← Quay lại trang sách

Chương 4 Kẻ tài hoa tuấn tú ở Lạc Dương

Phù Công - Thứ sử Lương Châu cùng phu nhân được người hầu đỡ, hai người bước ra khỏi xe la kéo chật chội. Phù Công đã lớn tuổi, lúc này đang cố gắng duỗi thẳng thắt lưng đau nhức, ngẩng đầu đứng giữa đám người ồn ào nhộn nhịp. Ông ta ngẩng đầu nhìn nhà lầu rộng rãi, nguy nga ở thành Lạc Dương, khẽ thở dài một hơi.

Phong cảnh không hề thay đổi so với mười mấy năm trước… Đôi mắt Phù Công cay cay vì xúc động, vừa cúi đầu liếc nhìn thấy mấy người con đang đứng ở cổng thành để đón mình, vẻ mặt ông ta liền trở nên rất tệ. Còn Phù phu nhân thì hết sức vui mừng, đi đến trước ba người con trai đang vái chào, đỡ từng đứa đứng dậy. cuối cùng, bà mới đứng trước mặt người con trai cả mà mình yêu thương nhất rồi khóc thổn thức.

“Trường Khanh, Trường Khanh…” Phù phu nhân vuốt ve khuôn mặt con, nhìn hắn thật kĩ, thấy hắn đang khoác áo choàng lông khổng tước, bộ quần áo dài gọn gàng màu lam nhạt như nước hồ chảy từ cổ áo xuống tận mũi giày. Hắn chỉ thắt một dây lưng đính bạch ngọc Dương Chi khắc hoa sen, vô hình trung thể hiện vẻ phú quý bức người.

Phù phu nhân hài lòng, kiêu ngạo khen không dứt lời, còn Phù Công đi đằng sau lại trưng ra vẻ mặt khinh thường, nghiêm nghị nhìn lướt qua sự xa xỉ ngấm ngầm của đứa con trai cả, liếc qua chiếc áo khoác gấm hoa chỉ vàng phô trương trắng trợn trên vai đứa con thứ hai, và cái khóa lục lạc lấp la lấp lánh trước cổ đứa con trai út, còn cả mấy chục tùy tùng cưỡi ngựa đằng sau chúng nó, không ai là không mặc áo gấm, giày bạc, dây cương hàm thiếc vàng kim. Ông tự nhìn lại mình rồi quay sang nhìn chiếc xe la kéo vừa cũ vừa nhỏ, còn cả chiếc áo da dê đã sờn của Cao quản gia, tức thì trong bụng cực kỳ tức giận.

Phù Trường Khanh nhìn thấy vẻ mặt khó chịu của phụ thân thì biết trong lòng ông chắc là đang tức, hắn bèn cười cười rồi tự tin bước lên trước, cúi người vái ông một cái. “Từ Lương Châu tới Lạc Dương, phụ thân đã vất vả một đường, nếu không có gì dạy bảo thì xin người về phủ trước đã.”

“Hừ!” Phù Công “hừ” một tiếng, chẳng thèm nhìn con trai lấy một lần mà túm lấy phu nhân, xoay người lên xe la kéo, đóng rèm cửa sổ “xoạch” một tiếng rồi không nói gì nữa.

Phù Trường Khanh cười hờ hững, bảo các em trai cũng lên ngựa, còn mình thì quay người lại, vừa giơ một ngón tay thì mấy chục tùy tùng cưỡi ngựa bèn chầm chậm bước, đi theo xe la của Phù Công về Phù phủ ở trong thành.

“An sư gia, sau khi vào thành thì có muốn tìm một chỗ nghỉ ngơi trước không?” Lư Đào Thăng đang ngổi trên lưng ngựa, quan tâm hỏi.

An Mi mang vẻ mặt như sắp khóc tới nơi: “Không, không cần… Vẫn nên nhanh chóng làm cho xong chuyện Khương đại nhân giao trước đã.”

Cưỡi ngựa hơn một trăm chín mươi dặm từ Huỳnh Dương tới Lạc Dương vừa tròn một ngày, nhưng An Mi và Lư Đào Thăng cưỡi ngựa mất hai ngày, chuyến đi có thể nói là thong thả nhưng vẫn khiến thân thể nàng mệt rã rời. Hồi còn bé tí, nàng cũng từng bị người ta ôm cưỡi ngựa ngày qua ngày, nhưng cách bao nhiêu năm như thế, nàng đã quên hết các kỹ thuật cưỡi ngựa. Do sợ người ta thấy sơ hở nên nàng cố sức cưỡi, kết quả là mỗi lần xuống ngựa, hai chân chẳng bước nổi nữa.

Đích đã đến ngay trước mắt nên An Mi cùng Lư Đào Thăng xốc lại tinh thần, đi theo dòng người đông đúc vào thành Lạc Dương nguy nga. Thời khắc này, An Mi không còn vẻ mặt sợ sệt, xám xịt như trước nữa, nàng ngồi trên lưng ngựa, khi nhìn thấy những cửa tiệm san sát nối liền nhau đến nơi xa tít tắp thì trong lòng dần xuất hiện một cảm giác bâng khuâng, bối rối, một cảm giác hoàn toàn xa lạ đối với nàng. Giây phút này, nàng không cần lo bữa cơm tiếp theo sẽ ăn ở đâu, không cần lo tối dừng chân ở nơi nào, nhưng sự lo lắng lại không hề vơi đi so với lúc trước.

“Vị Phù Thứ sử kia là con trai trưởng của nhà họ Phù ở Thanh Tề. Vào năm giặc Hồ gây loạn, đại tộc nhà Hán đua nhau bỏ về phương Nam, chỉ còn một số ít sĩ tộc ở lại giữ Trung Nguyên. Họ xây thành lũy tại phương Bắc, tập kết quân đội, cùng nhau chống lại người Hồ. Nhà họ Phù ở Thanh Tề là một trong số đó.” Lư Đào Thăng đi ngang với An Mi, tán gẫu cùng nàng câu được câu chăng. “Hai mươi năm trước, họ Thiệu có thể lập nên Đại Ngụy thì công sức nhà họ Phù Thanh Tề không thể không nhắc tới. Do đó, tộc trưởng họ Phù được phong làm quận công, con cái đời sau kế thừa tước vị. Tuy nhiên, điều đáng quý nhất là, sau khi thiên hạ thái bình, Quận công thân làm đại tư mã đã để lại năm mươi nghìn bộ hạ của mình sát nhập vào quân đội quốc gia. Ngoài ra, ba năm sau khi ông mất, người kế thừa tước vị chính là Phù Công đang trong độ tuổi trẻ trung, phong độ lại không nhận chức tả quang lộc đại phu1 mà kiên quyết đến Lương Châu làm thứ sử, được phong làm sứ trì tiết2, đô đốc quân sự hai châu Lương - Sóc, sau được phong thêm chức phiêu kỵ đại tướng quân, đãi ngộ như tam ti3, lãnh binh chống lại người Hồ ở biên giới mười mấy năm…”

1.Tên chức quan tương tự như cố vấn.

