← Quay lại trang sách

Chương 4

Ngồi đối diện với ông Phủ, bà Hai mặc áo gấm, mang hài thêu, ngọc dắt, huyền đeo, nâng chung trà nhỏ nhắp từng ngụm chắp chắp hít hà. Hằng đi ngang, dừng lại rót một chén, ngồi xuống bên cha. Nốt ruồi bám ở má Hằng là một dấu hiệu có duyên nằm trên khuôn mặt hây hây hồng. Chiếc mũi thanh dọc trông như miếng đu đủ được cắt tỉa ra. Đôi mắt dài hình đuôi cá đựng cái nhìn không thẳng hút hồn.

Ông Phủ nhìn bà Hai:

- Cả đi chợ hay là còn đi mô nữa không mà ăn mặc bề vậy?

Bà Hai ho và nói:

- Đi phố, đi chợ.

Ông Phủ nhăn mặt:

- Đừng có đi lại Đền nghe không?

Bà Hai cúi xuống chiếc áo gấm màu đồng hỏi Hằng có đứa mô muốn đi chợ không? Những đứa con gái mặt chưa rửa lần lượt ra ngồi vào những chiếc ghế trống. Chị em Hằng đẹp không hơn không kém nhau, người nào cũng láu táu, tinh ranh. Chị Trang của Hằng đã có chồng mang cái bụng con so về nhà đẻ thằng cu đúng ba tháng thì biết lật.

Ông Phủ nhìn lại bà Hai:

- Cả đi mô thì nhớ mau mau mà về nhà sắp có khách đó.

Bà Hai ngước lên:

- Có khách à?

Ông Phủ cười:

- Khách quý lắm, đặc biệt lắm! Hân hạnh lắm!

Trang lanh miệng:

- Ai mà hồi hộp rứa ba?

- Một ông thầy, một nhà sư tốt nghiệp Tiến sĩ, dân chúng học ở ngoại quốc về, thầy Thiện Tân.

Hằng ngang giọng:

- Điệu Tân, cái Điệu Tân học trường Trần Cao Vân năm xưa với con đó. Mới nhỏ chút chéo đó mà bây giờ đã trở thành Thượng tọa với Đại đức… Học hành tu hành hoán cải mà mau dữ vậy không biết?

Đức che miệng ngáp, nhìn vào bức tranh Khổng Tử ú ớ một điều gì.

Hằng lại cười, mặt như được chiếu ánh sáng hồng:

- Năm xưa năm xửa ông ta học một lớp với con, cùng đi cùng về.

Ông Phủ nhìn Hằng:

- Bây giờ chắc thầy Thiện Tân không nhớ mi mô. Thầy đã đỗ Tiến sĩ.

Hằng cười:

- Lẹ quá! Bây giờ ai cũng gọi bằng sư bằng thầy… Lúc xưa anh chàng quê rích quê rang nói năng như mọi ú ớ… Lúc học lớp với con đó, anh chàng sún hết cả hai hàm răng, đầu tóc thì cạo láng còn chừa hai cái vá múc cháo… Cái đầu anh ta như đầu chó vá. Anh ta thông minh một cách kỳ lạ. Hồi đó hình như có một chàng tiểu nhỏ tên là Lý chi chi đó.

Ông Phủ nói giọng trầm:

- Điệu Lý chừ cũng lên thượng tọa rồi… hiền lành phúc đức như sư cụ chùa Từ linh năm xưa.

Hằng cong môi:

- Điệu Lý dốt lắm… miệng mồm ba hoa khoác lác mà học hành thì dốt ình. Cửu chương ba học mấy cũng không thuộc.

Bà Hai lấy trầu ăn:

- Người ta dốt chữ nhưng tu hành kinh kệ thì người ta giỏi. Sư cụ chùa Từ Linh thiệt có phước, đệ tử đều làm nên nấu chín.

Đức lên tiếng:

- Bên Phật tu hành dễ òm. Chịu khó ăn chay một tí là thành.

Bà Hai trừng mắt:

- Nói bậy tội chết.

Đức đều giọng:

- Tu hành bên Phật dễ hơn bên đạo nhiều, ai tu cũng thành hết.

Ông Phủ nạt:

- Đừng nói ba lơn rồi quen miệng đi.

Đức nói:

- Ăn chay là một luật điều hết sức khó, con có nói ăn chay dễ đâu. Phải dày công dày quả lắm mới ăn chay dài cả đời để làm thầy chú… Con đâu có bảo ăn chay là dễ. Ăn chay khó lắm, nên có người mới giấu đĩa rau muống một cái trứng vịt.

Bà Hai nghiêm mặt ngó Đức:

- Ai bảo con là có người ăn chay giấu trứng vịt dưới dĩa rau muống?

Đức nói:

- Người ta còn giấu cả thịt tôm ở dưới nữa.

Bà Hai nhăn nhó:

- Con đừng nói bậy.

Đức cười:

- Có nhiều người không đi tu được vì ăn chay không được.

Bà Hai đứng dậy sai Hằng vô lấy xách tay với nón quay găng. Ông Phủ nhìn vợ:

- Cả đi chợ mau mau về đó! Cả nhớ mua vài mớ mắm thật ngon trưa xào nấu đãi thầy.

Bà Hai cười:

- Còn hốt mấy mớ hụi rồi mới đi chợ.

Mỗi ngày bà Hai chơi hàng chục bát hụi nhỏ ngoài chợ với mấy mụ bán thịt bán cá bán rau, hành cải gạo cơm bún cháo bánh lá bánh hỏi. Bà Hai xuất ra một số vốn khá lớn cho mấy bạn hàng đó sớm vay chiều trả.

