← Quay lại trang sách

Hậu ký

Câu chuyện đã khép lại nhưng lịch sử chỉ vừa mới mở màn.

Kể về số phận một vài nhân vật và đồ vật sau khi câu chuyện này kết thúc nhé.

Dục Bành vì vụ trộm Đông lăng bại lộ bị Phổ Nghi trục xuất khỏi tông thất, gạch tên trong tông phả nhà Ái Tân Giác La. Thậm chí vào thời nước Ngụy Mãn Châu, gã cũng bị hắt hủi, chủ yếu bán dần sản nghiệp tổ tiên mà sống, trông vào con cháu tiếp tế qua ngày. Sau giải phóng không lâu, Dục Bành lâm bệnh qua đời ở Thiết Gia Phần ngoại ô Bắc Kinh.

Ngô Úc Văn được điều khỏi Sở Cảnh sát Kinh thành, bổ nhiệm làm thượng tá đội phó tổng đội Huấn luyện quân cảnh trung ương. Khi kháng chiến chống Nhật bắt đầu, Ngô Úc Văn đầu hàng giặc, giữ chức phó phòng hình sự Cục Cảnh sát thành phố đặc biệt Bắc Kinh, trưởng ban mật vụ Cục Cảnh sát Thiên Tân v.v… phục vụ cho chính quyền Hán gian. Sau giải phóng, Ngô Úc Văn biết mình giết hại Lý Đại Chiêu, ắt không được chính phủ dung tha, bèn đổi tên thành Ngô Bác Trai, nhưng cuối cùng vẫn bị bắt về quy án. Có điều lúc này hắn đã mắc bệnh nặng, vì vậy tuy bị kết án tử hình nhưng không chấp hành, chẳng bao lâu thì chết trong tù.

Vương Thiệu Nghĩa cướp bóc Đông lăng không thành, lại bị Tôn Điện Anh đánh úp, dẫn tàn quân chạy vào vùng núi rừng gần Tuân Hóa. Khi cuộc chiến chống Nhật sắp kết thúc, Đông lăng một lần nữa không có ai quản lý, Vương Thiệu Nghĩa lại nổi lòng tham, tập họp một toán đầu trộm đuôi cướp kéo tới Đông lăng. Lần này chẳng ai ngăn trở, lão trước là vơ vét Định lăng, rồi lại khoắng sang Định Đông lăng của Từ An, dùng của báu lấy được đút lót cho các yếu nhân địa phương, huy động thêm mấy trăm người tiếp tục kéo vào lăng tẩm hôi của, rêu rao là làm cách mạng, phá hoại Cảnh lăng của Khang Hi, Cảnh lăng phi viên, Dụ lăng phi viên, Huệ lăng v.v… Đông lăng qua chuyện này gần như bị vét sạch.

Mã Hán Tam phụ trách Cục Điều tra thống kê Ban chấp hành Quân sự chính phủ Quốc dân tại Bắc Bình tra được, lập tức báo cho Đới Lạp. Đới Lạp liền ra chỉ thị triển khai tuyên truyền, tung tin đồn đảng Cộng sản Trung Quốc chỉ huy trộm cắp lăng tẩm làm dư luận dậy sóng. Đảng Cộng sản Trung Quốc liền lập tổ chuyên án, bắt giữ toàn bộ những kẻ tham gia, chỉ có Trương Tận Trung, Vương Thiệu Nghĩa may mắn trốn thoát. Chẳng bao lâu Trương Tận Trung bị Cục Điều tra thống kê bắt giữ ở Đường Sơn, còn Vương Thiệu Nghĩa chạy vào núi sâu, nhờ giảo hoạt tinh ranh mà nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật. Mãi tới năm năm sau, tổ chuyên án đảng Cộng sản Trung Quốc mới bắt được lão tại nhà tình nhân ở gần Tuân Hóa. Ngày hai mươi mốt tháng Ba năm 1951, Vương Thiệu Nghĩa được đưa ra xét xử công khai tại khe Mã Lan Đông lăng rồi bị xử bắn, kết thúc một đời gian ác.