2.Tên chức quan, như khâm sai, đại diện cho hoàng đế chỉ huy quân đội địa phương.

3.Tên gọi chung chỉ ba chức quan tôn quý nhất trong triều đình phong kiến, bao gồm thừa tướng (hoặc đại tư đồ), thái úy (hoặc đại tư mã) và ngự sử đại phu (hoặc đại tư không).

An Mi nghe mà mơ hồ, chỉ biết nhún vai khen một câu: “Thật là giỏi…”

Lư Đào Thăng cười. “Không chỉ giỏi mà còn khiến người khác kính nể. Phù Công cung cúc tận tụy ở biên cương mười mấy năm cũng chỉ ăn bổng lộc sáu trăm thạch của Thứ sử Lương Châu. Nghe nói gần đây ngài ấy cáo lão hồi hương, còn chia hết tài sản gom góp bao năm cho bạn hữu và chỉ dắt phu nhân cùng người hầu về Lạc Dương. Đi về chỉ dùng duy nhất một xe một con la mà thôi. Dân chúng Lương Châu tụ tập lại tiễn khóc đầy đường và cả bên quán trọ.”

Nàng nghe vậy bèn hỏi: “Hôm nay vị Phù trưởng công tử mà chúng ta cần gặp cũng là Thứ sử, người đó có quan hệ gì với vị Phù Công này?”

“Nếu đã là trưởng công tử nhà họ Phù thì tất nhiên chính là con trai trưởng của vị Phù Công rồi.” Lư Đào Thăng cười, đáp.

“Ơ? Hai cha con làm chức quan giống nhau sao?” An Mi ngạc nhiên. “Thật kỳ lạ!”

“Ha ha, tuy đều là thứ sử nhưng lại khác nhau rất nhiều. Thứ sử Dự Châu không lãnh quân mà chỉ đi tuần, quản lý quận huyện, chức trách chỉ nằm trong “kiểm soát tình hình trong châu, bãi miễn hoặc bổ nhiệm chức vụ, ngăn chặn án oan” mà thôi. Tuy nhiên, xưa nay làm thứ sử khá là có tiền đồ, do trực tiếp nằm dưới quyền ngự sử trung thừa, cũng đồng nghĩa với việc là thân tín của thiên tử. Thông thường, chỉ cần mấy năm là có thể thăng chức lên làm quan lớn. Từ đó có thể thấy Thánh thượng khá yêu mến vị Phù công tử đây.” Lư Đào Thăng thấy vẻ mặt An Mi lại bắt đầu nhăn thì bèn chuyển sang chủ đề nhẹ nhàng hơn chút: “Phù công tử hiểu biết văn học, am hiểu kinh sử, từ hiện tượng huyền bí đến tư tưởng Nho gia không gì là không tinh thông. Năm nay mới đầu hai mươi mà tiếng tăm đã vang xa từ lâu, lại thêm vẻ ngoài cực kỳ anh tuấn nên mới được gọi là: “Lạc Dương có Phù Trường Khanh tài hoa tuấn tú”… An sư gia nhìn kìa, đó chính là Phù phủ!”

An Mi chợt thấy lo lắng, nàng ngẩng đầu lên nhìn. Lúc nhìn thấy cổng phủ đồ sộ của Phù phủ, cánh cửa to sơn đỏ, sư tử đá hùng dũng cùng tấm biển thếp vàng thì nỗi lo lắng trong lòng nàng liền dâng cao đến tột đỉnh. Nàng nắm chặt lấy nhánh cây hòe trong lòng, thật kỳ lạ là nàng như được dỗ dành.

An Mi sờ nhánh cây trong lòng nhưng không hề có ý định ăn thêm một con mọt nữa, nàng đã phí mất hai con. Trước khi có tin tức của trượng phu thì tuyệt đối không thể sử dụng tùy tiện nữa. Tình hình trước mắt không được tính là thật sự nguy hiểm, nàng chỉ cần đi cầu kiến vị đại nhân trong tòa phủ này, sau đó tặng cho hắn một hộp đồ quý giá và ân cần thăm hỏi hắn thay cho Khương đại nhân là được. Nhiệm vụ của nàng chỉ như vậy thôi đúng không?

Sau khi đập cửa hông rồi đưa danh thiếp vào thì An Mi và Lư Đào Thăng đứng đợi hồi lâu mới thấy Trương quản gia của Phù phủ từ tốn đi ra khỏi cửa, cười với An Mi. “Hóa ra là An tiên sinh ở phủ huyện Huỳnh Dương. Ngài đã vất vả một đường, nay xin mời đi theo tiểu nhân.”

An Mi cảm thấy tất cả đều êm xuôi nên rất vui, không nhịn được mà quay sang nhìn Lư Đào Thăng cười cười. Hai người đi theo Trương quản gia qua bình phong chắn sau cổng, rồi đi dọc theo hành lang đến viện bên. Lúc này là cuối thu nên các phòng đều thả mành, nàng cũng không quan sát được nhiều, chỉ nhớ mỗi sân viện đều trồng hoa thơm, nước chảy, y như nơi thần tiên ở. Cuối cùng Trương quản gia dẫn hai người vào một căn phòng, sau khi ông ta cởi giày đi vào liền sai bảo người hầu lấy nước cho bọn họ rửa mặt mũi.

An Mi ngồi cứng nhắc trên sạp, cũng không dám ngó nghiêng xung quanh. Nàng rửa mặt, rửa tay trong chậu đồng mà tỳ nữ bưng lên, vẻ đầy bất an. Sau đó lại có tỳ nữ đưa lên kem bôi mặt và môi, nàng liền ngây người, hoang mang nhìn sang Lư Đào Thăng cầu cứu. Lư Đào Thăng nhìn nàng bằng ánh mắt trấn an, cười cười, ra ý bào nàng nhìn theo hắn mà làm. Nàng bèn chấm lấy ít kem lên bôi mặt và môi y hệt hắn, tiếp đó đón lấy bát chè uống một ngụm nhỏ. Chè có sữa hạnh nhân và đường mạch nha, nàng chưa từng được ăn món ngon như vậy, liền ăn một miếng to, dáng ăn vừa vội vừa xấu.

Đúng lúc này Trương quản gia đi vào, vừa cười vừa báo cho nàng: “Thật ngại quá, hôm nay chủ nhân nhà chúng ta mới về, tạm thời đại công tử không có thời gian rảnh, e rằng phải phiền An tiên sinh đợi lâu. Lát nữa tiểu nhân cứ đặt trước cơm canh, hai vị dùng xong bữa tối rồi tính tiếp vậy.”

An Mi cùng Lư Đào Thăng nhìn nhau, đành nghe theo sự sắp xếp của ông ta.

