Chương 13 Sống chết trọn thề
Một chiếc Vickers Vimy bay giữa bầu trời xanh thẳm, thỉnh thoảng lại xuyên qua tầng mây trắng, phát ra tiếng ù ù. Hai bên cánh máy bay trải rộng sơn huy hiệu thanh thiên bạch nhật, thân máy bay có hai chữ “Đằng Hồng” đỏ chói. Đây vốn là máy bay ném bom do chính phủ Bắc Dương mua bằng tiền vay từ Anh, về sau sửa thành máy bay vận tải dân dụng, chuyến bay tuyến Bắc Kinh - Thiên Tân. Được lắp hai động cơ bay Rolls- Royce nhằm nâng cao tính an toàn so với những chiếc máy bay nhỏ khác, nó vừa có thể mang đến sáu tấn hàng, vừa chở được mười hai hành khách.
Có điều lúc này hành khách trên máy bay chỉ có hai người Hứa Nhất Thành và Hải Lan Châu.
Họ chỉ có hai chiếc ghế bành bằng gỗ cứng để ngồi, xung quanh chồng chất ngổn ngang bưu kiện và thùng gỗ. Mùi dầu máy nồng nặc thỉnh thoảng lại phả ra từ khe hở tấm da bọc, máy bay cũng thường xuyên lắc mạnh.
Hải Lan Châu tò mò nhìn ra ngoài cửa sổ, có lẽ đây là lần đầu cô đi máy bay nên thấy thứ gì cũng mới mẻ, “Năm xưa Từ Hi từ Bắc Kinh đến Tây An đi săn, đi đường mất bao nhiêu ngày. Vậy mà lần này chúng ta mới bay được một chốc, bữa sáng trong bụng còn chưa tiêu hóa hết đã sắp đến Tây An rồi!”
“Muốn cảm ơn thì cô cảm ơn Đới Lạp đi.”
Hứa Nhất Thành tay trái cầm ảnh chụp thanh kiếm thời Đường, tay phải giũ nửa mảnh thư của Trần Duy Lễ ra, đáp mà chẳng buồn ngẩng lên.
Đới Lạp tuy đã rời Bắc Bình nhưng vẫn để lại Mã Hán Tam làm liên lạc viên. Hứa Nhất Thành trao thanh kiếm Cửu Long đã khôi phục lại như cũ cho Mã Hán Tam xong, tiện thể hỏi có cách nào tới Tây An nhanh nhất không. Mã Hán Tam cũng là hạng thủ đoạn thấu trời, hỏi han một hồi rồi sắp xếp cho họ chuyến bay này.
Lai lịch chiếc máy bay này cũng hết sức thú vị. Trong giai đoạn Bắc phạt, Phùng Ngọc Tường tiến quân về Hà Bắc, tự cho mình có công to nhất, cả ba vùng Ký, Kinh và Tân* lẽ ra đều phải quy phục. Tưởng Giới Thạch lại sợ Phùng Ngọc Tường không khống chế được đám sừng sỏ dưới quyền, bèn lệnh cho Diêm Tích Sơn làm tổng tư lệnh cảnh vệ Bình Tân, chỉ cho thuộc hạ của Phùng Ngọc Tường chức thị trưởng Bắc Bình hữu danh vô thực. Phùng Ngọc Tường hết sức bất mãn, để vỗ yên ông ta, Tưởng Giới Thạch chấp thuận chia cho ông ta một cơ số lính không quân mà chính phủ Bắc Dương để lại. Chiếc Vickers Vimy này vốn định chuyển giao cho phía Tây An, nên mới bay từ Bắc Bình tới Lạc Dương, tiếp thêm nhiên liệu rồi bay thẳng đến Tây An.
❖ Ý chỉ Hà Bắc, Bắc Kinh và Thiên Tân.
Các đại quân phiệt đấu đá nhau, Hứa Nhất Thành lại tranh thủ hớt được tí váng. Bằng không chẳng biết phải mất bao lâu mới tới được Tây An.
“Liệu chúng ta có kịp không đây?” Hải Lan Châu lo lắng hỏi, không nhìn ra ngoài nữa.
Hứa Nhất Thành đặt bức ảnh và mảnh giấy xuống, “Đoàn khảo sát phong tục China đi từ đầu tháng Bảy, giờ đã đầu tháng Tám, ta chậm hơn hẳn một tháng. Có điều họ đi đường bộ, phải tới Trịnh Châu rồi mới qua được Tây An. Tôi đã hỏi thăm được biết hiện giờ xe lửa ở đó vẫn chưa sửa được, đường quốc lộ cũng có khi thông khi tắc, tiện nhất là dùng xe ngựa. Dù họ may mắn không gặp phải thiên tai hay nhân họa thì cũng phải mất hai mươi mấy ngày. Chúng ta chậm hơn không đáng kể.”
Hải Lan Châu nghe vậy mới hơi vững dạ, nhưng ngay sau đó lại đâm lo, “Nhất Thành, sao anh dám chắc mục tiêu của người Nhật là Càn lăng của Võ Tắc Thiên?”
Hứa Nhất Thành đưa tấm ảnh chụp thanh kiếm thời Đường cho cô, “Cô thấy trên kiếm có hai chữ ‘Chấn Canh’ không?”
“Thế nghĩa là sao? Tiếng lóng trong giới đồ cổ à?” Hải Lan Châu vẫn không hiểu.
“Đây là chữ chỉ có trên đồ bồi táng, hơn nữa không phải đồ bồi táng thông thường, mà có nghĩa là thay người sống bảo vệ lăng mộ. Ví như hoàng đế có ơn lớn với cô, giờ hoàng thượng đã chết mà cô còn sống, lại không thể chôn theo, thì phải lấy một món đồ coi như thế thân của mình đưa đi giữ lăng cho hoàng đế, thường viết rõ là “ai đó canh” hoặc “thay thần gì đó”. Tôi đã tra cứu rồi, Quách Chân chết vào thời Đường Huyền Tông. Ông ta nhờ bài ‘Cổ kiếm’ mà được Võ Tắc Thiên để mắt, nữ hoàng có ơn tri ngộ với ông ta, nên sau khi Võ Tắc Thiên chết, ông ta đã dâng lên một thanh kiếm báu, thay mình canh lăng, đây là điều hết sức bình thường.”
“Nói vậy là thanh kiếm này vốn xuất xứ từ mộ Võ Tắc Thiên?”
“Không thể nào. Thanh kiếm này thay người canh lăng, vì vậy nó không nằm trong mộ, mà ở bên ngoài, cũng tức là bên ngoài lối vào hầm mộ, gọi là cửa kiếm.” Hứa Nhất Thành búng nhẹ vào tấm ảnh, “Cô xem, đường phía trên này là hình vẽ thế núi ở Càn lăng của Võ Tắc Thiên, còn vị trí này được đánh dấu là nơi chôn kiếm. Tìm được cửa kiếm nơi chôn thanh kiếm này, sẽ tìm được lối vào Càn lăng.”
Hải Lan Châu à lên, nói kiếm này chẳng phải cũng là vật chỉ đường như thợ đá họ Khương sao?
Hứa Nhất Thành gật đầu, “Vai trò của kiếm Quách Chấn đối với Càn lăng cũng như thợ đá họ Khương với Đông lăng vậy, thậm chí còn quan trọng hơn. Lăng mộ thời Đường khá đặc biệt, Đường Thái Tông từng cho tạc một tấm bia viết rằng ‘Vua chúa lấy thiên hạ làm nhà, cần gì giữ vật trong lăng làm của mình. Nay lấy núi Cửu Tông làm lăng, không chứa vàng ngọc, người ngựa, vật dùng đều bằng gỗ, những mong trộm giỏi nản lòng, chớ nhọc tâm sức.’ Nói cách khác, lăng mộ thời Đường lấy núi làm lăng, quy mô cực rộng. Nếu không biết vị trí lối vào, cứ đào bừa thì đừng hòng tìm nổi.”
“Thế cơ à? Chẳng phải cũng như Đông lăng ư?”
“Cuối thời Đường, Hoàng Sào đã nhăm nhe Càn lăng rồi. Bấy giờ ông ta huy động bốn mươi vạn đại quân, đào một con hào rộng quanh Càn lăng, cuối cùng sức tàn lực kiệt mà vẫn không tìm được lối vào. Người Nhật giỏi đến đâu chăng nữa, cũng làm gì có nhiều nhân lực như Hoàng Sào?”
Hải Lan Châu vỡ lẽ, “Hóa ra người Nhật tốn nhiều tâm huyết như vậy chỉ nhằm tìm cho được vị trí lối vào Càn lăng trên kiếm Quách Chấn. Đây là cách duy nhất để đột nhập lăng mộ Võ Tắc Thiên.”
