cho anh ít đồ ăn, nghĩ bụng chắc anh không tự nấu được. Ồ… Đây… Lẽ nào là kiếm Cửu Long?”

Hải Lan Châu tròn mắt cúi xuống toan nhìn kỹ báu vật trong truyền thuyết, song Hứa Nhất Thành đã giữ chặt lấy thanh kiếm. Hải Lan Châu hơi ngẩng mặt lên, giận dữ hỏi, “Anh làm gì vậy? Sợ tôi báo với tông thất đòi lại à?” Thấy Hứa Nhất Thành cười khì, Hải Lan Châu run run môi, “Không ngờ trong lòng anh, tôi lại là loại người như vậy!” Đoạn dằn mạnh bát cháo xuống, quay người toan bỏ đi.

Hứa Nhất Thành vội níu tay cô, “Tôi chỉ đang mải nghĩ ngợi thôi, xin lỗi cô.” Hải Lan Châu ứa nước mắt vì tức, đáp khẽ, “Lúc ở thành Bình An, anh đâu có đối xử với tôi như vậy…”

Mới nói được nửa câu, Hải Lan Châu chợt thấy Hứa Nhất Thành biến sắc. Y nhìn trừng trừng, song không nhìn vào cô, miệng lẩm bẩm gì đó. Hải Lan Châu hơi hoảng, “Nhất Thành, anh làm sao vậy? Nhất Thành?” Hứa Nhất Thành chợt giơ tay ra tóm chặt hai vai Hải Lan Châu, chóp mũi hai người gần như chạm vào nhau. Hải Lan Châu thở dốc, tim như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực.

“Ở thành Bình An! Ông chủ quán trọ trông nom cô! Ông chủ Âu Dương!” Nhưng miệng y lại gọi một cái tên khác.

Hải Lan Châu ngây người, không hiểu sao y lại nhắc tới chuyện này.

“Ông ta chẳng phải là con cháu nhà Âu Dương ư?” Hứa Nhất Thành hưng phấn nói to. Sao y lại quên béng mất chuyện quan trọng thế nhỉ! Lần đầu họ tới thành Bình An, khi Hứa Nhất Thành lấy ra bộ Kim Đáy Bể dưới gian Âm ti đã bị ông chủ quán trọ nhận ra hoa văn vén mây trên đó, để trả nợ ân tình, ông ta hứa sẽ bảo vệ Hải Lan Châu trong những ngày ở thành Bình An. Nhờ ông ta giúp đỡ, Hải Lan Châu cũng bớt được rất nhiều phiền toái trong thời gian bị bọn thổ phỉ giam giữ.

Người thợ họ Âu Dương dưới thời Càn Long là thiên tài, dòng họ nhà ông ta vẫn truyền thừa đến tận ngày nay, liệu có còn giữ được tay nghề tổ tiên không? Có nhìn ra được chỗ diệu kỳ của kiếm Cửu Long không?

Hứa Nhất Thành không biết, nhưng y đành đánh cược một phen. Không, đây thậm chí còn không thể gọi là đánh cược, mà là lựa chọn duy nhất.

Nghĩ tới đó, Hứa Nhất Thành chẳng buồn giải thích với Hải Lan Châu nữa, múc vội vài thìa cháo rồi cầm kiếm hối hả rời trường Thanh Hoa. Hải Lan Châu ngơ ngác chẳng hiểu đầu đuôi thế nào, lại sợ y gặp chuyện, đành lẽo đẽo đi theo.

Hứa Nhất Thành đến thẳng Sở Cảnh sát, chẳng bao lâu đã biết được tung tích ông chủ Âu Dương.

Sau khi thành Bình An bị Tôn Điện Anh đánh lén, Mã Phúc Điền chết trận, Vương Thiệu Nghĩa một mình bỏ chạy, những kẻ khác không mất mạng thì bị bắt. Ông chủ Âu Dương là tâm phúc quan trọng của Vương Thiệu Nghĩa nên cũng bị bắt giam. Tôn Điện Anh không hành quyết ngay mà giải những kẻ này tới Sở Cảnh sát Kinh thành, khoe rằng đã đánh thắng bọn phỉ, bắt được tù binh.