Phù Công, người cáo lão hồi hương, hiện đang ngồi trong nhà ho khụ một cái, nhìn đứa con trưởng giờ đã thay một bộ quần áo khác rồi mới đến thăm mình. Ông liền phàn nàn bất mãn: “Cái áo khoác lông khổng tước rồi dây lưng ngọc Dương Chỉ từ đâu mà có?”

“Được Hoàng thượng ban thưởng ạ.” Phù Trường Khanh hờ hững đáp, cầm chén trà lên uống một ngụm.

“Ừm, vậy thì thôi. Nhưng mà bình thường vẫn nên giản dị một chút. Con được bổng lộc sáu trăm thạch, nếu mặc quần áo như vậy chẳng phải sẽ làm người ta ngứa mắt?” Phù Công ngẩng đầu liếc nhìn con trai, tiếp tục dạy dỗ: “Còn hai đứa Trọng Khanh và Ấu Khanh nữa, con làm đại ca thì phải dạy bảo chúng nó. Chúng ta làm bề tôi, đầu tiên chính mình phải cần kiệm, đặt lợi ích chung lên trên hết, thì sau mới có thể ổn định đất nước…”

Phù Trường Khanh đặt chén trà xuống, nhìn cha mình. “Phụ thân, Trường Khanh cho rằng để ổn định đất nước thì phải lấy pháp luật làm căn bản, dựa vào các quan lại, thậm chí cả quân đội, chứ không phải từ sự ăn vận giản dị, mộc mạc của bề tôi.”

“Nói vớ vẩn gì thế hả?” Phù Công trừng mắt nhìn Phù Trường Khanh, không thể tin nổi. “Lẽ nào tránh sự xa xỉ, giữ mình trong sạch lại là sai?”

“Sai thì chưa tới mức, nhưng người đời vốn có tầm nhìn hạn hẹp, ham ăn biếng làm, nếu những bề tôi tận trung hết mình vì nước không thể hưởng thụ phú quý mà những kẻ với hành vi thấp hèn lại đắc lợi, vậy thử hỏi có bao nhiêu người sẽ làm việc tận lực?” Phù Trường Khanh cười cười, nói với Phù Công. “Thời đại này là như vậy. Lúc phụ thân ở Lương Châu làm tấm gương tốt như thế, e là những kẻ khen người trước mặt nhiều bao nhiêu thì những kẻ cười nhạo người sau lưng cũng nhiều bấy nhiêu.”

“Hỗn xược! Miệng còn hôi sữa mà dám nói lời bất kính! Mày còn coi ta là phụ thân nữa không?” Phù Công tức đến nghiến răng chửi.

“Phụ thân, ngày xưa chẳng phải chính người đã dạy Trường Khanh rằng, trong “quân - thần, cha - con” thì quân thần phải đặt lên đầu, sau đó mới tới cha con. Trường Khanh tưởng vừa rồi người đang lấy thân phận bề tôi trung thành để nói, sao chớp mắt một cái đã biến thành cha dạy con?” Phù Trường Khanh lại cầm chén trà lên uống một ngụm, ung dung nói tiếp: “Hay là sự dạy dỗ nghiêm khắc của người ngày đó, ra lệnh cho thầy đánh con mười mấy roi chỉ là để dạy nên một đứa chỉ biết vâng dạ?”

“Được, được lắm! Mười mấy năm không gặp, mày đã đủ lông đủ cánh rồi! Chu quản gia đâu? Đồ khốn nạn chỉ biết ăn không ngồi rồi, tốt khoe xấu che kia, gọi hắn tới đây cho ta!” Phù Công tức đến mức mặt xanh lét, muốn nhanh nhanh tìm được một kẻ để trút giận. Năm nào ông cũng nhận được thư của Chu quan gia, trong thư chỉ biết sự xuất sắc của con trai mà không ngờ rằng con lại “xuất sắc” đến mức độ này. Giờ không tìm Chu quản gia mắng một trận thì còn có thể tìm ai!

“Vậy Trường Khanh phải vào phòng trong chào hỏi mẫu thân, xin phụ thân cho phép Trường Khanh lui trước.” Phù Trường Khanh đặt chén trà xuống rồi hành lễ cáo từ, cử chỉ, hành động không thể bới móc được gì.

“Biến mau, đừng có ở đây làm ta bực mình!”

Phù Trường Khanh bị đuổi tới phòng mẫu thân, đó lại là người yêu thương hắn nhất. Phù phu nhân càng nhìn con càng hài lòng, cầm lấy tay hắn mà dông dài: “Trường Khanh, con để tang vợ xong từ lâu rồi, nên tái giá chưa?”

Phù Trường Khanh không kiềm chế được mà nhíu mày, vẫn trả lời rất lễ phép: “Chuyện này không vội. Chẳng phải mấy nhà họ Thôi ở Thanh Hà, họ Lư ở Phạm Dương, họ Quách ở Thái Nguyên1… mấy năm nay đều không thấy phù hợp đấy thôi.”

1.Thài Nguyên là tỉnh lỵ của tỉnh Sơn Tây - Trung Quốc hiện nay.

“Vậy còn họ Quý ở Bình Dương?”

Phù Trường Khanh cười lạnh lùng. “Họ Quý ở Bình Dương thì càng không thích hợp.”

Phù phu nhân nhìn con trai mà không hiểu ra sao, một lúc lâu sau bà mới gật đầu, nói: “Ừ, thôi, dù sao xưa nay con luôn có chính kiến của mình. À đúng rồi, mấy ngày trước mẹ và cha con cố tình đi vòng để qua quận Cấp thăm người bác đang ốm nặng, trên đường về đi qua Huỳnh Dương thấy nơi đó có bán viên thuốc nhân sâm Dưỡng Vinh. Mẹ nghe nói là nó có hiệu quả thần kỳ lắm.”

Phù phu nhân vừa nói vừa lấy một hộp thuốc viên ra, để vào tay con trai.

“Ồ? Mấy ngày trước con cũng đi qua đấy, sao không nghe thấy viên nhân sâm Dưỡng Vinh gì cả?” Phù Trường Khanh lấy một viên đưa lên mũi ngửi ngửi, đôi lông mày liền nhíu chặt lại. “Mùi có vẻ không đúng lắm, tốt nhất đừng có uống linh tinh…”

“Gần đây nó mới nổi tiếng, nghe nói là do một danh y đi qua Huỳnh Dương lấy nhân sâm thật để làm nên bằng phương pháp gia truyền. Vị danh y chỉ ở Huỳnh Dương có ba, bốn ngày thôi, mẹ còn phải mua lại từ người khác bằng giá cao đấy.” Phù phu nhân rót một cốc nước cho con, thân thiết khuyên đến cùng: “Tất cả cũng chỉ có vài viên, con mau mau uống viên này đi…”

“Điêu dân ở huyện Huỳnh Dương quả thật cần nghiêm trị…” Phù Trường Khanh bước ra khỏi nhà xí với khuôn mặt trắng nhợt, vẻ mặt tàn ác.