Hứa Nhất Thành thở dài, “Lúc trước tôi hiểu lầm hết cả. Năm dấu tay máu Duy Lễ để lại trên thư vốn không phải chỉ năm vị đế vương trong Đông lăng, mà ý nói đến Võ Tắc Thiên, bên cạnh có thêm một chữ ‘lăng’, dĩ nhiên ám chỉ Càn lăng. Nếu không tìm thấy hình phác họa thanh kiếm và bài thơ của Quách Chấn mà Sakai Daisuke chép lại, tôi vẫn không tài nào nghĩ ra được.”
Nói tới đó, Hứa Nhất Thành lặng đi. Giờ y mới thực sự cảm nhận được, khi phát hiện ra mục tiêu thực sự của Đoàn khảo sát phong tục China, Trần Duy Lễ đã bàng hoàng và phẫn nộ tới mức nào. Là Càn lăng, là lăng mộ của Võ Tắc Thiên. Dù phải hy sinh cả tính mạng, Trần Duy Lễ cũng quyết phải thông báo tin này cho y. Mãi tới giờ, Hứa Nhất Thành mới hiểu được sức nặng của hành động ấy.
Y vô thức đưa mắt nhìn sang phải, tìm chiếc va li chứa bài vị Trần Duy Lễ. Y hy vọng có thể sánh vai tác chiến cùng bằng hữu.
“Người Nhật say mê văn hóa thời Đường, cho rằng Trung Quốc hiện nay không xứng làm người kế thừa văn hóa nhà Đường, chỉ có chúng mới xứng. Tôi không rõ chúng làm sao tìm hiểu được kiếm của Quách Chấn có hình vẽ vị trí lối vào hầm mộ, cũng chẳng biết sao chúng phát hiện chuyện kiếm Quách Chấn được giấu bên trong kiếm Cửu Long của Càn Long. Nhưng tôi biết nếu để chúng mở được lăng mộ Võ Tắc Thiên thì quả là một sự nhục nhã không gì xóa được với người Trung Quốc chúng ta.”
Hứa Nhất Thành đấm lên vách khoang máy bay mỏng mảnh, “Tôi quyết không để bi kịch ở Đông lăng tái diễn nữa.” Hải Lan Châu nhìn y, nhận ra y đã lấy lại vẻ mặt kiên quyết mọi khi, môi mím chặt, mày cau lại. “Nhưng…” Giọng Hải Lan Châu hơi ngượng nghịu, “Vì sao lần này anh không dẫn theo người của Minh Nhãn Mai Hoa mà chỉ gọi mình tôi?”
Hứa Nhất Thành cười khổ não, ngả người ra lưng ghế, “Trong Minh Nhãn Mai Hoa đa phần là những người như Dược Thận Hành. Họ không hiểu được tôi, cũng không biết tôi làm vậy có ý nghĩa gì, thì sao phải gọi họ đi cùng chứ.”
“Vậy ba cậu choai choai kia thì sao? Sao anh cũng không dẫn theo?”
“Nhà Dược Lai gặp chuyện, không tiện đi cùng; Hoàng Khắc Vũ rất giỏi, nhưng tư tưởng vẫn còn khúc mắc, chưa hoàn toàn thông suốt; Lưu Nhất Minh thông minh tháo vát, là một lựa chọn thích hợp, tiếc rằng…”
“Tiếc cái gì?”
Hứa Nhất Thành nhìn ra tầng mây ngoài cửa sổ, giọng mệt mỏi, “Cô nghĩ ai đã tố cáo Dược Thận Hành với cảnh sát?”
Hải Lan Châu thất kinh, suýt nữa ngã nhào.
Hứa Nhất Thành nheo mắt, vẻ thản nhiên, “Việc Dược Thận Hành tới văn phòng quân đoàn 12 do Nhất Minh và Dược Lai phát hiện, về sau cũng chỉ kể lại với tôi. Tôi và Dược Lai không nói, vậy chỉ còn Nhất Minh thôi. Nó một tay giăng cái bẫy này, hạ bệ Dược Thận Hành ngay giữa tiệc mừng thọ, bản thân cũng chẳng mất nhiều sức lực, mượn chuyện tôi vạch trần tội ác của Tôn Điện Anh, tạo ra cục diện khiến Dược Thận Hành không thể không thoái lui, tôi cũng không thể không đứng ra, quả là ghê gớm.”
Hải Lan Châu tặc lưỡi trầm trồ, cô vốn biết cậu nhóc đeo kính kiệm lời ấy hết sức thông minh, song chẳng ngờ lại thâm trầm tới mức này. Hứa Nhất Thành tiếp, “Thời gian về sau, nó ắt là một nhân vật lợi hại, nhưng lần này tôi không thể dẫn nó theo được.”
Hải Lan Châu cười nửa miệng, “Thế nên anh mới tới tìm tôi?”
“Phó Quý vẫn hôn mê trong bệnh viện, tôi cũng chẳng còn người bạn nào khác nữa.” Hứa Nhất Thành trả lời ngắn gọn.
“Chỉ thế thôi sao?” Hải Lan Châu hỏi.
“Ừm.”
Hải Lan Châu hừm một tiếng, tỏ vẻ bất mãn. Hứa Nhất Thành ngước lên hỏi vặn lại, “Việc ở Tây An không liên quan gì tới tông thất nữa, sao cô lại bằng lòng đi theo tôi?”
“Hừm, biết rồi còn hỏi. Tôi không nói cho anh đâu.”
Hải Lan Châu quay đi, không thèm nhìn y nữa. Hứa Nhất Thành chẳng những không ỏ ê gì, còn trải tấm bản đồ trên đầu gối ra, cúi đầu xem xét. Cô tức tối nghiến răng nghiến lợi, giơ chân đạp mạnh vào hòm gỗ y đang ngồi làm y chao cả người đi, suýt ngã. Thấy Hứa Nhất Thành ung dung tiêu sái cũng bị mình làm cho hốt hoảng, Hải Lan Châu cười khanh khách, “Nói thực dù tôi giúp anh thì cũng chỉ có hai người, đâu thể địch lại cả Đoàn khảo sát phong tục China?”
Hứa Nhất Thành cầm bản đồ lên giũ mạnh, đó là một tấm bản đồ địa hình phụ cận Tây An tỷ lệ lớn, bên trên có mấy chỗ khoanh bằng bút chì, mỉa mai một nỗi, lại là do quân đội Nhật xuất bản. “Mấu chốt việc thắng bại có liên quan gì đến quân số. Quan trọng là phải am hiểu Càn lăng. Ai tìm thấy lối vào trước thì kẻ đó thắng,” nói tới đây, Hứa Nhất Thành ngẩng lên tủm tỉm cười tự tin, “Chuyện khác thì không dám nói, nhưng riêng Võ Tắc Thiên, những tư liệu nhà họ Hứa chúng tôi nắm giữ nhất định hơn hẳn đám người Nhật kia.”
Sau mấy giờ bay, cuối cùng máy bay cũng đáp xuống một sân bay quân dụng cạnh doanh trại Tây Quan. Hứa Nhất Thành và Hải Lan Châu vừa bước xuống đã thấy người của Minh Nhãn Mai Hoa tại đó đợi sẵn. Là một người trẻ tuổi trông như nho sĩ, họ Cơ, tên Cơ Thiên Quân, người Kỳ Sơn, một trong những đầu mối quan hệ của Minh Nhãn Mai Hoa ở Thiểm Tây. Vừa thấy Hứa Nhất Thành, anh ta đã bước đến vồn vã bắt tay thật chặt, niềm nở chào chưởng môn.
Hứa Nhất Thành vội phân bua rằng giờ mình vẫn chưa phải chưởng môn song Cơ Thiên Quân chẳng để y thanh minh, khăng khăng không chịu đổi cách gọi, giữ đúng phép tắc của bề dưới với bề trên. Hứa Nhất Thành cũng đành mặc kệ.
Cơ Thiên Quân rất hay chuyện, dọc đường thao thao giảng giải cho Hứa Nhất Thành và Hải Lan Châu nghe về lịch sử Tây An. Từ Tam hoàng Ngũ đế đến Tam quốc, rồi lại kể từ Tam quốc đến Trần Thụ Phiên, như một người kể chuyện rong vậy. Tây An vốn trực thuộc huyện Trường An, vừa hay tháng trước khu Quan Tứ huyện lị Trường An bị chính phủ tỉnh Thiểm Tây tách riêng ra, nâng lên thành thành phố Tây An. Thế nên dọc đường Hứa Nhất Thành mới thấy biểu ngữ xanh đỏ giăng khắp nơi, ai nấy vui vẻ tưng bừng, như được thơm lây.
Cùng một tháng mà Bắc Kinh bị đẩy xuống thành Bắc Bình còn Trường An lại được nâng lên thành Tây An, thực khiến người ta cảm khái vô vàn về hai cố đô lớn.