Mỗi ngày bà đóng tới hơn nghìn bạc, chừng hai tháng sau thu về đủ cho cả nhà ăn tiêu rộng rãi số tiền lời trong vài tháng. Còn cái vốn đem đóng lại. Bà quen mặt hết bạn hàng trong chợ búa và chưa bị họ giật tiền lần nào. Cái uy thế của ông Phủ, cái mồm miệng ma quái của bà khiến bạn hàng chợ không dám lèo lá lật lọng. Bà la to quở nhỏ, hét lên rú xuống nên cả chợ gọi bà là bà la.

Ông Phủ sai mở rộng cửa giữa đón Thượng tọa Thiện Tân vào. Sau chén trà Vũ Di, ông cho người nhà vô gọi mấy cô ai rảnh thì ra chào thầy.

Hằng đến trước mặt nha sư trẻ reo vui:

- Thưa thầy… Điệu Tân, Điệu còn nhớ con Hằng học trường Trần Cao Vân với thầy năm xưa không?

Nhà sư nhỏ nhìn thẳng một đường:

- Dạ cô… cô Hằng.

Hằng cười:

- Điệu Lý chừ cũng lớn rồi…

Ông Phủ nhìn con:

- Thầy đã đậu tiến sĩ, thầy đã được lên thượng tọa. Thầy Lý cũng lên thượng tọa, con đừng đùa nữa.

Ông Phủ quay qua nhà sư:

- Cháu Hằng lúc trước học lớp với thầy. Lúc nhỏ cháu thiệt thông minh. Nhưng lớn lên cháu bị bịnh tim phải nghỉ học tới ba năm rồi đi học lại, nhưng thi đâu hỏng đó. Bây giờ cháu mới học lớp đệ nhất thôi.

Ông Phủ chỉ Trang tiếp:

- Còn cháu đây là cháu Trang, vừa đẻ con so là một thằng cu. À, Trang, con vô bốc thằng cu ra đây cho thầy thưởng. Hằng trợn mắt đen huyền:

- Bốc thằng cu ra chào thầy răng được. Thằng cu đang làm nghề lật đi sông hoa cà hoa cải, đi tướt phèn phẹt. Ai “tướt” đi ngoài sương gió.

Mấy chị em cười hức hức nhìn ông thầy. Ông Phủ cau mặt:

- Tụi bay không biết thưa chuyện với thầy, cứ ba lơn hoài.

Hằng nói:

- Bây giờ kêu bằng thầy. Cứ nghĩ ngày xưa cứ ê Điệu Tân, ê Điệu Lý hoài mà cười chết luôn.

Ông Phủ nghiêm đôi mắt nhìn con gái. Thầy đây cái tâm vững hơn đồng, cái chí cứng hơn thép, trí có ngời như mặt nguyệt đêm rằm.

Thầy có chí hơn Trần Minh khố chuối, hơn Châu Trí đốt lá. Thầy cha mẹ không mô có. Sư cụ chùa Từ Linh nghèo xơ xác nhận thầy làm đệ tử nuôi thầy học kệ bữa cháo bữa rau. Rồi dân bạn hàng bên chợ thương thầy thông minh ý chí mới lạc qUyển tiền bạc đóng góp máu huyết với tủy sống của mình để đào tạo thầy nên danh nên trạng để thầy đem cái học lớn ra mà bưng đạo, thầy đem cái tài cao ra mà chống đỡ cho Phật giáo đứng vững, thầy thiệt giỏi không ai giỏi hơn thầy rồi đa. Học một biết mười, biết trăm. Thầy trẻ tuổi mà thiệt đáng phục rồi đa. Thầy thiệt xứng đáng với sự đóng góp của đồng bào tiểu thương. Từ những cái trứng, từ những bó rau, những của cải, những nắm đậu, nắm mè, những lon gạo, những mớ cá mớ tôm, miếng thịt, thầy đã thành danh một ông tấn sĩ, thầy đã thành danh một thượng tọa đức độ. Ai cũng khâm phục, ai cũng nể vì Phật giáo thật đã đến thời kỳ hưng thịnh.

Người tu hành chậm rãi nói:

- Chúng ta đang sống trong một cuộc sát sanh thật vĩ đại. Chiến tranh được tổ chức để ngăn chưa đừng cho đất nước thống nhất. Người lính ra trận đánh giặc để minh xác hai miền bờ cõi. Chủ đích của những người gây chiến là đừng để đất nước thống nhất nhưng lại hô hào hòa bình thống nhất quen mồm đi, để ngụy trang cho chiến tranh. Rồi những bài hát tuyên truyền, những bài văn tuyên truyền mong mỏi ca ngợi hy vọng hòa bình, thâu gồm một mối giang sơn để nối nhịp cầu Hiền Lương… Những bài kịch giả tạo đó chỉ là hia mão bằng giấy để tế cô hồn tử sĩ hoặc để an ủi thập loại chúng sanh mà thôi.

Ông Phủ đặt đũa xuống mâm:

- Ui trời ơi… bao nhiêu kẻ bị mắc cạn trong cái chiến tranh.

Đôi môi Hằng hồng đều như trong một cơn sốt rực rỡ. Hằng múc một chén cháo chay cầm muỗng lên ăn.

Đôi vai vuông được vắt xéo qua tấm áo màu cờ vàng thượng tọa, Thiện Tân có một dáng dấp chững chạc, vững vàng với hai bắp thịt tay no tròn. Đôi vai nhà sư không ngang bằng, bên khoác áo được đưa cao và bên kia hạ xuống, trông nhà sư có vẻ hiền lành chịu đựng. Mắt bí ẩn và miệng mím chặt.

Hằng bấm Uyển cười nhỏ:

- Cái miệng ông thầy, chuyện tình nhất định cạy không ra mà chuyện thời sự thì phun có vòi.