Thư đồng A Đàn hầu hạ hắn rửa tay, thay quần áo, vừa làm vừa than: “Thiếu gia, sao người tranh cãi với lão gia mà lại ngoan ngoãn nghe lời phu nhân rồi uống thuốc bừa bãi thế?”

Đôi mắt hẹp dài của Phù Trường Khanh nhìn xuống, hắn giơ tay xoa xoa đầu A Đàn, nói: “Ngươi thì hiểu gì, tuy ta và phụ thân có vai vế khác biệt nhưng đều là bề tôi một quân vương, tất nhiên có thể tranh cãi, thế ngươi muốn ta tranh cãi gì với mẫu thân đây?”

“Thì ra là thế.” A Đàn gật đầu như đã ngộ ra.

Phù Trường Khanh thay quần áo xong thì tới bên lư hương, cầm hộp hương lên chọn. Lúc này Trương quản gia đến bên ngoài cầu kiến, lát sau liền đi vào, miệng cười và bẩm báo: “Đại công tử, chiều hôm nay có An sư gia ở huyện Huỳnh Dương dâng bái thiếp xin gặp, hiện đang ở viện bên hông đợi để gặp người.”

Đôi lông mày của Phù Trường Khanh lập tức chau lại, lẩm bẩm vẻ không vui: “Huỳnh Dương, lại là huyện Huỳnh Dương. Hừ!”

“Đại công tử, người thấy sao, có gặp hay không?” Trương quản gia híp mắt lại nhìn, tuy thấy đại công tử tức giận nhưng ông ta vẫn cười hỏi.

“Gặp thì vẫn phải gặp.” Phù Trường Khanh trầm ngâm trong giây lát rồi chợt cười khẽ, gật đầu với ông ta. “Lát nữa ngươi sắp xếp ổn thỏa xong thì bảo hắn tới phòng khách gặp ta.”

Đuổi Trương quản gia đi xong thì Phù Trường Khanh vẫn lười nhác ngồi ở buồng trong, tuy đã đồng ý gặp khách nhưng cũng phải đợi một lúc thì khách mới có thể đến được. Hắn tranh thủ thời gian nhàn hạ, sai A Đàn cất sách giúp hắn. Hắn nhìn thư đồng nhà mình nhón chân nhảy lên nhảy xuống thì thầm tức cười. Đúng lúc này, tỳ nữ buồng trong lại vén rèm khẽ báo: “Đại công tử, Phùng cơ đến ạ.”

“Cho nàng vào đi.”

Phù Trường Khanh nghiêng người dựa trên sạp không động đậy, thấy thị thiếp của mình là Phùng Lệnh Viện bưng cái khay có bát canh nóng đến bên hắn, hắn bèn hờ hững cười một cái.

Tuy nhiên nụ cười này lại khiến Phùng Lệnh Viện vui như mở cờ trong bụng. Nàng ta bê cao cái khay lên, để chén sứ tới trước mặt hắn rồi nói bằng giọng nũng nịu: “Phù lang, chàng đoán xem đây là tổ yến hay là nấm trắng?”

Phù Trường Khanh cầm bát sứ lên uống một ngụm nhỏ, đoán: “Nấm trắng.”

“Sai rồi, là tổ yến.” Phùng Lệnh Viện rất đắc ý, nở nụ cười xinh đẹp nhìn hắn.

Lúc này Phù Trường Khanh cười lớn, ăn tiếp vài miếng rồi mới để bát lại. “Ngon lắm, thật vất vả cho nàng.”

Phùng Lệnh Viện cầm lấy bát canh, đôi mắt khẽ liếc một cái, cười duyên. “Thiếp vất vả cũng chỉ vì một nụ cười của Phù lang.”

Phù Trường Khanh lại cười, hắn không bình luận gì về sự ân cần của nàng ta. Lúc Phùng Lệnh Viện đi khỏi thì thư đồng A Đàn mới ôm sách đứng giữa phòng, hỏi với vẻ khó hiểu: “Thiếu gia, nấu canh tổ yến thành canh nấm trắng thì có gì hay? Còn không bằng ăn luôn canh nấm cho xong, càng đỡ việc.”

“Ngươi không hiểu. Điểm đáng yêu, đáng để thương của nữ nhân là ở chỗ họ đẹp đẽ, tươi tắn mà vô tri.” Phù Trường Khanh không nhìn A Đàn nữa, vừa cười lạnh lùng vừa mở cuốn sách trong tay, nhưng lại không hề tập trung.

Cùng lúc đó, An Mi nắm chặt bàn tay, lắp bắp hỏi Trương quản gia: “Vì… vì sao phải thay quần áo?”

“An tiên sinh, tiểu nhân sợ đại công tử nhìn thấy một thân đầy gió bụi này của ngài thì không vui.” Trương quản gia vừa cười hì hì vừa lấy một bộ quần áo lụa màu trắng, thử so với người An Mi. “Ngài không biết đấy chứ, đại công tử nhà chúng ta cực kỳ gàn dở, nếu ngài mặc không vừa ý người thì e là chuyện của ngài sẽ không thành công thôi. Khà khà, lời này ngài đừng nói lại với người! Ừm, bộ này hơi rộng một chút…”

Sao lại có người thích để ý như vậy chứ! An Mi nghẹn lời, đành ngoan ngoãn thay quần áo ngoài ra. Trương quản gia lại nói: “Ôi trời, cái khăn quấn đầu của ngài cũng phải thay đi, đại công tử nhà chúng ta ghét nhất là màu chàm.”

“Tại sao?” An Mi tìm lấy cái khăn quấn trước trán, cảm thấy có chút khó chịu.

“Khà khà khà, nói ra thì dài, năm đó lão gia mời người thầy nghiêm khắc nhất Lạc Dương về dạy đại công tử, đại công tử chịu không ít khổ cực. Một năm bốn mùa ông ta chỉ mặc quần áo màu chàm.”

“Ồ!” Nghe vậy, An Mi đành gỡ khăn xuống. Nàng chợt cười khổ, hỏi Trương quản gia: “À, nếu ta quấn khăn màu trắng liệu có giống đang để tang không?”

“Ha ha ha, An tiên sinh hài hước quá!” Trương quản gia cười ha hả, rồi có lòng tìm cho nàng một cái mũ rất hợp thời tại Lạc Dương để nàng đội, sau đó khen một câu: “Ôi chao, An tiên sinh, trông ngài thật là phong lưu tuấn tú!”

An Mi ngại ngùng kéo chiếc mũ xuống một chút, cho tới khi nó che hết lông mày. Nàng nhìn Trương quản gia và nói nhỏ: “Ta có thể đi gặp Phù đại nhân chưa?”