Thấy đã sắp đến thành phố Tây An, lòng Hứa Nhất Thành chợt ấm áp hẳn. Đó là sự thân thiết bảng lảng giữa thành Đường cung Chu gạch Tần ngói Hán, là phong khí dồi dào tích tụ từ mấy nghìn năm. Đứng trên cương vị nhà khảo cổ hay chưởng môn Minh Nhãn Mai Hoa, Hứa Nhất Thành đều cảm nhận được nó đang gọi y, gọi lên cội nguồn sâu xa ẩn sâu trong máu huyết y.
Bắc Bình và Tây An tuy đều là cố đô song phong cách lại khác hẳn nhau. Phong khí Bắc Kinh thuộc về hiện thực, như một bức tranh chi tiết rực rỡ sắc màu, còn khí chất của Tây An lại tựa như cách thế nhân cả một kiếp người, giống một món đồ đồng xưa cũ, hồ bọc đã bị tháng năm mài nhẵn, ánh đồng thu liễm vào trong. Hứa Nhất Thành nhắm nghiền mắt, ngẩng đầu hít sâu một hơi, hòng cảm nhận thật kỹ bầu không khí cổ xưa mà mênh mang ấy.
Tiện thể, Cơ Thiên Quân cũng vui vẻ giới thiệu hết các mối làm ăn của Minh Nhãn Mai Hoa tại Thiểm Tây. Hứa Nhất Thành liền vỗ nhẹ vai anh ta, ra ý nhắc ở đây còn có người ngoài, để sau hẵng nói. Cơ Thiên Quân nhìn Hải Lan Châu láu táu đáp, “Tôi cứ ngỡ là phu nhân chưởng môn, xin lỗi nhé.” Nói rồi lại á lên vỗ đầu than, gay quá đi mất.
Tới khách sạn được đặt trước, Hứa Nhất Thành và Hải Lan Châu mới hiểu anh ta nói gay quá là sao. Thì ra Cơ Thiên Quân chỉ đặt một phòng cỡ lớn, làm Hải Lan Châu đỏ bừng mặt. Anh ta vội đi đổi thành hai phòng.
Giờ mới thấy cái lợi khi làm chưởng môn Minh Nhãn Mai Hoa, tha hồ huy động tài nguyên và quan hệ bản địa. Hứa Nhất Thành bèn giao cho Cơ Thiên Quân đi điều tra tung tích Đoàn khảo sát phong tục China, tiện thể hỏi thăm tình hình Càn lăng. Cơ Thiên Quân vâng lời đi ngay, Hải Lan Châu hỏi y tiếp theo phải làm gì, Hứa Nhất Thành liền đáp chắc nịch, “Đợi.”
Suốt cả ngày hôm sau, Cơ Thiên Quân vẫn mất tăm mất dạng. Hứa Nhất Thành giam mình trong phòng nghiên cứu bản đồ, Hải Lan Châu ngồi một chỗ mãi cũng chán, bèn ra ngoài đi dạo. Thành Tây An có rất nhiều di tích cổ, có xem cả tháng cũng chưa hết.
Đến hôm sau, Cơ Thiên Quân mới tới kể với Hứa Nhất Thành, trong thành Tây An rất đông người nước ngoài, phần lớn là con buôn cổ vật và học giả, trong đó người Nhật chiếm đa số. Họ xây dựng rất nhiều hội sở tại đây, rất có thể Đoàn khảo sát phong tục China đang ở một trong những hội sở đó, khó mà tra được chính xác.
Về phần Càn lăng, hiện đang nằm dưới quyền quản lý của Ủy ban bảo tồn cổ vật Thiểm Tây. Đó là một tổ chức dân sự được thành lập sau vụ trộm sáu ngựa Chiêu lăng, chuyên phụ trách kiểm tra và bảo tồn những di tích và văn vật quan trọng của tỉnh Thiểm Tây. Tiếc rằng Thiểm Tây chiến loạn liên miên, chính quyền thay đổi xoành xoạch, ủy ban này giờ đây chỉ còn hư danh, mười tám lăng mộ thời Đường chẳng ai trông giữ, hoàn toàn không có người canh phòng, thỉnh thoảng cảnh sát bản địa mới tuần tra qua một vòng mà thôi.
Cơ Thiên Quân còn đem theo cả đống tư liệu, phần nhiều là dư địa chí, du ký và dăm ba hồ sơ ăn trộm mộ, những thứ người bình thường không thể tiếp xúc được, thậm chí còn cả mấy cuốn sách phong thủy như Dương trạch chỉ mâu, Kham dư ngũ kinh, Nhị thập tứ sa táng pháp. Hứa Nhất Thành giữ lại tất cả tư liệu, chẳng ừ hử gì, tiếp tục vùi đầu trong phòng nghiên cứu, thấm thoắt đã mất mấy ngày. Hải Lan Châu cũng đâm sốt ruột, bèn giục chưa chừng người Nhật đã bắt đầu đào rồi đấy, anh vẫn còn thong dong ngồi đây đọc sách à?
“Việc nào ra việc nấy, cô cứ yên tâm, chúng không nhanh đến thế đâu.”
Theo Hứa Nhất Thành thì Càn lăng thực ra là một trận thế phong thủy đảo ngược, cách bài trí khác hẳn những lăng mộ thông thường. Bản đồ trên kiếm Quách Chấn ẩn giấu bí mật phong thủy, chỉ đối chiếu với địa hình Càn lăng thì không được. Những kẻ không biết điều này rất dễ đi sai hướng.
“Minh Nhãn Mai Hoa lưu truyền cả nghìn năm nay, nắm giữ nhiều bí quyết mà người khác không biết. Người Nhật làm sao biết được những điều này, chúng nghĩ một đằng làm một nẻo, nên ưu thế nghiêng về chúng ta.” Hứa Nhất Thành cười nói rồi lại cúi xuống chậm rãi lật một trang.
“Sao anh không liên lạc với chính phủ để quân Tây Bắc phái người tới bảo vệ Càn lăng?” Hải Lan Châu vẫn cảm thấy cách làm của Hứa Nhất Thành thực là kỳ quặc. Lúc trước để bảo vệ Đông lăng, y đã chạy đôn chạy đáo khắp các cửa để cầu viện binh, hết tìm Lý Đức Tiêu lại tới Tôn Điện Anh. Sao tới lượt Tây An lại chỉ hành động một mình.
Hứa Nhất Thành lắc đầu, chua chát đáp, “Quân phiệt đâu đâu cũng tham lam như nhau. Nếu đánh động đến quân Tây Bắc, e rằng vừa đuổi được người Nhật, chúng đã ra tay đào luôn rồi. Tôi không thể để vụ việc Đông lăng tái diễn được.”
Hải Lan Châu biết hiện giờ Đông lăng là một mũi dằm, hễ động đến sẽ khiến Hứa Nhất Thành đau đớn muôn phần. Cô thôi không giục giã nữa, chỉ ngày ngày ra ngoài thăm thú, trở về thì ngồi lì trong phòng Hứa Nhất Thành, tán gẫu hoặc cùng y đọc sách.
Suốt quãng thời gian này, Đoàn khảo sát phong tục China vẫn bặt vô tăm tích, có điều xung quanh Càn lăng cũng chẳng thấy nhân vật nào đáng nghi lảng vảng.
Tới trưa ngày thứ năm, Cơ Thiên Quân lại tới. Lần này anh ta làm bộ bí hiểm lấy ra một túi vải đen, mở ra mới thấy bên trong là một chiếc la bàn phong thủy bằng đồng, còn cả nhang, nến, lồng đèn, chỉ đỏ v.v… Hải Lan Châu sán lại xem, cũng chẳng hiểu mô tê gì. Cô quay ra hỏi Hứa Nhất Thành, anh định đổi sang nghề xem phong thủy đấy à?
Hứa Nhất Thành cầm la bàn lên tay ước lượng rồi bảo Hải Lan Châu, “Người xưa bài trí mộ huyệt đều dựa theo phong thủy. Phải hiểu rõ lối sắp đặt phong thủy của người thời Đường mới có cơ hội phá giải bí ẩn, tìm ra cửa mộ. Cô chuẩn bị đi, lát nữa ta lên đường ngay.”
“Đi ngay bây giờ à? Đến Càn lăng khéo nửa đêm mất?” Hải Lan Châu ngạc nhiên hỏi.
Hứa Nhất Thành đáp, “Bí ẩn trong kiếm Quách Chân phải đến đêm mới lộ ra. Nếu không có gì bất ngờ thì tối nay chúng ta sẽ kết thúc việc này.” Đoạn y dõi mắt nhìn về phía Càn lăng, gương mặt tuấn tú bỗng trở nên nghiêm trang và căng thẳng.
“Tôi cần chuẩn bị gì?”
“Đơn giản thôi, bảo vệ tôi.” Hứa Nhất Thành chăm chú nhìn cô. Hải Lan Châu hơi hồi hộp, nhưng không né tránh ánh mắt y, cô nhoẻn miệng cười.