Uyển cười:

- Buồn cười nhất là ba mình, bỗng dưng đâm ra phản chiến. Mới ngày hôm kia ba còn thực dân phong kiến một cây.

Hằng to mắt:

- Thực dân phong kiến! Ba mà là một cây à! Ba một rừng chớ bộ.

Giọng nói người tu hành bằng bằng trầm hẳn xuống:

- Quả tim lính Mỹ đã ngừng đập ở đây, hơi lính Mỹ đã tắt ở đây, máu họ đã đổ ào, xương họ đã phơi trắng, và hồn ma họ lẫn khuất đâu đây trong bờ bụi, lùm cây ngọn cỏ. Không biết họ sát sinh vì ai và họ tự sát để cho ai? Chỉ biết rằng họ đã chi tiền để nuôi dưỡng chiến tranh, họ tung ra những thế cờ mà chính họ phá cũng không nổi. Những người Việt Nam được ủy nhiệm giữ cái chiến tranh này.

Hằng nhanh nhảu trả lời:

- Chết nhiều như dịch, chưa bao giờ tôi thấy số đàn ông chết nhiều như lúc này. Vâng, bởi đó, đàn ông đi tu nhiều như đi trốn, trốn chui trốn nhủi vào nhà chùa.

Trang đưa tay dưới bàn véo Hằng một cái mạnh. Hằng rụt cổ lại rồi nói tiếp:

- Chớ sao nữa? Còn chi nữa? Làm đàn ông là phải đẫm máu, phải hiến huyết, phải làm than làm củi, phải tự thiêu, phải tự siết cổ, phải hy sinh, phải bi đát. Có những bàn tay vô hình nấp sau lưng xô đẩy đàn ông vào chỗ chết, những bàn tay xô ập tới, và những đàn ông nằm sắp chết.

Có những bàn tay khổng lồ cầm ngang tuổi trẻ, cầm ngang eo xách cổ túm đầu ném vào bếp lửa… Báo đăng, radio đọc ngày hôm qua có chín mươi chín người chết ngày hôm nay có bảy mươi bảy người chết, và những người đàn ông nằm sắp chết. Mỗi ngày mỗi chết… Nam mô tiếp dẫn đạo sư A di Đà Phật.

Giọng nói người con gái giòn như sụn rướn lên, giảm xuống. Hằng gục mặt cười thành cơn. Mặt Hằng đẹp nõn nà, mắt mũi miệng thân hình chi chi cũng đều thơm tho xinh xắn. Hằng đã qua Nhật sửa nhan sắc, thay đổi vài nét trên bộ mặt cho đẹp hơn nữa để đem về nước một giai phẩm hình hài tuyệt hảo. Nhà sư lắc đầu nhìn qua hơi hé cười rồi lại ngồi ngay ngắn liền.

Ông Phủ trứng mắt:

- Cái miệng con Hằng lúc nào cũng be be lóc lách chọt chét không ra cái chi chi hết, có khách có khứa mà.

Hằng bấm Uyển:

- Ngó mặt mũi nhà sư non này tui tức cười quá! Hi! Ngày xưa anh chàng ngốc nghếch quê mùa cười chết luôn. Anh chàng nói cái thứ tiếng chi mà sai chính tả hết… Mỗi lần tui sáp lại hỏi chuyện là anh chàng lập tức chui vào nách anh chàng kia. Điệu Tân, Điệu Lý, cả hai đều mê đọc tiểu thuyết. Quê ơi là quê.

Uyển xì hơi:

- Người ta là ông thầy mà kêu là anh chàng. Trường hợp mình là bạn bè cũ nên kêu bằng chú…

Quanh mâm cơm, sự hoạt động đều đều và từ từ. Mọi người ăn vui ăn ngon. Ông Phủ hết lòng mời cơm khách. Cơm chay mà biết nấu ăn còn ngon hơn ăn mắm. Theo tôi thì mỗi tháng nên ăn chay thật nhiều lần cho nhẹ bụng. Ăn chay trí óc dễ thông minh hơn ăn mặn. Cái bao tử mà nhét đầy thịt cá thì dục vọng dễ xông lên mờ óc não đi.

Hằng nhếch mép cười cầm hơi:

- Ngày xưa tổ cha chúng ta là Lạc Long Quân, tổ mẹ chúng ta là Âu Cơ quanh năm ăn thịt sống cá sống nên dục vọng quá phát triển, làm ái tình với nhau, ăn ở với nhau một trăm mặt con trai rồi chán nhau, xung khắc nhau, đòi đi riêng. Đẻ một trăm thằng con trai sờ sờ ra đó mà còn ly dị, mà còn ly thân, mà còn chia đôi con cái rồi mạnh bà bà đem lên núi, mạnh ông ông đem xuống biển. Người xưa đã không hòa, thì người nay, chúng ta hòa sao được. Gương xấu của tiền nhân còn để lại kếch xù ra đó dạy cho chúng ta chỉ ly khai chứ đừng có liên hiệp.

Bà Hai nhìn Hằng:

- Phiền, con gái con gung mà cứ ưng nói mấy chuyện cái chuyện chi mô. Đức phát lên cười. Minh lừ mắt đứng dậy. Giữa bữa ăn có nhạc. Nhạc mát như hai cánh cửa đã mở toát: một buổi mai mùa xuân trời xanh thẳm và mây bay lửng thửng, có một đàn chim nhỏ từ thiên đường bay xuống trần gian ríu rít kể chuyện nàng tiên vì một lỗi lầm vụng về bị lưu đày vào chốn bụi hồng ở chung với người hạ giới, nàng tiên biến thành một đóa hoa thơm ngát và cõi trần tự đó cũng thơm lừng.