“Tất nhiên, tất nhiên. Mời An tiên sinh đi theo tiểu nhân.” Trương quản gia vui vẻ dẫn nàng ra ngoài. Lư Đào Thăng là khách phụ nên không thể đi theo, hắn ở lại phòng uống trà chờ đợi.

An Mi ôm hộp gấm trong lòng, lẽo đẽo đi theo Trương quản gia hồi lâu thì ngửi thấy một mùi hương thoang thoảng. Nàng đi lướt qua rất nhiều tỳ nữ xinh đẹp nhưng mùi hương không thể diễn tả đó khác hoàn toàn với hương thơm tỏa ra từ người các tỳ nữ. Hương thơm mê người khiến bước chân càng nhanh hơn, bọn họ đi vội vàng qua hành lang thẳng tắp, cuối cùng cũng đến một tòa đình viện đầy khí thế. An Mi không kìm được mở to mắt nhìn thật kĩ, đầu tiên là sân trước được trồng đầy trúc xanh ngát, khi đi qua một cánh cửa để vào bên trong thì đập vào mắt là khu vườn rộng đầy cây phong lá đỏ tươi. Đằng trước nhà chính có một cái hồ nhỏ được vây quanh bởi đá hoa màu trắng. Làn nước xanh và nền đá trắng bị những phiến lá rụng màu đỏ thẳm che kín hết phân nửa, thi thoảng có con cá diếc vảy đỏ trồi lên khỏi mặt nước đớp vào lá đỏ.

Lúc này, trong đầu An Mi chỉ có một ý nghĩ đó là may mắn rằng nàng đã thay quần áo, nếu không thì nàng quả thật rất xấu hổ.

Càng đi vào trong, mùi hương càng nồng đậm, đến trước nhà chính, nàng cởi giày ra giống quản gia rồi dè dặt bước lên bậc thang đá trắng, đi vào từ cửa phía tây. Tỳ nữ bên trong nhìn thấy họ thì lẳng lặng đi vào đằng sau mành báo một tiếng, một lát sau có một tỳ nữ khác ăn mặc còn đẹp đẽ hơn vén mành gấm lên, mời An Mi đi vào trong.

“An tiên sinh, ngài vào đi! Tiểu nhân đứng ngoài viện đợi.” Trương quản gia cười cười với nàng. An Mi hồi hộp tới mức không hít thở được như bình thường, chợt thấy đó rõ ràng là vẻ mặt đợi xem trò cười.

Nàng bước thấp bước cao đi vào phòng khách, cuối cùng cũng tìm được nguồn gốc của mùi hương kia. Một lư hương có hình con vật nhỏ đang phun ra những làn khói mỏng màu trắng ngà từ miệng nó. Mùi hương nồng đậm có tác dụng an thần nhưng khiến An Mi hồi hộp tới mức chỉ muốn hét lên. Cả người nàng căng thẳng, đờ đẫn đi theo tỳ nữ vào sau chiếc mành gấm dày, liền thấy một thiếu niên độ mười ba, mười bốn tuổi, tóc còn đang để chỏm, nhìn nàng chăm chú, vẻ rất tò mò.

“Ngài là An tiên sinh ở nha huyện Huỳnh Dương?” Thiếu niên có vẻ mặt thanh tú đó nhìn nàng chằm chằm.

“Ừ, đúng vậy.” An Mi thầm cảm thấy lạ. Cậu thiếu niên tóc để chỏm này cứ nhìn nàng chòng chọc, trông như muốn nói lại thôi, hình như cậu ta đang nhìn vết sẹo ở thái dương nàng, bằng một ánh mắt rất gay gắt.

“À, mời theo ta…” Cuối cùng cậu ta gật gật đầu, dẫn An Mi đi qua một bức bình phong sơn thủy tuyệt đẹp.

Nàng thấp thỏm đi qua bức bình phong, đây là lần đầu tiên nàng gặp Phù Trường Khanh.

An Mi không biết nhiều chữ nhưng vào khoảnh khắc này, nàng trở nên vô cùng sáng dạ, hiểu ngay thế nào là “Lạc Dương tài hoa tuấn tú”. Trong làn hương khói, nàng chợt nhớ đến Thần Hòe, nhưng người thanh niên đang ngồi thẳng lưng trên sạp, cầm chén trà kia hoàn toàn không phải là thần tiên, mà là một người đang sống sờ sờ. Sự hiện hữu của hắn giống như tia nắng đầu tiên lướt qua mặt hồ sau cơn mưa. Lúc này, nàng không rõ hắn ăn mặc như thế nào, chỉ nhớ đôi con ngươi đen láy của hắn nhìn nàng chằm chằm, một đôi mắt sâu thăm thẳm.

Nàng cảm thấy Khương đại nhân nhầm rồi, người đàn ông như thế này sao có thể thích mấy viên trân châu cơ chứ?

Một lần nữa Phù Trường Khanh lại cảm thấy không vui. Hắn đã có thể kết luận chắc chắn rằng viên huyện lệnh huyện Huỳnh Dương là một kẻ tầm thường, thế nên mới phái một gã nông cạn với cặp mắt ngây dại đến gặp mình. Hắn liền cười nhẹ, tỉnh bơ nói: “Vị này chắc là An tiên sinh ở huyện Huỳnh Dương? Quả nhiên có phong thái tao nhã, đúng như “cây ngọc Đông Hải bên Xích Thủy, hoa nở hoa tàn năm lại năm”!”

Phù Trường Khanh lấy một câu trong Yến tử Xuân Thu để chê khéo An Mi chỉ có cái mã bề ngoài, nhưng nàng làm sao mà hiểu được, lại tiếp tục ngây thơ vái hắn một cái. “Tiểu nhân An Mi bái kiến đại nhân!”

“An Mi?” Phù Trường Khanh liếc nhìn bái thiếp hắn đang cầm, xong lại nhìn nàng rồi gật đầu. “Người cũng như tên, quả nhiên có một đôi lông mày đẹp.”

Nàng có thể nghe ra ý hắn khen mình, trái tim lập tức đập tình thịch. Nàng run run cầm hộp gấm trong lòng, cúi đầu, trình lên trước mặt hắn. “Đây là… đây là chút tấm lòng của Khương đại nhân ạ!”

Phù Trường Khanh nhướng mày, giơ tay nhận lấy cái hộp, mở ra, thấy bên trong có mười viên trân châu sáng bóng thì trầm mặc không lên tiếng. Nàng không dám nhìn vào ống tay áo màu xanh ngọc hơi vén lên của hắn, đành ngẩng đầu tìm chủ đề để nói: “Khương đại nhân bảo đây là trân châu Bắc Hải tiến cống, nếu không có đường riêng thì rất khó kiếm được.”