Trong giai đoạn này, Đông lăng lại bị cướp thêm vài lần nữa, đều là thuộc hạ và đồng bọn cũ của Vương Thiệu Nghĩa toan vét nốt chút xái.

Cho tới năm 1949, khắp Đông lăng đều đã bị bọn trộm cướp vơ vét cả, chỉ trừ Hiếu lăng của Thuận Trị.

Tôn Điện Anh vì vụ cướp Đông lăng mà bị điều tra, cùng đường phải cầu cứu Từ Nguyên Tuyền chỉ huy trưởng binh đoàn 6, Từ Nguyên Tuyền bèn bày cho hắn kế vung tiền tránh nạn. Tôn Điện Anh liền đem những báu vật mình cướp được hối lộ các thành viên quan trọng trong chính phủ, đả thông quan hệ từ trên xuống dưới, Hà Ưng Khâm, Tống Mỹ Linh, Khổng Tường Hi, Tống Ái Linh v.v… đều được đút lót. Chẳng mấy chốc tòa án quân sự Bắc Bình chính thức xét xử vụ án Đông lăng, Đàm Ôn Giang khăng khăng không nhận tội cướp lăng, nói rằng những của cải đó thu được trong khi tiêu diệt đám phỉ Mã Phúc Điền, Vương Thiệu Nghĩa. Các nhân vật chủ chốt trong đảng Quốc dân đều tỏ thái độ mập mờ, bởi vậy vụ án này xét xử suốt mấy tháng không kết án được. Không lâu sau nội chiến đảng Quốc dân nổ ra, Tôn Điện Anh dẫn quân ra trận, trở thành một trong những kẻ được các bên ra sức lôi kéo. Án cướp Đông lăng thế là dở dang.

Nhưng vụ án này ảnh hưởng quá rộng, các nhân sĩ trí thức đau xót trước làn sóng trộm mộ, nhất là hành vi núp bóng khảo cổ để đào bới lăng mộ của người nước ngoài cực kỳ nghiêm trọng, hô hào ra luật nghiêm cấm, thúc đẩy Ủy ban Bảo tồn cổ vật trung ương phải chủ trì đặt ra hàng loạt đạo luật bảo hộ văn vật như Luật bảo tồn cổ vật (1930), Hướng dẫn thi hành luật bảo tồn cổ vật (1931), Quy chế khai quật cổ vật, Quy chế khai quật cổ vật có tư nhân hoặc đoàn thể học thuật nước ngoài tham gia (1935), Quy chế đưa cổ vật ra nước ngoài (1935) v.v… phát huy tác dụng nhất định trong việc ngăn ngừa chảy máu văn vật.

Về sau Tôn Điện Anh vẫn nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật, chạy đi chạy lại giữa các quân phiệt lớn. Sau khi chiến tranh kháng Nhật nổ ra, hắn nhận chức tổng tư lệnh quân du kích Hà Bắc - Sát Cáp Nhĩ, cầm quân đánh Nhật. Năm 1943 hắn bị quân Nhật bắt làm tù binh ở Hà Nam, liền chạy sang nương nhờ Uông Tinh Vệ, giữ chức tổng tư lệnh tiêu diệt quân cộng sản hai tỉnh Hà Nam - Hà Bắc. Sau khi cuộc chiến kháng Nhật thành công, Tôn Điện Anh lại đầu quân cho Tưởng Giới Thạch, tích cực chống Cộng. Năm 1947 quân giải phóng bắt được hắn trong chiến dịch Thang Âm, đưa vào trại cải tạo, cùng năm ấy hắn mắc chứng kiết lỵ vì hút thuốc phiện nhiều năm, chẳng mấy mà chết.