Nàng tiên rời bỏ thiên đường bằng lòng nhập cuộc ái ân tục lụy. Tự nó không gian mênh mông ngập đầy thương nhớ và đời được chất ngất lớp mộng mị mỏng dày. Cõi tục là cõi tình bát ngát không thể tích có người nam người nữ yêu nhau. Ở cõi tiên chuyện gì cũng thường quá vì người nam người nữ đều đi tu. Ở cõi trên, tình yêu không có.

Bà hai nhìn Minh:

- Mấy cái đĩa “Hoa rơi cửa Phật, “Sự tích Quan Âm Thị Kính” cho người ta mượn thì lấy về để chạy hầu thầy đi con.

Đức cười:

- Phải rồi, đòi cái đĩa “Hoa rơi cửa Phật” về để chạy cho thầy nghe.

Ông Phủ ngó thầy Thiện Tân:

- Thưa thầy, cháu Đức bị bịnh, cháu hay nói năng bất thường.

Đức vẫn cười đùa:

- Ông thầy chắc mê bản “Hoa rơi cửa Phật”. Ôi chưa đầy hai năm mà một vẻ đẹp thùy mị trước kia nay đã thành thân tàn ma dại. Em Lan ôi, tội tình chi mà em phải dọa đày, anh đã đoạn tình cùng Thúy Liễu, anh lên đây rước em về.

Ông Phủ quắc mắt:

- Đức!

Bà Hai đứng dậy đi vào trong đem ra mấy chùm vải trạn. Mới tráng miệng, vải vườn nhà đó. Cây vải trạn trái sai thiệt sai rồi đa, đúng ba năm mới có trái một lần. Trái nào trái nấy tròn ú hộ xép xẹp toàn cả cơm không à, mời thầy tráng miệng.

Ông Phủ hỏi:

- Thầy về nước thầy có đi thăm ngôi trường cũ mình học năm xưa không?

Thiện Tân trù trừ chưa trả lời, Đức cười:

- Thầy làm nên nấu chín rồi, thầy phải đi thăm mái trường xưa mới oai. Như ông Carnot xưa là một ông quan to nước Pháp, một hôm nhân rảnh việc về thăm quê nhà, nhân đi ngang qua ngôi trường cũ ngày xưa, ông ghé vào thăm, thấy ông thầy dạy mình học ngày xưa…

Ông Phủ nạt:

- Đức!

Bà Hai lắc đầu:

- Ăn nói chướng ghê! Con gái càng lớn càng ngang phành phành như cua bò. Chuyện người ta đang xuôi thẳng mà cứ đâm cứ quẹo vô hoài. Con nên đợi khi nào thầy rảnh để hỏi han sách vở kinh kệ.

Minh lừ mắt:

- Cứ lăng phăng, lảm nhảm, lè nhè hoài à.

Thượng tọa Thiện Tân vừa bóc vỏ vải vừa từ tốn nói:

- Từ khi về nước tôi chưa thăm lại ngôi trường cũ nhưng tôi đã đi thăm các chợ.

Ông Phủ ngước lên:

- Đồng bào các chợ có lên thăm chùa mà!

Thiện Tân cười:

- Dạ, bổn phận tôi phải thăm chợ trước. Tôi bước vô chợ Đông Ba lúc trời mưa ào ào, nước bẩn thỉu ngập tới mắt cá. Tôi lại chỗ hàng gạo với hàng thịt đứng nhìn như ngày xưa tôi với chú Lý đứng chu mõm nghếch mắt ngó bà hàng thịt quay cãi lộn với cụ Chắc mua thịt quên trả tiền, bà hàng cá nói thách trên trời nhưng lại bán bằng cái giá quá thấp như mặt đất. Bà Bá vẫn ngồi sau quày thịt heo, một bên bán thịt luộc, một bên bán thịt sống. Tôi đi hết đình chợ ngang qua hàng rau mệ bán mướp giờ đã chết, vợ ông cảnh sát bán đồ gia vị vẫn hàm hồ chửi khách hàng có quai ở miệng, bác bán đậu vẫn còn ngồi bán đậu. Tôi đi ra phía cây thị.

Những trái bứa, những trái thị, trái chay, chùm dâu sậu tôi không còn mê ăn nữa, chú Lý cũng không còn mê ăn nữa. Thầy Lý nay rỡ ràng là một bậc chân tu.

Thượng tọa Thiện Tân đứng dậy.

Qua giấc ngủ trưa nhà sư đang ngồi đọc sách thì Đức đi vào, nhà sư luống cuống đứng dậy, Đức cười:

- Thưa thầy, Đức có thể gọi thầy bằng chú được không. Nhà sư ngồi xuống chiếc ghế trường kỹ, đôi mắt chỉ nhìn ngang cổ người con gái.

Đức long lanh cái nhìn:

- Những người quen tôi từ xưa vẫn gọi tôi bằng cô.

Đức bưng miệng cười một chút rồi nói lớn:

- Có những người xuất gia rồi mà thật lắm tài sẵn… Thầy có đọc bài thơ tình của ngài đại đức gì đó không? Có cả một biển bọt mê đắm tình tứ. Đây này thầy:

“Ngày xưa anh đón em,

Trên gác chuông chùa nọ.

Bây giờ anh qua đó

Còn thấy chữ trong chuông.

Anh khoác áo nâu sòng,

Em chân trời biền biệt

Tên ai còn tha thiết,

Trong tiếng vọng chuông đưa”.

Đức lại cười, đôi môi nắn nót thành nét vẽ khác:

- Thầy coi tu hành dễ có mấy tay!