Xui xẻo một nỗi, kẻ đóng giả làm con buôn cổ vật bị Vương Thiệu Nghĩa bắn chết trong quán trọ là gián điệp quân Tấn*, còn có quan hệ với Diêm Tích Sơn. Vương Thiệu Nghĩa bỏ trốn, món nợ này đổ hết lên đầu ông chủ Âu Dương. Gộp thêm mấy vụ án bao năm nay hai tên Mã Phúc Điền và Vương Thiệu Nghĩa gây ra ở Trực Lệ, lần này cũng xử cả thể.

❖ Quân Tấn Tuy, còn gọi là quân Tấn, quân Diêm, là một lực lượng quân sự quan trọng hoạt động chủ yếu ở Sơn Tây, Tuy Viễn và Hoa Bắc dưới thời Dân Quốc, thủ lĩnh là Diêm Tích Sơn, Thương Chấn, Từ Vĩnh Xương v.v…

Giờ ông chủ Âu Dương bị định đến mấy tội danh, tòa án đã phán phải xử bắn. Khi Hứa Nhất Thành hay tin thì ông ta đang trên đường bị giải ra pháp trường.

Hứa Nhất Thành bàng hoàng, vội đi tìm Ngô Úc Văn. Ngô Úc Văn tìm được chủ mới, đang lúc xuân phong đắc ý, nhờ ơn Hứa Nhất Thành giới thiệu, dĩ nhiên không dám thất lễ. Có điều hắn nói vụ án của ông chủ Âu Dương quá lớn, rất nhiều thân chủ đang đợi, e rằng không thể hoãn thi hành án, cùng lắm chỉ cho phép họ gặp riêng nhau trước lúc hành hình thôi.

“Lúc trước may được anh khuyên bảo, tôi mới có ngày nay.” Ngô Úc Văn cầm bút máy lên ký công văn đưa cho y.

Hứa Nhất Thành chẳng còn bụng dạ nào hàn huyên, giật lấy công văn toan đi ngay. Ngô Úc Văn nheo mắt nhìn sang vách tường bên cạnh, nói bâng quơ, “Nhân vụ Âu Dương này, Sở Cảnh sát đang chuẩn bị cờ thưởng để cảm ơn quân đoàn trưởng Tôn có công diệt phỉ, giúp chúng tôi phá được một loạt án mốc meo bao năm nay.” Hắn vừa dứt lời, Hứa Nhất Thành đã tất tả bỏ đi. Ngô Úc Văn nhún vai lẩm bẩm, “Tôi đã nhắc nhở anh rồi đấy.” Đoạn co tay lại, giấu chuỗi ngọc chầu* rực rỡ vào tay áo.

❖ Chuỗi ngọc dài, đeo khi mặc triều phục của nhà Thanh.

Hứa Nhất Thành cầm công văn của Ngô Úc Văn, chạy thẳng đến pháp trường ở ngoại ô phía Tây, lòng như lửa đốt. Ngô Úc Văn cũng tận nghĩa, còn điều riêng một chiếc xe đưa họ đi. Trên xe, Hải Lan Châu thừa cơ hỏi han, cuối cùng Hứa Nhất Thành cũng kể cho cô những suy đoán của mình về kiếm Cửu Long. Hải Lan Châu hỏi sao anh dám chắc ông chủ Âu Dương biết bí mật về kiếm Cửu Long? Dù có biết thì ông ta cũng sắp chết, anh làm sao bắt ông ta nói ra được? Chẳng lẽ định dựa vào sức mình anh, miễn án tử cho ông ta ư?

Hứa Nhất Thành không sao trả lời được, chỉ nói đến đâu hay đến đó. Nhìn ánh mắt kiên định của y, Hải Lan Châu biết có khuyên cũng vô dụng, đành thở dài thườn thượt.

Pháp trường nằm tại một mảnh đất hoang dưới chân núi, gần khe Lưu Hà, cách Trường Tân Điếm không xa. Xe đến nơi thì chỉ còn một tiếng nữa là hành hình. Phạm nhân đã bị nhốt vào gian nhà vách đất cạnh đó. Đội hành hình đang kiểm tra súng ống, dân chúng hay tin kéo tới xúm xít đứng xem, trường nữ Từ Đức và Đại sứ quán Đức đều cử đại diện tới, muốn tận mắt chứng kiến đám thổ phỉ kia đền tội.