Sau khi lắp bắp xong câu này thì nàng nhìn thấy rõ ràng hai mắt người đàn ông giống thần tiên này bỗng chốc lóe sáng, thế là nàng càng căng thẳng, hy vọng món quà đúng ý thích của hắn. Phù Trường Khanh không phụ sự mong đợi của nàng, cười lên rất vui vẻ. Hắn nâng cái hộp gấm trong tay, vuốt cằm, nói: “Nếu đã là tấm lòng của Khương Huyện lệnh thì ta nhận vậy. Cảm ơn ngươi, ta rất vừa lòng về món quà đáng giá này.”

An Mi thở phào nhẹ nhõm, lập tức vái hắn một cái nữa, lòng vô cùng vui sướng. “Đại nhân vừa ý là tốt rồi!”

“Ừm, ngoài món quà này thì Khương Huyện lệnh còn dặn ngươi truyền lời gì nữa không?” Phù Trường Khanh gọi A Đàn, ra ý bảo hắn rót trà cho An Mi.

An Mi cầm chén trà như ôm của quý, cố gắng tìm kiếm lời Khương Huyện lệnh dặn dò nhưng không thể nhớ ra được, đành nói: “Vâng… Khương Huyện lệnh cũng không nói gì, chỉ xin ngài để ý nhiều hơn.”

“Ha ha, Phù mỗ sao có thể thẹn với món quà quý của Khương Huyện lệnh được, ta đã hiểu rồi, An tiên sinh cứ yên tâm đi!” Phù Trường Khanh đặt hộp gấm lên bàn. “An tiên sinh không có chuyện gì bàn nữa, cũng không còn sớm, nếu tiên sinh không chê thì mời ở lại phủ ta một đêm. A Đàn, ngươi dẫn An tiên sinh qua gặp Trương quản gia, bảo ông ấy thu xếp cho tiên sinh.”

“Dạ!” A Đàn nghe lệnh liền dẫn An Mi đang mơ mơ màng màng chẳng hiểu gì đi ra khỏi đình viện Phù Trường Khanh ở. Trên đường đi, cậu ta không ngừng quay đầu lại nhìn nàng, cuối cùng không kiềm chế được hỏi: “An tiên sinh, ngài còn nhớ ta không?”

“Hở? Gì cơ?” An Mi không có chút ấn tượng gì, liền hỏi ngược lại: “Chúng ta từng gặp nhau sao?”

A Đàn nhíu mày, mới đó đã cười, đáp: “Hình như là chưa, chắc ta nhớ nhầm.”

Do A Đàn là người hầu hạ bên người Phù Trường Khanh nên An Mi thật muốn lấy lòng cậu ta, nhưng nàng không rành các thủ đoạn mua chuộc, lôi kéo nên đành len lén đưa cho cậu ta một thỏi bạc khi cậu ta chuẩn bị rời đi: “Cho cậu, mua bánh kẹo mà ăn…”

Cậu ta tỏ vẻ rất vui sướng, cảm ơn nàng rồi vẫy vẫy tay chào xong mới đi, tuy nhiên lúc về đình viện thì vẻ mặt cậu ta lạnh lùng, thẳng tay ném thỏi bạc xuống hồ nước, rồi xoa xoa tay. “Cái thứ gì chứ… thật là thô tục!”

“Haizz, người ăn lúa nước, lúa miến và người ăn cám bã quả thật không giống nhau.” Trên đường về Huỳnh Dương, An Mi cứ lên ngựa một lần là lại cảm thán một lần, nghĩ đến Phù Trường Khanh kia là lại thở dài mất hồn. “Haizz, sao thế gian lại có người như thế…”

Lư Đào Thăng kéo dây cương, không nhịn được mà cười, trêu: “Cả đường nghe huynh khen bao nhiêu lần rồi đấy, vậy huynh nói thử xem ta ăn gì mà lớn?”

An Mi nghĩ ngợi rất nghiêm túc, rồi nhìn Lư Đào Thăng, đáp: “Huynh ăn hạt kê để lớn1!”

1.Tam tự kinh có câu: “Đạo (lúa nước), lương (lúa miến), thúc (đậu tương), mạch (lúa mạch), thử (hạt kê), tắc (lúa tắc) là sáu loại lúa mà người ta ăn.”

“Ha ha ha, An tiên sinh thật khéo đùa…” Lư Đào Thăng cười to, chắp tay vái nàng một cái. “Đa tạ lời khen, nhưng huynh khen nhầm rồi, nhầm rồi!”

An Mi cười ngại ngừng, cúi đầu chăm chú đánh ngựa đi về phía trước.

Ngày hôm sau, hai người về đến Huỳnh Dương báo cáo Khương Huyện lệnh. Khương Huyện lệnh nghe kĩ lời tường thuật của An Mi, sau đó hài lòng lên tiếng: “Khà khà khà, nói vậy thì Phù Thứ sử rất vui vẻ nhận quà?”

“Dạ, ngài vừa cười vừa nhận, còn nói chắc chắn sẽ chiếu cố đại nhân.” Chính An Mi cũng thấy vui.

Khương Huyện lệnh thưởng luôn cho nàng một quan tiền. Khi nàng cầm tiền thưởng đi ra khỏi nhà sau thì bất thình lình bị đám sai dịch vây quanh. Ngay đêm đó, tiền thưởng nặng trịch liền hóa thành rượu thịt vào bụng mọi người, thế mới nói: “nước trắng sao kiếm nổi tri kỷ, rượu thịt đổi ra anh em ruột”.

An Mi ngây ngô cứ như vậy sống thoải mái thêm được vài ngày. Lúc đầu, Khương Huyện lệnh nhận tiền đút lót của “An Mi” vì bị nàng nịnh đến mức vui sướng mà mời nàng làm sư gia lo chuyện tài chính thuế vụ ở nha huyện Huỳnh Dương. Bây giờ người làm quan thì không thể thiếu phụ tá, làm huyện lệnh liền cảm thấy cần năm, sáu sư gia thì mới làm tốt được việc công. Nhóm sư gia trong gia môn được chia ra các lĩnh vực: hình pháp, tài chính và thuế vụ, tấu Chương và báo cáo, kiểm soát thuế ruộng, văn thư. An Mi là sư gia tài chính thuế vụ, còn Lư Đào Thăng phụ trách việc soạn văn thư, là sư gia văn thư của Khương Huyện lệnh.

Sư gia tài chính thuế vụ y như tên gọi của nó, đảm nhiệm việc kế toán tiền bạc cùng thuế ruộng. Ngày trước An Mi từng học mẹ chồng lo liệu việc nhà nên tạm coi là biết tính toán. Trên đường đi và đường về giữa Lạc Dương và Huỳnh Dương, nàng lại nhờ Lư Đào Thăng dạy cho một số từ thường dùng và thuật tính. Đến bây giờ, cứ gặp vấn đề khó là lại nhờ hắn giúp nên cũng cố gắng mà làm xong công việc của sư gia.