Nhà sư lắc đầu nhẹ rồi lẳng lặng cúi xuống bàn, ánh mắt bám chặt trang sách.

Đức nhỗm người lên:

- Đi tu còn có quyền làm thơ tình không hở thầy?

Thiện Tân nói:

- Tôi không nghiêm khắc, tôi cũng không buông lơi nên tôi không xét đoán được.

Mắt Đức sáng rực:

- Thầy có chấp nhận giọng thơ đó không?

- Đó là một phút nhớ lại của thi sĩ.

Đức trề môi cười:

- Thầy có làm thơ lối đó được không?

Nhà sư lắc đầu dìu dịu.

Đức hỏi:

- Thầy qua Nhật thầy có học võ Nhu đạo không?

Thiện Tân cất tiếng cười cụt ngủn:

- Lúc xưa tôi đã ao ước qua Nhật sẽ học võ đó cô… Thầy Lý cũng biểu tôi qua bển học võ xong rồi về nước truyền lại cho thầy.

Đức cười giòn tan:

- Nhưng thầy có học võ không?

Nhà sư lắc đầu. Ngày xưa tôi tưởng mình có thể học hết mọi món võ của nước ngoài. Thầy Lý biểu tui trước hết học Judo, học Hiệp khí đạo, học võ vật bậy, võ Tàu rồi sau lại học đánh bốc, võ Karaté. Qua bển mới thấy cái sức của mình chỉ đủ để học chữ nghĩa kinh kệ xong rồi về.

Đức lắc đầu:

- Học Nhu đạo phải ăn nhiều, như thượng tọa Thích Trí Giác mỗi ngày phải ăn mười bảy miếng đậu.

Nhà sư cười tươi:

- Hơi nhiều.

- Còn phải ăn rau nữa, mỗi ngày thầy thượng tọa đó phải ăn sáu ký rau.

-??

- Vâng, sáu ký rau với bốn nải chuối.

Nhà sư cười vừa phải:

- Mỗi ngày phải ăn mười bảy miếng đậu, sáu ký rau cải với bốn nải chuối… Học võ như vậy tốn quá, học làm gì.

Có tiếng bà Hai kêu Đức ở nhà ngoài.

Thượng tọa Thiện Tân đứng dưới dàn dưa xếp những lá to ướt láng. Những tiếng nổ lớn như rót cầu vồng từ một vài hố đen thâm kia. Nhà sư nhớ lại những đêm ân ái cũ.

Những đêm không tiếng nổ, ngã tư không ông lính cầm súng, lòng đường không biển cấm, cuộc sống giòn và đều thênh thang chảy từ cái khúc sông thanh bình của buổi chiều nắng nhạt, chảy sang cái dòng suối thở kêu của buổi tối lên đèn, chảy tiếp vào cái chiều sâu độ lượng nhất của đêm không giới nghiêm chảy sang tới cái ánh hồng buổi sáng hôm sau.

Thượng tọa Thiện Tân chợt đứng lặng nghe tiếng hát. Một tiếng hát đi lên theo những đường nét mơ hồ thật bát ngát và thật mênh mông rộng ra nhưng vẫn còn thể tích và êm đềm uốn éo như dải lụa dài múa từ tay cô gái cổ, thật cao nhưng không xoáy mà lãng đãng như toán mây du mục, mà vút lên thăm thẳm. Một tiếng rực rỡ nhưng không hoa hòe chói chang như tuyết băng nằm dưới ánh trời, mà rực rỡ màu vàng của tóc cô gái Tây phương. Và cũng láng như mỡ gà, và cũng âm thầm như sò hến. Và cũng tha thiết như tiếng người cha ngâm truyện Kiều thay vợ dỗ con ngủ. Và cũng lẳng lơ như mắt thôn nữ khi đối diện chàng trai đẹp đêm hát chao.

Vài tiếng nổ nữa lẻ tẻ, đạn rơi xa. Xa mình nhưng gần người. Thượng tọa Thiện Tân lãng sang những tiếng nổ lẻ rồi lại quay về với những âm thanh đang lượn vòng chung quanh. Con gái nhà này hình như ai hát cũng hay. Cậu Minh đờn tài lắm. Lúc nhỏ mình vẫn thán phục. Lúc học trường Trần Cao Vân, Hằng nó bày cho mình mấy bài hát ngộ quá, hát lên một cái là ông la mắng sa đà cả ngày. Thượng tọa Thiện Tân như ngước nhìn tiếng hát. Có lẽ đây là giọng của Hằng,. Anh suốt đời mong chờ mùa thu xanh và anh yêu đàn bướm nhiều màu đậu trên liếp hoa cải vàng giỡn cười trên khóm hồng gai góc và vì em cứ mặc áo màu xanh hoài. Anh yêu mùa thu suốt đời và suốt đời anh không quên áo em, mặc dầu em chỉ đến với anh mùa thu đó. Thu nay anh nhớ nhiều tiếc nhiều. Đêm thao thức nghe cây trút lá, anh chỗi dậy dạo bản đàn cũ và cảm thấy thương yêu em và tha thứ em vô cùng.

- Dạ thưa thầy, quan của con mời thầy vô dùng nước trà.

Thiện Tân đi theo người nhà vào ngồi trong phong ông Phủ. Người bạn vong niên của nhà sư đeo kính cận như đang xem sách.

Ông Phủ đẩy tách nước trà về phía Thiện Tân:

- Thầy có quen uống nước trà đêm không?

Nhà sư lễ phép:

- Dạ.

Ông Phủ cười:

- Uống nước trà về đêm đâu có mất ngủ như người ta in trí… Tôi tuổi già rồi thầy… tôi sục sạo ăn uống cho tới mười hai giờ đêm mới đi ngủ.