Cơ Thiên Quân chuẩn bị ba thớt ngựa Hà Sáo, đầy đủ yên cương. Mỗi người cưỡi một con, hối hả phi ra khỏi cổng An Định, cổng Tây thành Tây An. Lúc ra khỏi thành, lính Tây Bắc giữ thành lại làm khó dễ. Hứa Nhất Thành liền bảo Hải Lan Châu giữ ngựa, còn mình và Cơ Thiên Quân ra nói chuyện, phải mất nửa tiếng đám lính mới hậm hực cho qua.
Cả ba vội vã rời khỏi thành, chạy thẳng về hướng Tây Bắc. Trước tiên qua Hàm Dương, sau đó tới huyện Lễ Tuyền, cuối cùng mới tới huyện lị huyện Càn. Chạy suốt năm sáu tiếng, cả người lẫn ngựa đều mệt lử, phải nghỉ lại huyện Càn chốc lát.
Tháng Tám ngày dài, lúc họ vào đến huyện lị, cuối trời Tây vẫn còn rơi rớt vài vệt nắng, giữ cho bầu trời chút ánh sáng sau cùng. Càn lăng nằm trên núi Lương, cách huyện lị mười hai dặm về phía Bắc, nhìn từ xa cũng thấy được tầm vóc nguy nga. Có điều sau khi họ ăn tối xong, mấy vệt nắng còn sót lại cũng tan biến. Dưới ánh sao bàng bạc, Càn lăng như một bóng đen khổng lồ, oai nghiêm mà đáng sợ.
“Này, anh bảo liệu giờ vào núi có gặp ma không?” Hải Lan Châu hơi chợn. Dù sao cô cũng là con gái, nửa đêm nửa hôm chui vào lăng mộ thế này, khó tránh sợ hãi. Hứa Nhất Thành sắp xếp lại đồ đạc trang bị vắt trên lưng ngựa, cười hỏi, “Sợ ma à? Cô du học Anh hẳn cũng phải có kiến thức khoa học chứ.”
“Tôi biết, nhưng vẫn sợ.” Hải Lan Châu bĩu môi.
“Trên đời này vốn không có ma, những quân gian ác chột dạ mới thấy ma thôi.” Nói rồi Hứa Nhất Thành phá lên cười. Hải Lan Châu bèn giẫm mạnh vào chân y, “Đừng tưởng tôi chưa đọc truyện Lỗ Tấn nhé!”
Họ nghỉ ngơi chốc lát, đúng chín giờ tối thì xuất phát. Đường đi gập ghềnh lại chẳng có đèn đóm gì, ba thớt ngựa đành chạy chầm chậm dò dẫm. Cứ đi mãi, đường cái hóa thành đường mòn, rồi thành đường núi, khi họ tới được chân núi Lương thì ngựa không đi nổi nữa. Càn lăng tuy nổi tiếng song đây không phải cứ điểm quân sự quan trọng, cũng chẳng phải chùa chiền phát đường hương khói, thường ngày hiếm người lai vãng, dĩ nhiên chẳng ai hơi đâu sửa đường.
Ba người buộc ngựa cạnh tấm bia đá dưới chân núi rồi ai nấy vác ba lô lên lưng, bật đèn pin, đi bộ lên núi dọc theo lối vào.
Núi Lương tổng cộng có ba đỉnh, một Bắc hai Nam, trong đó đỉnh Bắc cao nhất, Càn lăng nằm ngay trên đỉnh núi phía Bắc chót vót tầng mây. Hai đỉnh núi phía Nam nằm đối xứng nhau ở hai hướng Đông Tây, kẹp giữa là đường Tư Mã*, hai bên còn sông Cam, sông Mạc bao quanh, nguy nga hùng vĩ. Giữa đêm đứng dưới chân núi nhìn lên cũng không cảm nhận thấy tử khí rờn rợn mà chỉ thấy khí thế huy hoàng vượt qua cả ngàn năm thời gian.
❖ Con đường được xây phía trước lăng, hai bên có tượng đá đứng chầu hầu, khác với lối dẫn vào mộ. Chủ yếu có ở lăng mộ sau thời Tần Hán, là đường dẫn vào lăng được xây sau khi đã hoàn thành khuôn viên lăng, còn lối vào mộ là con đường được mở để tiện cho người ra vào và đưa đồ tùy táng xuống trong quá trình xây mộ. Sau khi đưa quan tài vào và phong kín mộ lại, lối vào mộ cũng phải vùi lấp theo.
“Thực không dám tin rằng nữ hoàng đế duy nhất của Trung Quốc lại đang yên giấc ngàn thu trong lòng núi này.” Hải Lan Châu ngẩng đầu cảm khái.
Hứa Nhất Thành đính chính, “Cô nhầm rồi, đây thực ra là mộ chung của Đường Cao Tông Lý Trị và Võ Tắc Thiên. Chỉ có điều Võ Tắc Thiên quá nổi tiếng, át mất Lý Trị mà thôi.”
“Có bà vợ như thế chắc Lý Trị khổ lắm nhỉ? Đến chết vẫn bị át vía.”
Hứa Nhất Thành nghiêm túc đáp, “Tôi không lấy phải bà vợ như thế, cũng chưa chết nên không biết được.” Hải Lan Châu cười khúc khích, xua tan phần nào vẻ âm u của lăng tẩm về đêm.
Cơ Thiên Quân đi đầu, vừa đi vừa giới thiệu, “Hai người chưa đến đây bao giờ, có khi không biết, Càn lăng vốn dĩ còn có hai thành bốn cửa trong ngoài, hai đầu lối vào có đến hơn ba trăm đền thờ, lầu gác, từ đường, điện sau v.v…, tiếc rằng từ lâu đã không còn. Giờ trên mặt đất chỉ còn tượng đá canh giữ hai đầu lối vào và tấm bia không chữ mà thôi.”
“Bia không chữ là sao?”
“Bên trên Càn lăng có hai tấm bia đá, bên Tây là ghi chép lại cuộc đời của Đường Cao Tông, còn bên Đông là bia của Võ Tắc Thiên. Thông thường bia đá phải khắc chữ ca tụng công đức gì đó, nhưng tấm bia của Võ Tắc Thiên lại trắng trơn.”
Hải Lan Châu ngạc nhiên hỏi, “Sao Võ Tắc Thiên lại lập cho mình một tấm bia trắng như thế? Bà ta thấy không có gì để nói ư?” Cơ Thiên Quân đáp chuyện này thì không rõ nữa, xưa nay vẫn có nhiều giả thuyết, có người nói Võ Tắc Thiên tự thấy phụ nữ không nên xưng đế nên không dám dựng bia đề chữ, kẻ lại nói Võ Tắc Thiên cho rằng công lao của mình quá lớn, không cần dựng bia ca tụng, tranh cãi bao đời nay chưa ngã ngũ.
“Này Nhất Thành, anh thấy sao?” Hải Lan Châu quay sang hỏi.
Hứa Nhất Thành dừng bước, ngẫm nghĩ giây lát mới trả lời, “Tôi đoán bà ta không hổ thẹn với con đường mình đã chọn, cũng chẳng sợ người đời sau bình luận nên mới thản nhiên để bia trơn như thế. Vậy mới phải, chỉ cần không làm trái với lòng thì ngại gì kiên trì theo đuổi những việc người khác cho là ngu xuẩn, lúc sống không hổ thẹn là được, hơi đâu lo cái tiếng để đời làm gì?”
“Sao anh nói cứ như trăng trối thế, phỉ phui cái mồm.”
Ba người đi chừng nửa tiếng, Hải Lan Châu chợt phát hiện họ đã đi chệch khỏi lối vào, dấn sâu vào lòng núi. Hứa Nhất Thành giải thích, muốn tìm cửa vào hầm mộ thì không thể tìm từ chính diện được. Nếu dễ dàng thế thì Càn lăng đã bị quật vô số lần rồi. Thời Đường lấy núi làm lăng tẩm, cả ngọn núi đều là một phần lăng mộ, thế nên phải vòng theo triền núi hai bên mà vào. Nói cách khác, phạm vi tìm kiếm không phải bên trong, mà là xung quanh Càn lăng.
“Chúng ta chỉ có ba người, lại giữa đêm hôm tối tăm thế này, làm sao tìm được?” Hải Lan Châu lo lắng hỏi. Cô quét đèn pin loang loáng, chỉ thấy bóng cây bốn bề lay động, xào xạc trong gió núi, chẳng thấy địa thế gì hết.
“Yên tâm, đâu khắc có đó.”
Hứa Nhất Thành gật đầu với Cơ Thiên Quân. Cơ Thiên Quân bèn cởi ba lô, cúi xuống lục tìm rồi lấy ra một đống thanh tre và giấy lụa. Những thanh tre này kích thước bằng nhau, rõ ràng là hàng thửa. Cơ Thiên Quân nhanh nhẹn lắp thành ba ngọn đèn lồng hình ống, bên ngoài bọc giấy lụa, đáy có giá đỡ, bên trên bịt kín, phía dưới để hở.