Nàng vừa thích ứng với cuộc sống thì lập tức hỏi thăm về kênh Đại Hưng. Nhờ thân phận của nàng hiện nay mà nàng nhanh chóng tìm được người đứng đầu nhóm lao dịch đến từ huyện Phù Phong trong đám người. Chuyện tìm người như được trời giúp, nàng tìm gặp được trượng phu của mình - Từ Trân một cách thuận lợi.

Khi An Mi đi vào kênh Đại Hưng giữa tiếng hô hào vang trời của nhóm lao dịch, nàng bước thấp bước cao đi lên sườn đất lầy lội, đưa túi vải trắng nhét đầy bánh bao nhân thịt vào tay Từ Trân. Hai môi nàng run run. Sau khi đi theo trượng phu vào trong một cái lán không người thì nàng lập tức quỳ xuống đầy vẻ sợ hãi, nước mắt lưng tròng, thừa nhận: “Thiếp… thiếp lén bỏ đi.”

Trượng phu Từ Trân đặt bánh bao sang bên, nghiêng đầu nhổ bùn đất trong miệng ra rồi ngồi xuống đất, không hề lên tiếng. Mặt hắn bám đầy bùn khô, trên người mặc một chiếc áo thô sơ bẩn thỉu, quần hở hẳn từ đầu gối trở xuống, để lộ ra cẳng chân gầy guộc đầy sẹo. Một thân lam lũ đối lập với An Mi quần áo sạch sẽ, khiến nàng càng hoảng sợ hơn, vừa thút thít vừa giải thích: “Do mẹ định gả thiếp cho em chàng, thiếp không đồng ý nên mới lén bỏ đi. Vì thiếp muốn tìm chàng…”

“Ừ.” Lúc này, cuối cùng Từ Trân cũng mở miệng, đôi mắt hắn nhìn An Mi chằm chằm, giọng nói lại rất bình lặng. “ Ta cứ ở mãi trên kênh đào chịu khổ, vừa không biết chữ lại chẳng có tiền nên mới không gửi thư được. Nếu nàng không muốn về nữa thì tạm thời cứ sống thế này đi.”

Hiệu quả của một câu nói này còn hơn hẳn viên thuốc an thần, An Mi nở nụ cười thoải mái như trút được gánh nặng. Nàng gật đầu, đáp lời trượng phu với vẻ đầy cảm kích: “Bây giờ thiếp… thiếp làm việc ở nha huyện, bọn họ không biết thiếp là con gái. Thiếp đã có tiền, chắc chắn thiếp sẽ đến đây thường xuyên đưa đồ ăn cho chàng, chàng nhớ dặn người cùng thôn là đừng nói thiếp là nữ cho người ngoài biết nhé!”

Từ Trân cũng không hỏi tại sao An Mi lại may mắn như thế, chỉ gật gật đầu. “Yên tâm, chúng ta đều biết chừng mực.”

An Mi không hề ngờ rằng trượng phu lại thuận theo ý mình như vậy, quả thực giống như đang mơ. Nàng nghĩ vậy liền bật cười. Nàng cảm thấy thật vui, bỗng nhiên có một cuộc sống hoàn toàn mới, gần như ngày nào cũng có niềm vui, lại có thể kiếm chút lợi lộc để thỉnh thoảng đưa tới kênh Đại Hưng. Huyện lệnh thì hòa nhã, đồng nghiệp nhiệt tình, gặp chuyện gì thì có Lư Đào Thăng giúp nàng. Cứ cách vài ngày nàng lại lấy lý do là tìm vui để đến quán rượu Gió Xuân, nhưng thực ra là che giấu cho Lư Đào Thăng và Khang Cổ Nhĩ gặp nhau. Có khi nàng còn chợt nhớ đến Phù Thứ sử khi nghe tiếng đàn tỳ bà tình tang của Khang Cổ Nhĩ.

Hắn đã được An Mi khắc sâu trong tim. Nàng đã quên câu mở đầu đầy sâu xa của hắn từ bao giờ, chỉ nhớ đến khí thế của hắn, sự hiện hữu như ánh nắng chiếu lên mặt hồ sau cơn mưa.

Một người như vậy liệu nàng có thể gặp lại không?

Hiện thực khác xa so với nàng có thể dự kiến, nàng sẽ gặp lại Phù Thứ sử rất nhanh, không tới một tháng sau lần gặp đầu tiên.

Đó là một ngày cuối tháng Mười, cái rét mướt giữa đông đã tới, gió bắc ào ào mang theo cả tuyết trắng phả vào mặt lạnh cóng. Sau buổi trưa, An Mi đi lên chỗ đào kênh thăm trượng phu, vừa về đến nha huyện thì bất thình lình có hai sai dịch bước đến kéo nàng. Nàng nhìn quần áo của bọn họ thì nhận ra bọn họ đều là sai dịch ở phủ quận, liền ngạc nhiên hỏi: “Hai vị đại ca, có chuyện gì vậy?”

“Ngài là An sư gia của nha huyện đúng không? Mau đi theo chúng ta tới phủ quận một chuyến, quan trên muốn hỏi chuyện.” Hai người khách sáo nói xong thì kẹp hai bên nàng, sức lực ở bàn tay rất mạnh. “Là phúc thì không phải họa, là họa thì không tránh nổi. An sư gia, xin đắc tội!”

Nàng ngây người, chỉ biết thẫn thờ đi theo hai sai dịch. Khi đến công đường lớn ở phủ quận thì sai dịch buông lỏng tay, nàng thuận thế mà lảo đảo quỳ sụp xuống đất. Đằng sau có người hô một tiếng: “Sư gia tài chính thuế ruộng ở huyện Huỳnh Dương - An Mi đã được giải tới!”

Nàng giật mình. Ngay sau đó, nàng nghe thấy một tiếng kêu thảm thiết thì trong lòng càng thêm hoảng loạn. Nàng bạo gan ngẩng đầu lên thì phát hiện bên cạnh mình có bốn sai dịch đang đứng thẳng, còn người bị bọn họ vây ở giữa lại chính là phu nhân Khương Huyện lệnh ngày thường rất cao ngạo - Quý thị. Mười ngón tay của Quý phu nhân bị kẹp chặt, các thanh trúc bị hai gã sai dịch đứng bên kéo dây thật căng để chúng kẹp chặt lại. Đằng sau có hai gã sai dịch khác đang giữ chặt, ép nàng ta chịu hình khiến nàng ta không thể nào giãy giụa được, chỉ biết kêu la thảm thiết. Lúc này, Khương Huyện lệnh đã bị tước mũ ô sa cùng áo quan, đang quỳ một bên, người run lẩy bẩy nhìn người vợ chịu hình, nước mắt nước mũi lem nhem cả mặt.