Nhà sư hỏi:

- Dạ, cụ đi nghỉ như rứa là hơi khuya.

- Bất cứ ông quan Việt Nam nào cũng hư hỏng hết thầy ạ, tui là một ông quan tài thức khuya dậy trưa quen đi rồi.

Ông Phủ mở rộng hộp giấy bóng hồng điều. Đây mời thầy dùng, bánh ngọt dì Hai làm đấy, dì Hai cái gì cũng biết làm, còn mấy đứa con thì cả ngày cả đêm tưng tưng ca hát. Cái con Hằng có khiếu âm nhạc ghê gớm lắm. Cháu ưng làm ca sĩ mà tui nghĩ nhà mình danh giá tui không cho.

Ông Phủ nhìn ngay vào người đối diện. Thiện Tân nghiêm trang đường bệ như tượng.

Ông Phủ hỏi:

- Hồi chiều có phải con cháu Đức qua phá thầy?

Thiện Tân lắc đầu:

- Dạ không, cô ấy sang nói chuyện vui tí rồi thôi.

Ông Phủ bình thản:

- Con cháu Đức lúc trước hắn điên la làng ơi ới cả đêm, chữa chạy xoắn vó lên mà không khỏi. Rồi tui cứ liều để rứa, mấy năm sau hắn tỉnh dần dần. Bây giờ hắn có vẽ bình thường rồi, nhưng thỉnh thoảng hơi khùng một chút.

Nhà sư im lặng, ông Phủ nói luôn:

- Hình như ông có để lại một bộ sách thuốc gia truyền bí mật lắm, khi nào rãnh thầy lục lại cho tôi mượn để tra cứu mà chữa bịnh cho các cháu.

Nhà sư ân cần:

- Dạ cuốn sách đó lúc nào cháu cũng đem theo bên mình cả, để xin đưa cụ mượn.

Ông Phủ ngả đầu lên ghế lim dim mắt. Tui bây giờ không có đọc sách báo hằng ngày rồi đa! Mặc kệ cha thời thế răng thì răng, miễn mình sống cho sướng là được và đừng làm quấy làm phiền ai hết. Mặc kệ cái cha tình hình ra răng thì ra. Bây giờ được ngồi mạn đàm với thầy đây, lòng thấy hể hả sung sướng. Lát nữa vào giường ngủ ngay một giấc thật nhẹ. Ngày mai thức dậy sẽ thấy ngày mai thật tươi với ly nước trà thật vàng. Rửa mặt xong đủng đỉnh ra ngoài vườn thăm cây thăm lá.

Tia nắng non đầu ngày rực hồng khuyến khích chúng ta bắt tay vào việc. Mấy con chim nuôi trong lồng cũng hót hay như chim tự do, gió quạt từng đợt mỏng, mình cảm thấy hết sức bằng lòng cái buổi sáng trước mắt mình. Thế là mình có hạnh phúc rồi dù có hạnh phúc đó nó rẻ, nó dễ. Rồi buổi trưa đến khó thở một chút nhưng vẫn có một chút gì ảo mộng mình lim dim mắt nghĩ đến một giấc ngủ ngắn, vứt cuốn sách đọc nửa chừng xuống giường. Mình phải thu hẹp giấc ngủ trưa lại để có một buổi chiều dài. Phải tắm một phát vì nắng càng vàng càng nóng, không khí hơi ồn lên một tí, mình phải làm việc. Đợi buổi chiều dịu lại rồi mình mới trầm tư.

Mình có thể trầm tư, có thể mơ mộng, có thể nhớ dai đến những chuyện buồn hay chuyện vui… là một ngày của tôi, một ngày đẹp, một ngày dễ chịu, một ngày vừa ý phải không thầy?

Nhà sư đáp:

- Dạ, thời gian này là thời gian cụ rút về an hưởng.

Ông Phủ tiếp:

- Mấy thằng con trái của tui ở ngoại quốc cứ gởi thư về hoài mời tui đi du chơi một chuyến mà tôi ngại lắm. Mình ở Việt Nam trưởng giả quen rồi.

Ông Phủ cầm Thiện Tân ở lại nói chuyện tới 11 giờ đêm.

Bà Hai tự tay mang đồ điểm tâm vào phòng. Mời thầy dùng ngay cho nóng thầy. Bánh bao bánh bé bột la khê nhân thập cẩm với nấm đây thầy, mấy mẹ con thức dậy hồi năm giờ sáng nhồi bột bắt bột rồi hấp liền đó. Ông Phủ tui vô Saigon ăn bánh bao ở nhà hàng Đại La Thiên ngon quá, về khen mãi bắt mấy mẹ con tập làm mãi không được. Làm mãi làm hoài thành ra thứ bánh này đây, ông Phủ tui ổng ăn ổng khen lắm. Thầy dùng đi cho nóng thầy.

Thiện Tân hơi đỏ mặt:

- Cháu ở đây được hai cụ cho ăn ngon không hơ… sợ về chùa ăn kham khổ không được.

Bà Hai cười:

- Thầy nói chi rứa thầy? Rước được thầy về là may cho cả nhà rồi còn chi nữa.

Thiện Tân cầm chiếc bánh bao đưa lên ăn khi bà Hai đi ra đóng cửa lại… Bánh bao ngày xưa thầy Lý biểu mình đi chỗ nào người ta dọn bánh bao thì đừng ăn. Bánh bao nhân thịt người, trong ruột bánh có chiếc móng tay ngày xưa, cái đầu sao lúc nào cũng đầy tưởng tượng.

Thiện Tân ngồi xem sách hết trọn buổi. Bốn giờ chiều ông Phủ mời nhà sư cùng đi xuống Dạ Lê xem một miếng đất.