Đoạn Cơ Thiên Quân nhét búi giẻ tẩm đẫm dầu nành vào dưới lồng đèn rồi quẹt diêm châm lửa. Chẳng mấy chốc ba ngọn đèn đã lơ lửng bay lên. Vì bên dưới buộc dây nên đèn không bay xa được, chỉ là là trên đầu ba người, soi sáng khung cảnh xung quanh. Giữa ngọn núi tối om đột nhiên lại có ba ngọn đèn lơ lửng như hạt đậu, nhìn từ xa thấy rõ mồn một, rợn cả người.
“Gì đây?”
“Đây là đèn Khổng Minh, nghe đồn do thừa tướng Gia Cát Lượng phát minh ra. Nó có thể bay trên không hơn một tiếng, lần này muốn tìm cửa vào Càn lăng, phải trông cả vào nó.” Hứa Nhất Thành giải thích.
Hải Lan Châu vẫn không hiểu, mấy ngọn đèn này cũng không sáng lắm, nếu cần thì thà chuẩn bị vài cây nến cầm tay chẳng tiện hơn ư. Làm sao tìm thấy cửa mộ bằng thứ đèn này được? Lẽ nào… Nó có hiệu quả đặc biệt gì mà khoa học không giải thích được? Vừa ngẩng lên, Hải Lan Châu đã giật mình.
Cô thấy Hứa Nhất Thành lấy la bàn phong thủy ra, đặt trong lòng bàn tay, buộc cả ba ngọn đèn vào la bàn, quấn quanh ba ngón tay. Phía trên la bàn đặt bản rập hình vẽ trên kiếm Quách Chân. Trông y rõ là một tay thầy bói bịp, chẳng giống nhà khảo cổ đang nghiên cứu chút nào.
“Chưởng môn, tôi đi trước nhé.” Cơ Thiên Quân chắp tay vái chào rồi quay người xách ba lô đi thẳng. Hải Lan Châu ngớ ra, “Anh ta… sao lại đi thế?”
Hứa Nhất Thành đáp, “Càn lăng quá lớn, phải chia nhau ra tìm. Tôi đi với cô, anh ta đi một mình. Mỗi bên cầm một khẩu súng hiệu, nếu có phát hiện gì cũng tiện liên lạc.”
Chẳng mấy chốc bóng Cơ Thiên Quân đã tan biến vào màn đêm, Hải Lan Châu theo sát Hứa Nhất Thành, rời khỏi đường vào mộ, đi sâu vào cánh rừng bao quanh đỉnh Bắc núi Lương. Tuy núi này không hiểm trở cheo leo như núi Hoa, cũng không có vách đứng khe sâu, nhưng địa thế thay đổi liên tục, gập ghềnh khó đi, lần mò giữa đêm thế này lại càng phải cẩn thận. Hứa Nhất Thành nhìn la bàn mà đi, kéo theo mấy ngọn đèn Khổng Minh dò dẫm tìm đường, lúc thì lên cao trông ra, lúc lại xuống dốc kiểm tra, vừa đi vừa nghỉ. Hải Lan Châu đi sau, nửa tin nửa ngờ. Bốn bề lặng phắc như tờ, thỉnh thoảng mới có gió núi thổi qua, đâu đâu cũng thấy thế núi và bóng cây thấp thoáng, chốc chốc lại gặp một tấm bia cổ, một đoạn tường đổ vách xiêu, càng làm nổi bật vẻ hoang vu của núi rừng.
Chẳng biết lòng vòng mất bao lâu, Hải Lan Châu không nhịn được lên tiếng hỏi, “Rốt cuộc anh phải tìm phong thủy thế nào?” Cô không tin mấy thứ này cho lắm, cũng nghĩ rằng Hứa Nhất Thành không tin. Y nói dựa vào phong thủy để tìm huyệt mộ, nghe hết sức lạ lùng.
Hứa Nhất Thành vẫn chăm chú quan sát la bàn, “Cô không biết đấy thôi, Càn lăng đâu như các lăng mộ đế vương bình thường. Nếu không hiểu được lẽ ảo diệu bên trong, sẽ rơi vào mê trận.”
Thấy y có vẻ nghiêm túc, lại nhớ lần trước y từng nói phong thủy Càn lăng đảo ngược âm dương, Hải Lan Châu liền hỏi ảo diệu thế nào. Hứa Nhất Thành vừa dò dẫm đi vừa kể, giọng y văng vẳng giữa núi rừng thanh vắng, “Chuyện này phải kể từ lúc xây dựng Càn lăng. Đường Cao Tông Lý Trị vẫn mong muốn sau khi chết được chôn ở Trường An. Ông ta phái hai thầy phong thủy cực giỏi, một là Trưởng Tôn Vô Kỵ cậu ruột mình, hai là thái sử lệnh Lý Thuần Phong, đi tìm một mảnh đất tốt quanh Trường An.”
“Lý Thuần Phong viết Thôi bối đồ ấy à?”
“Chính ông ta đấy. Trưởng Tôn Vô Kỵ và Lý Thuần Phong xuất phát từ Trường An, mỗi người đi theo một hướng, thăm khắp Tam Tần*. Trưởng Tôn Vô Kỵ tìm được một mảnh đất báu phong thủy trước, bèn gieo một đồng tiền xuống mắt rồng. Ngay sau đó, Lý Thuần Phong cũng tìm được một mảnh đất báu, liền đóng một cây đinh vào mắt rồng làm dấu. Hai người lần lượt trở về triều. Lý Trị khó nghĩ, bèn bảo Võ Tắc Thiên chọn. Võ Tắc Thiên quyết định đích thân đi xem thử, kết quả phát hiện hai người không hẹn mà cùng chọn đúng núi Lương. Hơn nữa ở chỗ mắt rồng, cây đinh Lý Thuần Phong đóng lại xuyên qua chính giữa đồng tiền Trưởng Tôn Vô Kỵ gieo.
❖ Chỉ ba vung Thiểm Nam,Thiểm Bắc và Quan Trung của tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc.
“Võ Tắc Thiên mừng rỡ quay về bẩm Lý Trị, núi Lương phía Đông trông sang núi Cửu Tông qua dòng sông Ô, phía Tây có sông Tất nối liền với núi Kỳ và núi Lâu Kính, thực là đất báu long mạch thượng hạng, tụ gió tích nước. Việc này vốn tưởng thế là xong, nào ngờ trong triều lại có người đứng ra can ngăn Lý Trị. Người đó là ai? Chính là Viên Thiên Cương, thầy của Lý Thuần Phong. Năm xưa Đường Thái Tông muốn dự đoán vận mệnh Đại Đường đã vời cả Viên Thiên Cương lẫn Lý Thuần Phong cùng gieo quẻ. Lý Thuần Phong trẻ tuổi hăng hái, tính luôn một lèo đến hơn hai nghìn năm sau, Viên Thiên Cương vội đẩy nhẹ vào lưng học trò, nhắc nhở rằng đã tiết lộ cơ trời quá nhiều, mau lui xuống nghỉ đi, bấy giờ Lý Thuần Phong mới ngừng lại. Nhờ đó mà cái tên Thôi Bối* đồ ra đời. Từ sau đó, Viên Thiên Cương càng chú ý hơn tới Lý Thuần Phong, tự thấy người học trò này không biết khiêm tốn nhún nhường, sớm muộn gì cũng gây ra họa lớn.
❖ “Thôi bối” nghĩa là đẩy vào lưng.
“Sau khi bãi triều, Viên Thiên Cương xin gặp riêng Lý Trị, nói rằng núi Lương không thể đặt đế lăng được. Lý Trị lấy làm lạ, bèn hỏi tại sao. Viên Thiên Cương tâu rằng mình từng chọn đất đặt lăng cho Cao Tổ Lý Uyên, cũng đã đến xem xét núi Lương. Thoạt tiên ông ta cũng cho rằng đây là một mảnh đất báu, nhưng suy xét kỹ lại phát hiện phong thủy núi Lương không được ổn. Một là long mạch núi Lương càng chạy càng xa lăng mộ của Cao Tổ và Thái Tông, ấy là điềm đứt quãng, còn đan chéo với đầu mút của long mạch triều Chu, ắt có mối lo thay triều đổi đại; hai là lấy đỉnh Bắc núi Lương làm đầu, hai đỉnh phía Nam làm đôi bầu vú, sẽ thấy có hình dạng như một người đàn bà, đặt lăng ở đây lợi nữ không lợi nam; ba là hai dòng sông Ô sông Tất hợp lại bọc lấy phía trước núi, thế nước êm đềm, nhìn có vẻ hợp phong thủy, song đến giữa giờ Ngọ chia ra đứng ở chỗ hai sông gặp nhau mới thấy nơi này bị bóng hai ngọn núi che khuất, vượng âm không vượng dương. Tóm lại Viên Thiên Cương cảnh báo nếu chọn nơi này làm lăng mộ thì âm dương đảo ngược, e rằng dòng dõi nhà Lý Đường sẽ bị gián đoạn bởi một người phụ nữ có liên quan tới triều Chu.