Hứa Nhất Thành nhảy xuống, dặn Hải Lan Châu ngồi trên xe đợi mình, rồi cầm công văn của Ngô Úc Văn xăm xăm đi qua mấy trạm gác, cuối cùng cũng gặp được ông chủ Âu Dương trong gian nhà vách đất. Ông ta đã gầy tọp đi, tinh thần suy sụp, sắc mặt ảm đạm. Có lẽ không ngờ người đến lại là Hứa Nhất Thành, ông ta trợn tròn mắt, song vẻ mặt hơi đờ đẫn.

“Ai ngờ cuối cùng anh lại là người đến tiễn tôi.” Ông chủ Âu Dương cảm thán.

“Ông vẫn khỏe chứ?”

Chẳng ngờ ông ta vẫn còn cười được, “Vẫn khỏe, vẫn khỏe. Giờ tôi là miếng mồi ngon của Sở Cảnh sát, giúp họ phá được mấy chục vụ án đắp chiếu, lý nào lại không đối tốt với tôi? Sao anh lại đến đây?” Ông ta hết sức bình thản, hoàn toàn không giống người sắp chết.

Hứa Nhất Thành chăm chú nhìn ông ta, “Tôi đến đây nhờ ông giúp cho một việc.”

Ông chủ Âu Dương phì cười, “Một tiếng nữa tôi bị xử bắn rồi, còn giúp gì được anh chứ? Huống hồ hôm nay tôi rơi vào cảnh này đều nhờ ơn anh cả, sao tôi phải giúp kẻ thù?”

Hứa Nhất Thành đáp, “Ông lầm rồi, ông rơi vào cảnh hôm nay là bởi đi nhầm đường. Ác giả ác báo, dù không có tôi, sớm muộn ông cũng gặp quả báo. Năm xưa cụ Âu Dương tài hoa làm vậy, sao đến đời ông lại đi làm thổ phỉ?” Ông chủ Âu Dương nhướng mày, “Đây là giọng nhờ vả của anh đấy à?”

“Nếu tôi nói ngon nói ngọt, ông cũng chẳng chịu tin, chi bằng nói thẳng.”

Ông chủ Âu Dương cười ha hả, “Được lắm, anh hay thật đấy. Thực ra từ khi nhập bọn, tôi đã biết sớm muộn sẽ có ngày này. Đường tôi đi do tự tôi chọn lựa, chẳng có gì oán hận, coi như đi đến cuối đường thôi.” Nói rồi ông ta quay nhìn ra cửa sổ, không mảy may bi thương, chỉ thấy sảng khoái vì được giải thoát.

“Nhưng tôi thấy ông vẫn rất coi trọng vinh quang của tổ tiên. Bằng không đã chẳng vừa thấy Kim Đáy Bể là muốn thay tổ tiên trả nợ ân tình cho Minh Nhãn Mai Hoa.” Ông chủ Âu Dương xua tay, “Tôi không có con cái, nhà Âu Dương đến đời tôi là tuyệt tự. Anh khỏi phải tâng bốc, có gì cứ nói thẳng ra đi. Tốt xấu gì tôi cũng muốn làm chút việc thiện để xuống dưới kia khỏi bị tổ tiên mắng mỏ.”

Hứa Nhất Thành bèn lấy kiếm Cửu Long ra. Tay lính gác đứng cạnh thấy binh khí liền căng thẳng giơ ngay súng lên. Ông chủ Âu Dương thản nhiên nhìn gã rồi lên giọng trấn an như răn dạy học trò, “Đây là đồ tế lễ, không phải binh khí thật đâu, không cần lo lắng.”

“Trên kiếm Cửu Long có hoa văn vén mây, hẳn cũng là do tổ tiên ông làm ra. Tôi muốn biết có phải bên trong ẩn chứa bí mật gì không?”