Ông Phủ nói:

- Ngôi chùa Từ Linh phía sau mối ăn nhiều quá… Để tui sẽ kêu thợ xây alị… Đập hẳn ra xây lại.

Thiện Tân chắp tay:

- Dạ… làm như vậy tốn kém quá! Tui sẽ xin đi dạy học kiếm tiền rồi để dành tiền dần dần… Nay sửa cái này, mai sửa cái khác.

Ông Phủ xua tay:

- Ồ, có chi thầy, sức tui còn lo được chùa, thầy cứ để tui lo.

Thiện Tân hỏi:

- Cụ xem miếng đất này của ai ạ?

Tui có cho hai vợ chồng một ông bạn mượn năm chục nghìn đồng bạc từ năm một ngàn chín trăm ba mươi mốt lận. Hai vợ chồng làm ăn thua quá… Họ không trả tiền cho tui… Mấy chục năm rồi họ cũng vẫn chưa trả mà tui thì cũng đòi lấy lệ, không có đòi thật tình… Ba chục năm rồi đó thầy… Trong ba chục năm đó thì số tiền kia đẻ ra bao nhiêu tiền lời.

Nhà sư nói:

- Nợ từ ba chục năm không lấy vốn lời gì hết?

Ông Phủ gật:

- Ba chục năm vẫn cứ năm chục ngàn. Bây giờ bà ấy về Saigon bà ấy mới cấn miếng đất cho tui. Tui ngần ngại hết sức, đất đai thì trồng trọt được nhưng ai làm nhà làm cửa ở đây. Thầy coi thử miếng đất này có được không? Tui xin cúng cho chùa.

Hằng khẽ đọc hai câu thơ của Chu Mạnh Trinh rồi lim dim mắt êm đềm kể lể. Thầy đi tu từ tấm bé, đời của thầy là một gian phòng kín gạt bỏ ra ngoài hết cả những tạp âm ồn nặng của cảnh ở ngoài, thầy có những lời trầm quế châu ngọc dành cho đời. Đời thầy là một cuộc vật lộn lâu dài, thầy coi thân xác thầy là một sự vay mượn. Sống là tạm, chết là về, thầy về thẳng Niết Bàn. Ở Niết Bàn không có con, con có mặt ở địa ngục.

Hằng nói bằng một giọng dài êm không còn lim dim mà nhướng lên ngó nhà sư. Thượng tọa Thiện Tân ngậm miệng cứng cắm cúi nhìn nghiêm chỉnh vào những trang sách đang trải trước mặt để khỏi phì cười trước những lời lẽ ngây thơ quan niệm đi tu là làm một cuộc phiêu lưu đẹp, là bước vào một giấc trường mộng huy hoàng rực rỡ dưng bằng nét vẽ tưởng tượng.

Hằng khẽ đọc:

“Thỏ thẻ rừng mai chim cùng trái,

Lững lờ khe yến cá nghe kinh

Thoáng bên tai một tiếng chài kình

Khách tang hải giật mình trong giấc mộng.

Này suối giải oan, này hang Cửa Võng,

Này am Phật Tích, này động Tuyết Quynh.

Nhác trông lên ai khéo vẽ hình

Đá ngũ sắc long lanh như gấm dệt”.

Thượng tọa Thiện Tân phì cười vui tươi hỏi:

- Chắc cô đang muốn lên tiên…Cô vừa phác họa ra một bồng lai tiên cảnh.

Hằng nhanh nhảu:

- Không, đó là Niết Bàn… Vì ở đó không có tình yêu và không có thịt súc vật, không có cả mắm tôm cua.

Hằng cười nụ nhỏ phác họa ngay một cửa chùa nhỏ, một vị trí niềm tin góc cạnh khổ lớn.

Tiếng nói của nàng thật êm:

- Mỗi năm vào buổi chiều Nguyên đán con đều đi thăm chùa, đi thăm thật nhiều ngôi chùa, không khí ở đâu cũng giống ở đâu, những mặt người ở đâu cũng giống ở đâu.

Nhà sư hỏi:

- Tại sao những mặt người ở đâu cũng giống ở đâu?

Người con gái trầm giọng:

- Những nhà sư mà con đã gặp trong ngày mùng một Tết, con nhìn thấy những chiếc đầu ai cũng không có chứa những giấc mộng, những đôi mắt của ai cũng không đựng những tham vọng.

Hằng lim dim lát lâu mới tiếp:

- Hình hài chỉ là một sự cầm tạm nên ngày mồng một Tết những nhà sư miễn cưỡng ăn mứt.

Thượng tọa cười:

- Ăn cả bánh chưng nữa.

Hằng gật:

- Bánh chưng chay nhân đậu xanh ngọt.

Nhà sư dịu giọng hỏi:

- Có phải cô cố ý đi chùa ngày mồng một Tết?

Hằng cười:

- Đó là thói quen của ba và cả nhà bắt chước.

Nhà sư vui vẻ hỏi:

- Ngoài ra cả năm cô không còn đi chùa ngày nào nữa?

- Đi nhiều chứ. Đi với dì Hai. Dì Hai đi chùa vào những ngày rằm. Không đi chùa thì dì Hai ăn không được ngủ không được.

Nhà sư nhướng mắt:

- Sao vậy?

- Dạ, vì yên tâm. Có những người đàn bà quan niệm rằng là mình cứ làm những việc ác đi, cứ làm đi rồi vào chùa sẽ hết tội liền một khi.

Nhà sư trầm ngâm, đôi môi mím chặt khó cạy. Hằng vội lật đật nói tiếp:

- Ấy ấy, con nói vậy là đại khái thôi, thầy đừng lầm tưởng dì Hai con độc ác. Không phải vậy đâu, dì Hai hiền lắm.