“Nghe Viên Thiên Cương nói, Lý Trị cũng lấy làm băn khoăn, bởi mảnh đất này do Võ Tắc Thiên chọn, không tiện thay đổi. Ông ta vốn nhu nhược, cuối cùng vẫn quyết định chọn núi Lương làm nơi đặt đế lăng, rồi đuổi hết những phụ nữ tên có chữ ‘Chu’ trong cung đi, ngỡ rằng thế là yên tâm, từ nay kê cao gối ngủ. Sau khi Lý Trị băng hà, Võ Tắc Thiên an táng ông ta ở Lương sơn, mấy năm sau thì đoạt ngôi xưng đế, đổi quốc hiệu thành ‘Chu’.”
Hải Lan Châu tròn mắt lắng nghe, hóa ra đằng sau Càn lăng còn nhiều chuyện lý thú đến vậy. Hứa Nhất Thành vạch cành cây phía trước, kéo ba ngọn đèn Khổng Minh thấp xuống rồi kể tiếp, “Viên Thiên Cương nói phong thủy núi Lương đảo ngược âm dương, lợi cho nữ. Nên khi xây cất Càn lăng, Võ Tắc Thiên đã ngấm ngầm giở trò, cố ý cài cắm thân tín, đẩy hiệu lực phong thủy nơi này lên mức cao nhất. Bởi vậy phong thủy Càn lăng này đâu đâu cũng đi ngược lại với các lăng mộ đế vương thông thường, chủ âm không chủ dương. Nơi đặt cửa mộ, dĩ nhiên cũng không theo lẽ thường. Nếu tìm theo lý luận phong thủy thông thường thì đừng hòng thấy được.”
“Vậy bản đồ trên kiếm Quách Chấn…”
“Hình vẽ trên kiếm cũng phải xem ngược lại mới được. Nếu người Nhật không nắm được bí mật của Càn lăng, cứ theo hình vẽ mà tìm thì, ha ha, có khác nào trống đánh xuôi kèn thổi ngược, lần mò cả năm cũng không thấy đâu.”
Bấy giờ Hải Lan Châu mới hiểu vì sao Hứa Nhất Thành không đi thẳng mà lại đi đường vòng, hóa ra là phải làm ngược lại đạo lý phong thủy thông thường. Cô tò mò hỏi, “Sao anh nắm rõ mấy chuyện này quá vậy?” Hứa Nhất Thành dừng bước ngoảnh lại, mặt mày rạng rỡ khó tả, “Có nói cô cũng không tin đâu. Tổ tiên nhà tôi có quan hệ mật thiết với Võ Tắc Thiên.”
“Hở? Đừng bảo tôi anh là con cháu Võ Tắc Thiên đấy nhé?”
“Làm gì có chuyện. Ông tổ tôi tên Hứa Hành, là thị vệ ở minh đường Tắc Thiên, phụ trách trông coi một pho tượng ngọc, về sau minh đường gặp hỏa hoạn, pho tượng nọ cũng biến mất. Bị cách chức, ông đã thề phải tìm cho được Phật ngọc về, khỏi phụ ơn vua. Để tìm Phật ngọc, ông vùi đầu học cách giám định đồ ngọc, về sau mới trở thành danh gia đương thời. Con cháu và học trò về sau nối nghiệp ông, dần dần hình thành Minh Nhãn Mai Hoa.”
Không biết đây là lần thứ mấy Hải Lan Châu được phen tròn xoe mắt trong đêm nay, hóa ra ngọn nguồn của Minh Nhãn Mai Hoa lại lâu đời đến thế.
Hứa Nhất Thành nói tiếp, “Có điều những chuyện ấy đều là truyền thuyết, chưa chắc đã phải sự thật. Minh Nhãn Mai Hoa truyền đến ngày nay, cũng đã đánh mất rất nhiều tài liệu ghi chép. Câu chuyện của tổ tiên vẫn còn rất nhiều chỗ bỏ ngỏ, tôi đang nghĩ cách bổ sung, hy vọng có cơ hội phục nguyên hoàn toàn.”
Hải Lan Châu đang định hỏi tiếp thì Hứa Nhất Thành đã giơ tay nói đợi đã. Trước mặt hai người chợt xuất hiện một gò hoang. Gò này khá thoải, bị kẹp giữa hai bên vách đá nghiêng nghiêng, trông như thể vách núi bị gò hoang bổ làm đôi vậy. Trên gò cỏ mọc lơ thơ, xung quanh cũng chẳng có cây cao.
Xét về vị trí, nơi đây chính là chân núi Đông Nam nằm ngay lưng chừng đỉnh Bắc, nối liền với đôi bầu vú ở phía Nam. Theo lý luận của Viên Thiên Cương, nếu coi núi Lương là một người phụ nữ đang nằm thì đây là eo.
Hứa Nhất Thành nhờ Hải Lan Châu cầm đèn Khổng Minh và la bàn, còn mình đối chiếu bản rập từ kiếm Quách Chấn với địa hình địa mạo xung quanh, rồi cầm đèn pin xăm xăm đi tới. Trước tiên y đi đến một bên vách đá, giơ tay sờ lên vách rồi lại chạy sang bên kia, đứng cách mấy bước, giơ tay ước chừng khoảng cách giữa đôi bên. Đoạn bảo Hải Lan Châu ném ba lô sang, lấy ra một chiếc xẻng cầm tay và một cây gậy sắt dài chừng ba thước. Hứa Nhất Thành cầm xẻng đào mấy nhát trên gò, chọc gậy xuống thăm dò rồi lại rút lên xem màu đất. Cứ thế ba bốn lần, cho tới khi y chọc mạnh gậy xuống, nghe tiếng “kịch” khẽ, không giống chọc xuống đất mà nghe như chọc vào nền đá.
“Ở đây à?” Hải Lan Châu hỏi.
Hứa Nhất Thành ngẩng lên, mừng rỡ đáp, “Đúng thế, cửa mộ đây rồi! Cả Càn lăng chỉ có nơi này phù hợp với phong thủy đảo ngược âm dương và chỉ dẫn trên kiếm Quách Chấn…” Nhưng gương mặt hớn hở của y đờ ra ngay lập tức, bởi trông thấy một người từ sau lưng Hải Lan Châu bước ra.
“Anegakoji Eitok…” Hứa Nhất Thành còn chưa gọi hết cái tên ấy thì kẻ nọ đã nhào tới vung nắm đấm giáng thẳng xuống đầu Hứa Nhất Thành, sau đó là liên tục ba đòn đánh vào tai phải, cằm và bụng. Trước đợt tấn công như vũ bão của Anegakoji Eitoku, dẫu Phó Quý hay Hoàng Khắc Vũ cũng không chống nổi, huống hồ Hứa Nhất Thành. Giữa lúc choáng váng, Hứa Nhất Thành loáng thoáng nghe thấy Hải Lan Châu thét lên, “Các người nhẹ tay thôi!”
Anegakoji Eitoku lại tung ra một nắm đấm, khiến Hứa Nhất Thành ngã ngửa ra, lồm cồm mãi không ngồi dậy nổi. Hải Lan Châu chạy đến đỡ, song y vùng ra, trừng mắt nhìn cô đầy căm hận. Hải Lan Châu cúi gằm mặt, không dám nói năng gì.
“Chào anh Hứa, chúng ta lại gặp nhau rồi.”
Lần này kẻ bước ra từ trong bóng tối là Sakai Daisuke. Hắn mặc áo khoác ngắn bằng gấm đen, trông như một ông chủ hiệu bạc Sơn Tây. Thảo nào Cơ Thiên Quân không tìm ra tung tích của chúng, bởi chúng đã ngụy trang thành một toán lái buôn Trung Quốc trà trộn vào thành Tây An. Sau lưng Sakai Daisuke còn chừng bảy tám tên nữa, đều lăm lăm đèn pin và vũ khí đứng dưới chân gò.
Hứa Nhất Thành thở dốc, dùng mu bàn tay quệt máu miệng.
“Nhờ ơn cô Hải Lan Châu dốc sức giúp đỡ, chúng ta mới có thể gặp mặt ở Càn lăng, âu cũng là cái duyên.” Sakai Daisuke giơ ngón tay múp míp xấc xược trỏ vào cô nàng. Hải Lan Châu tái mặt, song không hề phủ nhận.
“Cô… Cô tuồn tin cho bọn chúng ư… Sao cô lại phản bội tôi?” Hứa Nhất Thành hỏi bằng giọng khàn khàn. Y chẳng bao giờ ngờ được mình vất vả điều tra bấy lâu, lại có kẻ theo ngay đằng sau hưởng lợi.
Hải Lan Châu quay mặt đi, toan lẩn vào đám người phía sau, song bị Sakai Daisuke giữ lại, “Cái gì mà phản bội? Từ trước tới giờ cô Hải Lan Châu vẫn thực hiện tốt nhiệm vụ của mình đấy chứ. Cô ấy là một trong những gián điệp giỏi nhất của chúng tôi đấy.”