An Mi rùng mình. Bỗng có tiếng thước gỗ đập một cái, nàng nhanh chóng quay lại nhìn, đúng lúc đối mặt với ánh mắt lạnh lùng của Phù Trường Khanh. Máu trong người nàng dường như đông đặc lại, nàng không hiểu tại sao một người lại có thể có hai bộ mặt khác nhau đến thế. Người nàng gặp lúc trước trông hệt như thần tiên, vì sao lúc này hắn lại lạnh lùng như băng tuyết mùa đông?

“Khương Quý thị, ngươi có nhận tội không?” Sau khi kẹp ngón tay, một gã sai dịch liền hỏi Quý phu nhân.

Quý phu nhân lắc đầu một cách yếu ớt, bờ môi trắng nhợt nhạt mấp máy: “Ta… ta không biết gì hết…”

“Hừ!” Một tiếng “hừ” nhẹ vang lên trong công đường, sau đó là giọng nói lạnh băng: “An sư gia, ngươi đến giúp Quý phu nhân xem đây là gì?”

An Mi ngơ ngẩn ngẩng đầu, có vị hình danh sư gia giơ một hộp gấm tới trước mặt nàng, bên trong là mười viên trân châu trắng nhẵn nhụi đang tỏa sáng lấp lánh. Nàng giật mình, lập tức biết được chuyện gì đang xảy ra. Phù Thứ sử tới hỏi tội!

Nàng không biết nên đứng về bên nào, sự lựa chọn duy nhất chính là trả lời thật: “Đây là… trân châu.”

“Còn gì nữa?” Phù Trường Khanh cười khẩy trên công đường. “Ngày đó, những lời ngươi nói không chỉ có như vậy thôi đúng không?”

“Đây… là trân châu Bắc Hải tiến cống.” Giọng nói vô tình nọ làm nàng không kiềm chế được, hai mắt nóng lên. Cuối cùng nàng cũng hiểu rõ ý nghĩa đằng sau nụ cười của hắn hôm ấy.

Không hiểu sao trong lòng bỗng thấy khó chịu, còn khó chịu hơn cả khi bị người ta làm nhục.

Phù Trường Khanh chăm chú nhìn người đang quỳ bên dưới, giọng trầm xuống: “Ngươi có biết Khương Huyện lệnh làm sao mà lấy được cống phẩm của nước ngoài không?”

“Tiểu nhân… tiểu nhân không rõ lắm, hình như Khương Huyện lệnh có một người anh vợ, có đường nào đó trong triều…” An Mi đờ đẫn đáp lời.

“Có phải là Hồng lư khanh Quý đại nhân?” Tiếng nói hòa nhã như đang dẫn dắt. Hắn cần câu trả lời này.

“…” An Mi không biết hồng lư khanh là gì, tạm thời không trả lời được.

“Có phải là người… “Kinh đô có Quý Tử Ngang đường đường chính chính”?” Miệng hắn cười đầy ẩn ý.

“Đúng, chính là người này.” Nàng chợt nhớ ra Khương Huyện lệnh từng nói với mình câu đó nên gật gật đầu. Câu nói “Lạc Dương có Phù Trường Khanh tài hoa tuấn tú, kinh đô có Quý Tử Ngang đường đường chính chính.” đã in sâu trong đầu nàng.

“Hắn nói láo, hắn nói láo!” Quý phu nhân hét lên. “Kẻ này không rõ lai lịch, hắn cố ý vu oan hãm hại!”

“Có vu oan hãm hại không thì còn phải hỏi thêm mới biết.” Phù Trường Khanh thong thả liếc mắt qua ống thẻ ba màu trước mặt, đầu ngón tay khẽ chạm vào thẻ màu trắng, đen, đỏ, cuối cùng rút ra thẻ đỏ ném xuống công đường. “Mười trượng, vẫn đánh Khương Quý thị.”

Một thẻ đỏ nghĩa là mười trượng nhưng lực đánh còn mạnh hơn hai thẻ màu đen. Mỗi trượng đều khiến người ta lòi thịt rách da, gãy xương dứt gân.

Ngay lập tức Khương Huyện lệnh hét to: “Đừng! Đừng đại nhân! Có quy định “sau khi dùng hình kẹp tay không được phạt thêm trượng” mà đại nhân…”

“Thánh nhân không nhất định phải theo cổ, giữ lệ cũ, mà phải xét việc đương thời rồi tùy nghi tìm biện pháp. Luật lệ ngày xưa nên xóa bỏ từ lâu rồi.” Phù Trường Khanh liếc sang những sai dịch đang do dự, chậm rãi nói: “Đánh.”

“Đại nhân! Đại nhân, phu nhân đang mang thai, không thể dùng trượng hình.” Khương Huyện lệnh quỳ rạp trên đất, khóc to. “Đại nhân, có gì thì ngài cứ giáng xuống người hạ quan, đánh vào người hạ quan! Đại nhân…”

“Vậy hả? Lý do này được lắm.” Phù Trường Khanh “hừ” một tiếng.

“Đại nhân, đại nhân, hạ quan không nói bừa! Đại nhân mời bà đỡ tới kiểm tra là biết ngay!” Khương Huyện lệnh dập đầu không ngừng trước Phù Trường Khanh, khẩn khoản van xin.

“Ừm, đúng.” Phù Trường Khanh gật đầu rồi ra lệnh cho sai dịch đi tìm bà đỡ, nhưng không ngờ hắn lại nói thêm một câu: “Trước khi bà đỡ đến vẫn đánh cho ta!”

Hai gã sai dịch ép Quý phu nhân nằm sấp xuống đất, trượng gỗ áp hai bên trái phải. Quý phu nhân tuyệt vọng bắt đầu khóc lóc thê thảm. Khương Huyện lệnh hoàn toàn suy sụp trước một Phù Trường Khanh máu lạnh vô tình. Ông ta nằm trên mặt đất, sắc mặt đã chuyển sang màu xám tro, nói với giọng thều thào khi đã chẳng còn hy vọng gì nữa: “Đại nhân hạ thủ lưu tình, hạ quan nhận tội, hạ quan nhận hết…”

Ngày đông tháng Mười, chuyện Khương Huyện lệnh hối lộ bị vạch trần, Thứ sử Dự Châu - Phù Trường Khanh đích thân thẩm vấn. Viên huyện lệnh họ Khương trong lúc tra hỏi đã nhận tội mình tham ô và nhận hối lộ, làm việc thiên về tư trái với luật pháp, cấu kết với thương nhân lén lút vận chuyển muối, còn liên quan tới cả chuyện Hồng lư khanh Quý Tử Ngang cất giữ cống phẩm của nước ngoài. Phạm nhân phạm nhiều tội, phán xử trảm, ngoài ra những phụ tá dính dáng nhiều tới vụ án đều bị xét tội bỏ tù, phán lưu đày. Từ đó huyện Huỳnh Dương không còn tệ nạn nữa, dân chúng đều vui mừng.