Thuốc phiện Chim Ưng do Tôn Điện Anh sản xuất có ảnh hưởng lớn tới thị trường thuốc phiện Trung Quốc. Mãi tới những năm sáu mươi, bảy mươi của thế kỷ XX, ma túy sản xuất ở vùng tam giác vàng của Đông Nam Á* ngoài bao bì vẫn in hình chim ưng quắp quả địa cầu, đó là tàn dư của thuốc phiện Chim Ưng.

❖ Khu vực rừng núi hiểm trở nằm giữa biên giới ba nước Lào, Thái Lan, Myanmar, từng nổi tiếng là nơi sản xuất thuốc phiện lớn nhất thế giới.

Kiếm Cửu Long của Càn Long, một trong những vật quý giá nhất Đông lăng, trước rơi vào tay Tôn Điện Anh, sau đó lại được hắn dâng cho Đới Lạp nhờ chuyển cho Tưởng Giới Thạch. Bấy giờ Đới Lạp không ở Bắc Kinh nên thanh kiếm do Mã Hán Tam, trưởng phòng Tình báo Bắc Bình tạm giữ. Chẳng rõ vì sao Mã Hán Tam lại đem kiếm Cửu Long về nhà cất giấu, chứ không giao nộp lên trên. Đến năm 1940, Mã Hán Tam bị quân Nhật bắt làm tù binh ở Bắc Bình, để giữ mạng, hắn đã dâng kiếm này cho nữ gián điệp Nhật Bản lừng danh Kawashima Yoshiko. Kawashima Yoshiko tên thật là Kim Bích Huy, con gái Túc thân vương Ái Tân Giác La Thiện Kỳ, kẻ cầm đầu đảng Tông Xã, về sau được người Nhật đưa về nuôi, đổi tên thành Kawashima Yoshiko, là một nhân vật tiếng tăm được cả tông thất nhà Thanh và Nhật Bản chung tay bồi dưỡng.

Kawashima Yoshiko thích mê thanh kiếm này, cất kỹ tại nhà. Sau khi cuộc chiến kháng Nhật thành công, bà ta bị Cục Điều tra thống kê Ban chấp hành Quân sự chính phủ Quốc dân bắt giữ, Mã Hán Tam thừa cơ đột nhập vào nhà bà ta, lấy lại kiếm Cửu Long. Qua thẩm vấn, Kawashima Yoshiko khai ra tung tích thanh kiếm, Đới Lạp nổi giận cho gọi Mã Hán Tam đến hỏi cho rõ ràng. Mã Hán Tam vội vàng trả lại kiếm, còn phải lo lót mất một món tiền lớn, chuyện này mới xem như cho qua.

Ngày mười bảy tháng Ba năm 1946, Đới Lạp đem kiếm bay từ Thanh Đảo đến Nam Kinh, định chính tay giao cho Tưởng Giới Thạch. Nào ngờ máy bay gặp tai nạn đâm vào vách núi ở Giang Ninh, Đới Lạp và các nhân viên tổ bay đều tử vong. Thẩm Túy, cốt cán của Cục Điều tra thống kê Ban chấp hành Quân sự chính phủ Quốc dân đích thân dẫn người tới hiện trường, tìm lại được kiếm Cửu Long từ tay một người nông dân bản xứ. Tiếc rằng trong vụ máy bay rơi, thanh kiếm này đã bị hủy hoại hoàn toàn, bao kiếm và chuôi kiếm đã cháy cả, chỉ còn trơ lại thân kiếm đen sì. Tưởng Giới Thạch chỉ thị mai táng Đới Lạp ở bên hồ nước phía Tây điện Vô Lương chùa Linh Cốc, Thẩm Túy cũng đặt luôn phần còn lại của kiếm Cửu Long vào quan tài chôn theo. Vì sợ kẻ thù trả oán nên mộ Đới Lạp được đúc bê tông, vô cùng vững chắc.