Hứa Nhất Thành nhắm nghiền mắt lại vì giận, “Nói vậy ngay từ đầu cô đã…”
Hải Lan Châu ngẩng lên, “Nhất Thành, như tôi từng nói với anh đấy, tông thất luôn sống trong sợ hãi, kẻ sợ hãi sẽ tìm đến người có thể giúp đỡ mình.”
“Vậy sao các người không bán quách Đông lăng cho người Nhật luôn đi, còn tìm tôi làm gì, chẳng phải là vẽ rắn thêm chân ư?”
“Vì Dục Phương không phải người của đảng Tông Xã chúng tôi, anh ta tìm anh là thực lòng muốn bảo vệ Đông lăng. Để phối hợp với ngài Sakai Daisuke, đảng Tông Xã mới giấu giếm thân phận thực của tôi, để tôi lợi dụng Dục Phương tiếp cận anh.”
“Đảng Tông Xã ư?”
Hứa Nhất Thành sực nhớ lần đầu tới chỗ Dục Phương, từng trông thấy dấu hiệu song long vờn ngọc trên xe ngựa. Xem ra đảng Tông Xã vẫn chưa diệt vong, mà giống như dấu hiệu trên xe ngựa vậy, âm thầm chờ đợi cơ hội quật khởi. Y bật ho sặc sụa, không nói gì nữa.
“Dục Phương từ lâu đã là một con chó thời bình, chỉ mong yên ổn giữ mạng, chẳng còn hùng tâm tráng chí gì nữa. Song lý tưởng của đảng Tông Xã chúng tôi lớn lao hơn thế nhiều. Dục Phương chỉ muốn ôm lăng mộ tổ tiên sống cả đời, làm sao biết được để đổi lấy sự giúp đỡ của người Nhật thì hy sinh một Đông lăng cũng đáng lắm.”
Nói tới đây, giọng Hải Lan Châu lạnh hẳn đi, cô nhếch mép cười trào phúng, chẳng rõ là mai mỉa Hứa Nhất Thành, hay giễu cợt chính mình. Hứa Nhất Thành trừng trừng nhìn cô không đáp.
Sakai Daisuke đắc ý nói, “Tôi phục anh thật đấy, không ngờ anh có thể từ chỗ thuốc phiện mà lần ra kiếm Cửu Long, rồi lại từ kiếm Cửu Long tra được đến Càn lăng. Nhưng cũng may mà có anh tháo vát, chúng tôi mới dễ dàng tìm được cửa mộ. Chuyện này chắc anh không ngờ đâu nhỉ?”
Sakai Daisuke chắp tay sau lưng, đứng dưới gò nhìn lên Càn lăng trên đỉnh Bắc, thở dài cảm thán, “Lăng tẩm vĩ đại nhường này, nếu ở Nhật đã trở thành chốn thiêng liêng được muôn người ngưỡng vọng. Anh nhìn xem các người đã chà đạp nó thê thảm đến thế nào?”
“Phì!” Hứa Nhất Thành không kìm nổi, nhổ toẹt vào bản mặt phì phị của Sakai Daisuke. Sakai Daisuke cũng chẳng lấy thế làm điều, ngồi xuống trước mặt y, rút chiếc khăn tay to trắng muốt từ túi ngực y ra lau mặt rồi lại nhét trả.
“Xem đấy, ngay anh Hứa đây cũng tùy tiện khạc nhổ trong lăng tẩm thần thánh này. Báu vật quý giá nhường này, nên giao cho người biết trân trọng gìn giữ thì hơn.” Nói tới đó, Sakai Daisuke đứng thẳng dậy, ánh mắt trông về phía Càn lăng cũng thay đổi hẳn, cao giọng hô, “Mở Càn lăng ra, rất nhiều chỗ để ngỏ trong Ghi chép về đồ cổ China sẽ được bổ sung. Đám học phiệt ở trường đại học đừng hòng vênh váo trước mặt ta nữa.”
Anegakoji Eitoku lạnh lùng hỏi bắt đầu đào được chưa, Sakai Daisuke bèn vung bàn tay to bè, như vung kiếm bổ xuống.
Bảy tám tên đi cùng lập tức cầm xẻng cắm cúi đào. Động tác của chúng vừa chuẩn vừa đều, lại không ai phát ra tiếng, thoạt nhìn đã biết đều là quân nhân như Anegakoji Eitoku. Sakai Daisuke đứng bên còn luôn miệng nhắc nhở, “Cẩn thận đấy, đừng đào mạnh quá kẻo lại làm xước xát hiện vật.”
Hứa Nhất Thành bị Anegakoji Eitoku ghìm chặt, không sao động đậy được, chỉ biết trơ mắt nhìn người Nhật xới tung gò đất lên từng tấc một, như cởi bỏ quần áo của người thiếu nữ. Hải Lan Châu nép mình trong bóng vách đá, như hóa thành một pho tượng, không lên tiếng, cũng không bỏ đi. Gò hoang chẳng mấy chốc đã bị đào tung, sau đó lớp đất bên dưới cũng bị móc lên, lộ ra một phiến đá. Sakai Daisuke cúi xuống nhìn, lấy tay gạt đất trên mặt đá ra, săm soi một lúc rồi mừng rỡ thốt lên, “Là hoa văn sư mã đặc trưng của lăng mộ thời Đường, đúng chỗ này rồi!”
Đám người xung quanh hào hứng, càng dốc sức đào hơn. Chưa đầy nửa giờ, cửa mộ đã bị phơi bày hoàn toàn. Đó là hai phiến đá lớn khép chặt chạm hình ngựa và sư tử, xung quanh còn trang trí thêm mẫu đơn, mây lành v.v… nằm nghiêng nghiêng dựa theo triền dốc. Có điều nếu là cửa Càn lăng thì hơi mộc mạc.
“Xem chỗ này này!”
Sakai Daisuke rọi đèn pin vào khung cửa đá ngay bên trên, chỉ thấy trên đó chạm một thanh kiếm, trông giống hệt kiếm Quách Chân. Sakai Daisuke mừng húm, vội giục, “Đúng nó rồi. Quách Chấn dâng kiếm thay mình canh mộ, chứng tỏ lăng mộ được ông ta canh giữ này chính là mộ chung của Võ Tắc Thiên và Lý Trị! Mau mở ra thôi!”
Phiến đá rất dày, người Nhật lại không dám dùng thuốc nổ, đành lấy xà beng ra, bảy tám người nạy dần từng chút một. May mà phía sau không có thanh chèn đá như ở Đông lăng nên chẳng mấy chốc đã nạy ra được một khe hở đủ một người chui lọt. Bên trong tối đen như mực, chẳng biết thông tới tận đâu, khí lạnh buốt hun hút lùa ra.
Sakai Daisuke kéo Hứa Nhất Thành tới, lịch sự làm động tác mời, “Anh Hứa là người đầu tiên phát hiện ra cửa mộ, tôi nhường cho anh vinh hạnh bước vào đầu tiên đấy.”
“Không được!” Hải Lan Châu vội ngăn cản. Tình hình bên trong thế nào chưa rõ, nếu có khí độc hay cạm bẫy gì đó thì kẻ đầu tiên tiến vào nguy to. Hứa Nhất Thành mỉa mai nhìn Hải Lan Châu, như chế giễu sự giả dối của cô. Bắt gặp ánh mắt y, Hải Lan Châu run bắn lên, cô chưa bao giờ thấy y lộ ra thái độ như vậy: lạnh lùng, trầm tĩnh mà xa cách.
Hứa Nhất Thành chủ động bước lên nhìn thẳng vào mắt Sakai Daisuke rồi giơ tay vịn nhẹ cửa mộ, lách người vào trong.
Vừa vào trong, y liền hít thử một hơi. Không khí bên trong mộ nồng nặc mùi ẩm mốc, nhưng vẫn đủ dưỡng khí. Y dè dặt bước lên một bước, cảm giác được mình đang đặt chân lên mặt đá. Giơ tay ra mò mẫm một lượt, xung quanh cũng đều là vách tường đá xanh. Trước mặt y tối đen, chẳng biết thông tới nơi nào.
Sakai Daisuke thấy Hứa Nhất Thành đi vào vẫn bình yên vô sự thì dẫn cả đám người kia tràn vào theo, chỉ để lại một tên ở ngoài canh cửa. Hải Lan Châu lưỡng lự giây lát rồi cũng theo vào. Người Nhật đã chuẩn bị đầy đủ, ngoài đèn pin còn đem theo cả đuốc tẩm dầu cá. Bảy tám cây đuốc vừa thắp lên, không gian bên trong lập tức sáng bừng. Họ thấy một hành lang hơi dốc trải dài tít tắp, không nhìn thấy đầu kia. Trần hành lang chạm hình bầu dục, vách tường xung quanh và mặt đất đều ghép từ đá xanh dày bốn chỉ, mặt tường để trơn không trang trí.