Vừa thấy thanh kiếm, vẻ suy sụp của ông ta thoắt chốc tan biến, nháy mắt đã lấy lại đầy đủ tinh, khí, thần.

Hứa Nhất Thành thầm cảm thán, ông chủ Âu Dương theo giặc bấy lâu, song trong lòng vẫn giữ được một trái tim người thợ.

Ông chủ Âu Dương xem xét hồi lâu rồi nói đúng là dấu ấn của tổ tiên nhà tôi, có điều tôi cũng không rõ bên trong có ẩn giấu bí mật gì không nữa. Tay nghề của nhà Âu Dương truyền đến đời tôi đã hao hụt nhiều rồi, tôi đành cố hết sức thôi. Anh có mang Kim Đáy Bể không?

Hứa Nhất Thành vội tháo đai da bò quanh thắt lưng, trải bộ Kim Đáy Bể ra. Ông chủ Âu Dương nhặt lấy mấy món, nào xẻng nào móc, còn cả một cây bàn chải lông mảnh, kiểm tra kỹ càng từng đường chạm trổ trên kiếm. Hứa Nhất Thành phát hiện thủ pháp kiểm tra và cách sử dụng công cụ của ông ta rất độc đáo, trước nay chưa từng thấy. Thực không hổ là bí quyết gia truyền của nhà Âu Dương, xem ra Minh Nhãn Mai Hoa vẫn chưa phát huy được hết công dụng của Kim Đáy Bể.

Rất nhiều kỹ nghệ của Trung Hoa đều như vậy cả, mỗi đời chỉ truyền cho một người, không tiết lộ rộng rãi, một khi gặp phải con cháu hư hỏng là thất truyền. Những gì người đời sau thấy được chỉ là bề nổi của tảng băng chìm mà thôi.

Loay hoay một lúc lâu, đã sắp đến giờ hành hình, ông chủ Âu Dương chợt buột ra một tiếng cảm thán. Hứa Nhất Thành vội hỏi sao rồi, ông ta đáp, “Tôi quả phát hiện ra một chỗ hơi lạ, nhưng không biết có phải thứ anh muốn tìm không?”

“Ở đâu cơ?”

Ông ta cầm kiếm lên, giơ ngang rồi trỏ lưỡi kiếm bảo, “Anh có thấy lưỡi kiếm này dày hơn bình thường không?” Hứa Nhất Thành nhìn, thấy quả là vậy. Đao kiếm bình thường đều cố làm cho lưỡi càng mỏng càng tốt, tốt nhất là mỏng như cánh ve. Song kiếm Cửu Long lại dày gần hai chỉ, Hứa Nhất Thành ngỡ rằng đây là đồ tế lễ, không dùng để chém giết nên người ta làm lưỡi dày để đeo như đồ trang sức, nhưng nghe ông chủ Âu Dương nói, hình như còn có bí ẩn khác.

Ông chủ Âu Dương hỏi, “Anh đã bao giờ nghe nói tới càn khôn trong kiếm chưa? Có nghĩa là giấu thêm một thanh kiếm mềm trong thân kiếm ấy. Khi giao đấu, kiếm bị kẻ địch đỡ được, chỉ cần xoay tay là rút được thanh kiếm mềm bên trong ra, bất ngờ tấn công.”

“Ý ông nói thanh kiếm Cửu Long này cũng có càn khôn trong kiếm?”

“Chắc vậy, đặc trưng điển hình là thân kiếm hơi dày. Nếu là kiếm đơn thì thân và chuôi kiếm sẽ được gắn liền vào nhau ở đốc kiếm, không nhìn ra mối nối, còn nếu là càn khôn trong kiếm thì đốc kiếm phải làm nhiệm vụ cố định thân cả hai thanh kiếm nên cần dùng tơ nối. Vừa rồi tôi kiểm tra thấy giữa đốc kiếm bằng ngọc và thân kiếm có dấu vết của tơ nối, có điều đã bị hoa văn khảm đồng khéo léo che đi. Trên hoa văn đồng có dấu nạy, lại hơi chệch so với vị trí ban đầu nên tôi mới phát hiện ra dấu vết của tơ nối.”

“Thế nghĩa là sao?”