Tới năm 1951, các đoàn thể ở Nam Kinh khăng khăng đòi di dời mộ Đới Lạp. Vậy là dưới sự giám sát của đồn cảnh sát chùa Linh Cốc, mấy nông dân trong ngôi làng ở núi Đông đã đào mồ Đới Lạp lên. Theo lời kể của người chứng kiến thì trong quan tài ngoài thi hài Đới Lạp chỉ có một khẩu súng lục ổ quay, một đôi dép da quai hậu và một thanh sắt dài hoen gỉ trông chẳng ra hình thù gì cả, cố gắng lắm mới nhận ra đó là một thanh kiếm. Những thứ đồ tùy táng này đều bị vứt vào hồ nước ở điện Vô Lương, từ đó biệt vô tăm tích.

Sau khi xảy ra câu chuyện kể trong đây không lâu, Càn lăng ở Thiểm Tây cũng bị trộm. Tôn Liên Trọng của đảng Quốc dân bắt chước Tôn Điện Anh, lấy tiếng là tiến hành diễn tập quân sự, phái cả một sư đoàn toan khai quật Càn lăng. Nhưng chúng dùng hết từ đại bác, thuốc nổ đến sức người vẫn không tìm được cửa mộ. Về sau trời chợt đổ mưa rào liên tiếp mấy ngày không ngớt, trong quân đồn rằng Võ Tắc Thiên nổi giận, các binh lính không dám ra tay nữa. Tôn Liên Trọng sợ làm dân chúng phẫn nộ, đành ra lệnh rút lui.

Năm 1958, nhà nước trùng tu quốc lộ từ Tây An tới Lan Châu, sửa tới huyện Càn. Hai mươi bảy tháng Mười một, một nông dân bản xứ đi lên núi Lương khai thác đá đã dùng thuốc nổ khoét một cái hố lớn trên sườn Đông Nam đỉnh Bắc núi Lương, bên trong chỉ thấy đá xanh gắn liền với trụ sắt, rờn rợn âm khí. Tay nông dân lập tức báo cáo lên cấp trên, rồi cấp này lại báo lên cấp trên nữa, cho tới tận trung ương. Sau khi xem xét, các chuyên gia cho rằng tay nông dân này vô tình đã tìm ra cửa vào Càn lăng. Năm 1960, tỉnh Thiểm Tây thành lập ủy ban khai quật Càn lăng, tiến hành khai quật và sửa sang lại lối vào hầm mộ, rồi báo cáo lên trung ương, xin được mở hầm mộ tiếp tục khai quật.

Nhưng thủ tướng Chu Ân Lai của Quốc Vụ viện đã phê rằng, “Chúng ta không thể hoàn thành hết việc tốt được, chuyện này có thể để lại cho đời sau thực hiện nốt”, chỉ thị ngừng công tác khai quật Càn lăng. Sau đó, Quốc Vụ viện còn gửi công văn đến tất cả các đơn vị bảo tồn văn vật trên cả nước, nhấn mạnh “không được đào xới lăng mộ đế vương toàn quốc”. Có thế việc đào xới các lăng mộ quy mô lớn từ cuối thời Thanh đến lúc ấy mới chấm dứt.

Đến nay bên trong Càn lăng vẫn được giữ gìn nguyên vẹn, trở thành lăng mộ duy nhất trong mười tám lăng thời Đường chưa có dấu hiệu bị trộm. Có điều trong một báo cáo khảo cổ lối vào Càn lăng từng đề cập tới việc có một nhà khảo cổ đào được một ngôi mộ bồi táng cách đó chừng tám mươi mét, đã sụp đổ, không có đồ tùy táng gì, chỉ có một đường hầm và mười bộ hài cốt đủ cả nam lẫn nữ, đều vận trang phục thời Dân Quốc. Xác nữ quay mặt về phía đường hầm bên trong tường, với nửa cánh tay ra, chẳng rõ có ý gì, tới giờ vẫn có rất nhiều giả thuyết.