Anegakoji Eitoku đi đến sau lưng Hứa Nhất Thành đẩy nhẹ, giục y tiếp tục dẫn đường.
Đồn rằng Võ Tắc Thiên ác độc nên đã cho thiết kế rất nhiều cạm bẫy trong mộ, cần có một con chốt thí dẫn đường làm bia đỡ đạn. Hứa Nhất Thành hiểu dụng ý của người Nhật song cũng đành nhắm mắt đưa chân. Đám người Nhật xếp thành một hàng đi cách y chừng một mét. Bên trong hầm mộ lặng phắc như tờ, tiếng gió núi hay côn trùng rỉ rả đều bị ngăn lại bên ngoài, chỉ có tiếng chân cùng tiếng thở nặng nhọc của đoàn người, lối vào âm u chật hẹp khiến con người ta không khỏi thấy ngột ngạt, lòng bất giác nơm nớp lo sợ, nếu bị kẹt lại đây vĩnh viễn thì đáng sợ đến nhường nào.
Thấy Hứa Nhất Thành thình lình dừng bước, Anegakoji Eitoku bèn đẩy y một cái thật mạnh, “Sao không đi nữa?”
“Hết đường rồi.”
Sakai Daisuke bước lên trước, giơ đuốc lên soi một vòng cùng Anegakoji Eitoku, mới thấy Hứa Nhất Thành nói không sai. Cuối con đường là một gian phòng vuông vắn rộng rãi, vừa đủ đặt một cỗ áo quan lớn, nhưng lại bỏ không. Bước vào phòng, đập ngay vào mắt là bức tranh tường rực rỡ, vẽ một viên tướng trông như thần giữ cửa tay cầm kiếm, trừng mắt nhíu mày nhìn ra. Tiếc rằng trải cả nghìn năm, bức tranh đã loang lổ bong tróc, chỉ thấy được lờ mờ nửa thân trên, vôi trát tường bên dưới bong hết cả, trông không phải đá xanh ghép thành mà đắp bằng đất nện. Phía dưới bức tranh tường còn có dấu tích của giá gỗ, có điều đã mục nát từ lâu.
Đây rõ ràng không thể là nơi đặt mộ Võ Tắc Thiên. Nhưng cả căn phòng vuông vắn này chỉ có duy nhất một lối vào, còn lại đều là tường đá kín bưng. Sakai Daisuke nhíu mày giơ đuốc lên soi hồi lâu, chẳng phát hiện được cửa hay lối đi ngầm nào khác thì đâm ra luống cuống, đi lòng vòng mấy lượt, cuối cùng vẫn phải tới hỏi Hứa Nhất Thành, “Chuyện này là thế nào đây?”
Hứa Nhất Thành lắc đầu tỏ ý không biết.
“Anh không biết thật à?” Sakai Daisuke nhìn y chằm chằm. Dưới ánh đuốc bập bùng, gương mặt Sakai Daisuke trở nên âm u khó lường.
Hứa Nhất Thành thản nhiên đáp, “Tôi vào cùng với các vị, làm sao giở trò gì được?”
Sakai Daisuke cũng chẳng biết làm sao, đành bàn bạc với Anegakoji Eitoku rồi quyết định kiểm tra lại lần nữa. Không thể lấy lẽ thường tình mà suy xét về Võ Tắc Thiên được, căn phòng này nhất định còn ẩn giấu bí mật. Nếu cần có thể tra tấn Hứa Nhất Thành để ép cung, sau lưng y là Minh Nhãn Mai Hoa, chưa chừng còn giấu giếm chuyện gì đó.
Cả đám lũ lượt lấy xẻng ra, gõ vào tường đá xung quanh, hy vọng tìm thấy lối đi ngầm hoặc chốt lẫy gì đó, song chỉ tổ công cốc. Đúng lúc này, đầu kia lối đi chợt vang lên tiếng bước chân.
Đang ở trong hầm mộ, lấy đâu ra tiếng chân? Tiếng chân ai mới được chứ? Tất cả tái mét mặt, lập tức rút súng ra nhắm thẳng lối đi. Tiếng chân dần lại gần rồi một mái đầu ló vào, bọn Sakai Daisuke trông thấy liền thở phào nhẹ nhõm. Ra là tên được cử canh giữ bên ngoài. Sakai Daisuke hỏi hắn sao lại vào đây, hắn đáp vừa rồi thấy dưới chân núi có pháo hiệu bắn lên, chẳng rõ là ai nên chạy xuống đây báo cáo.
Sakai Daisuke nhìn sang Hải Lan Châu, cô khoanh tay mệt mỏi đáp, “Cơ Thiên Quân và chúng tôi chia ra tìm kiếm, hẹn rằng nếu phát hiện được gì sẽ bắn pháo hiệu báo tin.” Sakai Daisuke sáng mắt lên, “Nói vậy chắc Cơ Thiên Quân bên kia đã tìm được gì đó rồi. Để lại mấy người ở đây, những người khác sang đó xem đi! Anh Hứa, anh… làm gì vậy?”
Vừa cúi xuống, Sakai Daisuke đã thấy Hứa Nhất Thành rút trong túi áo ra một tấm thẻ gỗ, cung kính đặt dưới bức tranh viên tường giữ cửa. Thấy không có gì nguy hiểm nên cũng chẳng ai ngăn cản. Dưới ánh đuốc, Hải Lan Châu đọc thấy trên tấm thẻ gỗ viết mấy chữ “Linh vị Trần Duy Lễ”, tim bỗng đập thình thịch. Hứa Nhất Thành chắp hai tay vào nhau, tám ngón đan chéo, lật úp mu bàn tay, vái ba bái, sau đó chụm hai ngón cái vào nhau rồi tách ra. Lại vái ba lần.
Hứa Nhất Thành từng nói với cô, đây là bái cậy nhờ, một khi đã bái thì nhất định phải hoàn thành lời dặn dò của người đã khuất, sống chết trọn thề. Nhưng hiện giờ y đang làm ngược lại, nghĩa là đã hoàn thành lời ủy thác, báo lại cho người mất hay.
Con ngươi Hải Lan Châu co rút, cô vội đẩy mạnh Sakai Daisuke, kinh hoàng giục, “Mau, mau ra khỏi đây!”
“Duy Lễ, chú nhìn kỹ nhé. Kẻ thù của chú đều ở đây cả rồi.” Hứa Nhất Thành đứng dậy, ôm bài vị trong tay, vẻ mặt bình thản.
Bọn Sakai Daisuke còn chưa kịp phản ứng, chợt thấy mặt đất vang lên tiếng nổ ì ùng, song còn cách rất xa nên không rõ lắm, mộ huyệt cũng chỉ chấn động nhẹ. Tất cả nhất tề ngẩng lên, thấy trên đầu có tiếng lạo xạo, trước tiên chỉ khe khẽ như tằm ăn rỗi, sau đó to dần, như bò rừng chạy rầm rập.
Sakai Daisuke thét lên: “Chạy mau!” Cả đám người hốt hoảng chạy ngược lên trên. Tiếc rằng đã muộn, chỉ nghe “rầm” một tiếng, nửa con đường đã sập, đá xanh đổ xuống rào rào, hai tên chạy đầu tiên nháy mắt đã bị đè bẹp.
Sakai Daisuke và Anegakoji Eitoku nhất loạt nhào tới vơ lấy xẻng, toan khơi thông lối đi. Nhưng đường lui đã bị đá tảng bít kín, không sao đào ra được, căn phòng vuông trở thành một không gian hoàn toàn khép kín.
Cả bọn tái xanh mặt mày, tuy chúng đều là quân nhân, không sợ hy sinh, nhưng chẳng ai muốn bị chết ngạt trong một gian phòng nhỏ giữa lăng mộ cổ cả.
Sakai Daisuke thộp áo Hứa Nhất Thành, điên cuồng gào lên, “Mày làm gì thế hả?”
Hứa Nhất Thành cười ha hả, vô cùng sảng khoái, vô cùng thỏa mãn. Mắt y sáng đến kinh người, “Lúc các người đi vào, có để ý đến vách núi hai bên gò không? Nền tảng của vách núi đã bị hầm mộ này khoét rỗng nên rất yếu, chỉ cần ít thuốc nổ là sập xuống, đè lên gò hoang, phong kín nơi này. Phát pháo hiệu kia có nghĩa là Cơ Thiên Quân đã châm thuốc nổ.”
Sakai Daisuke gầm lên, xô mạnh y ra. Hứa Nhất Thành đập mạnh lưng vào bức tranh tường rồi ngã xuống đất, nhưng y vẫn cười như điên dại, cười đến hụt cả hơi. Hải Lan Châu đi đến, run rẩy hỏi, “Nói vậy là… anh đã lường trước tất cả ư?”
Giọng Hứa Nhất Thành hiền hòa, song lời lẽ đầy gai góc, “Nếu không nhờ cô hết lòng hoàn thành nhiệm vụ thì tôi đâu th?