Ông chủ Âu Dương ngẩng lên, “Nghĩa là trong kiếm Cửu Long này còn giấu một thanh kiếm khác, hơn nữa từng bị người ta mở ra.”

Hứa Nhất Thành nhớ ngay tới tay học giả chất phác mà nhạy bén Kido Yuzo.

Ông chủ Âu Dương cầm dụng cụ lên, vạch hoa văn khảm đồng ra, khêu những mối tơ nối, vừa xoay chuôi kiếm, quả nhiên rút ngay ra được một lưỡi kiếm khác. Trông thấy thanh kiếm thứ hai, cả hai càng thêm kinh ngạc.

Kiếm Cửu Long làm theo kiểu Mông cổ, thân kiếm hơi cong, song thanh kiếm ngắn này lại theo phong cách Trung Nguyên, chỉ có phần thân, nối liền với đốc kiếm ngọc, tạo hình cổ xưa, loang lổ gỉ sét, không thể so với phong thái ung dung hoa lệ của thanh kiếm bên ngoài. Hứa Nhất Thành nhớ tới hình vẽ lưỡi kiếm in hằn trên giấy, cũng là một thẳng một cong. Y cứ ngỡ người vẽ tiện tay sửa lại, đến giờ mới hiểu đó là ám chỉ càn khôn trong kiếm.

“Hừm, nhìn hình dạng có vẻ là kiếm thời Đường.” Ông chủ Âu Dương tặc lưỡi. Hứa Nhất Thành hỏi sao biết được, ông ta nói kiếm thời Đường khác những thanh kiếm sau này, thân kiếm thường gắn với chuôi có vòng xỏ tay, lại chỉ có một bên lưỡi kiếm, rất dễ nhận ra.

Càn khôn trong kiếm thông thường đều phải thiết kế chế tác theo đôi. Bên trong thanh kiếm lưỡi cong theo kiểu Mông cổ từ thời Thanh này lại giấu một thanh kiếm thẳng thời Đường, chẳng hiểu Càn Long nghĩ gì nữa.

Hứa Nhất Thành kể với ông chủ Âu Dương, Càn Long đúc thanh kiếm này là chuẩn bị sẵn một món khí giới cõi âm đem theo xuống suối vàng chém đứt gió Hoàng sát, để nó khỏi làm lung lay gốc rễ nhà Thanh. Ông chủ Âu Dương ồ lên, bảo thảo nào. Loại vũ khí chôn theo người chết này không thể tự nhiên đắp lò đúc được, mà phải lấy một thanh kiếm cổ làm vật dẫn, mượn sát khí của nó rồi đúc một thanh kiếm mới bọc ra ngoài, mới có thể trấn tà ngăn sát.

Chớ tưởng những ghi chép về kiếm cổ trong sử sách có thể truy đến tận đời Tam hoàng Ngũ đế, thực ra những thanh kiếm còn lưu truyền đến nay chẳng được bao nhiêu. Kiếm Cửu Long này có thể tìm được một thanh kiếm thời Đường làm vật dẫn cũng đã khó lắm rồi. Vậy mà tổ tiên họ Âu Dương xưa kia có thể kết hợp hai thanh kiếm làm một, không để lộ mảy may sơ hở, quả là tài hoa tột đỉnh.

Chợt bên ngoài vang lên tiếng gõ cửa, ông chủ Âu Dương đặt kiếm xuống, vỗ tay, “Thôi, đến giờ rồi, tôi phải lên đường đây. Những chuyện còn lại anh tự mày mò đi nhé.” Dứt lời ông ta đưa hai tay ra sau lưng để lính gác trói lại dẫn ra ngoài.

Hứa Nhất Thành gọi với theo, “Ông còn tâm nguyện nào chưa hoàn thành không, tôi sẽ thực hiện giúp ông.” Ông chủ Âu Dương ngoái lại cười đáp, “Món nợ ân tình của nhà Âu Dương cuối cùng tôi cũng kịp trả xong trước khi chết, thế là hay rồi.”

Ông ta lẩm bẩm mãi hai từ “hay rồi”, gật gật đầu rồi thong dong bước ra ngoài, vẻ mặt thản nhiên, bước chân bì