Căn nhà của vợ chồng Trang đã mở cửa, bà vú múc xô nước lớn nhúng giẻ vào lau những cây song cửa sổ. Lùm cây đằng trước cổng xanh um, trong đó có cây nhãn năm nào cũng không có trái.

Hằng cười giữa hai nét môi vui:

- Em là con của dì Hai, dì Hai làm vợ bé nên em không được gọi mẹ em bằng mẹ. Em ức quá, mẹ em mà em không được gọi bằng mẹ.. Em phải gọi mẹ em bằng dì.

Thiện Tân:

- Bà Hai thật tốt.

Hằng đưa tay soạn chồng sách trước mặt. Những ngón tay đẹp như những búp ngọc lan. Ngón tay cái tròn hơn những ngón tay khác.

Hằng đặt tay lên gáy vàng một cuốn tự điển:

- Em bắt đầu học chữ Tàu có hơn hai năm mà em đã biết khá nhiều… Ba em dạy cho em dịch được cả sách Tàu, em đọc được bộ Đông Chu Liệt Quốc mà đọc cả nguyên văn cơ. Ba em còn dạy em thưởng thức cả thơ Đường, em đang ham dịch thơ của Lý Thương Ẩn, em dịch trọn cả bài “Ba sơn dạ vũ” cũng theo thể thơ bảy chữ tám câu.

Nhà sư cười:

- Cô Hằng dịch thơ Lý Thương Ẩn chứ không phải cô Hằng hát nhạc cải cách.

Hằng reo giòn:

- Ngày xưa em dạy thầy bài hát gì nè?

- Không tiền cho nên đói ròng nằm co. Không tiền cho nên sống bà con không có.

Hằng tiếp:

- Con người như điên cũng vì thiếu thốn tiền. Tiền luôn trong túi có ai khinh mình.

Hai người cùng cười, Hằng vui:

- Ngày xưa đi học Điệu Lý luôn luôn cáu kỉnh.

- Thầy ấy bị ảnh hưởng tính nết của ông tui.

Hằng rút vai:

- Nghe nói ông gắt như mắm mòi.

Hằng nói dứt câu thè lưỡi dài như rắn học trò. Có tiếng động ở cửa, bà vú giữ con của Trang cầm chổi cau ra quét sân vào đụn rơm vàng hình nấm rơm. Đàn gà con đang lích tích kiếm mồi, đi lúc thúc tròn trịa. Mỗi con gà đẹp như một nấm bông phết màu.

Hằng nhún nhẩy nhẹ:

- Thầy còn nhớ năm xưa đi học trường Trần Cao Vân không? Em là người học trò đầu tiên mặc áo đầm đi học… Em mặc áo đầm làm mấy tụi chửi quá, cô giáo cũng không ưa. Cô giáo đến nhà khuyên em không được mặc áo đầm đi học.

Hằng rút cổ miệng hư hư ư ử nheo mắt nhìn vào một chỗ nào đó. Hằng cười một tiếng ngắn rồi mặt mày tỉnh rót như không:

- Ngày xưa em đố thầy đường Lê Lợi với đường Trần Hưng Đạo có mấy cây cột đèn điện, thầy trả lời trật lất. Bây giờ em đố thầy lại, thầy trả lời được không?

Nhà sư lắc đầu:

- Ngày nay còn dốt hơn ngày xưa nữa.

Hằng nói sau tiếng hít hà:

- Ngày xưa mấy tụi cũng hay xúi thầy với thầy Lý đi coi nước lụt người ta câu cá, tới nhà xác coi người ta chết, đi tới nhà thương điên coi mụ điên méo miệng hát lên đồng. Thấy thấy bây giờ thầy đã là một thượng tọa danh tiếng rồi, những kỷ niệm ngày xưa thầy còn thấy đẹp nữa không?

Nhà sư đăm chiêu:

- Mỗi một đời sống chúng ta gồm rất nhiều đoạn hạnh phúc hồng.

Hằng nhìn xa xăm và chợt cười:

- Vui ghê thầy ơi, năm nay em học viết với cha Thịnh, cha thương em vô số kể. Đến trường thì em gặp cha, về nhà thì em có thầy, nghĩa là ở nhà thì có Niết Bàn còn ở trường học thì có Thiên Đàng.

Nhà sư chép miệng:

- Cha Thịnh là nhất rồi còn gì nữa.

- Ui, cha giảng bài thì đều đều một giọng buồn ngủ quá là, nhưng khi cha kể chuyện thì vui lắm, cha ăn nói bạo mồm bạo miệng bạo gan bạo phổi.

- Vì ngài giỏi quá nên ngài khinh đời và ai ngài cũng khinh hết.

- Trừ thầy ngài không khinh vì thầy cũng giỏi như ngài.

Nhà sư đưa tay:

- Cô Hằng để tôi nói thêm: ngài cao cả quá nên ngài thương người và ai cũng thương ngài hết.

Hằng mím môi:

- Cha Thịnh có nhiều người ghét lắm, học trò cũng rất nhiều đứa ghét cha vì cha hơi một tí bất công. Đúng hơn vì cha hay ban ơn cho người ta quá và sự ban ơn đó không đồng đều, những kẻ không được hưởng ơn đã ghét cha.

Nhà sư gật đầu:

- Có lẽ đúng.

- Cha Thịnh là một chính khách thì đúng hơn.

Hằng rút cổ miệng hư hư ư ử nheo mắt nhìn vào một chỗ nào đó. Hằng hát lên thật nhỏ, Hằng cười thật nhiều tiếng ngắn rồi mặt mày tỉnh rót như không:

- Em sẽ bỏ nghiên cứu âm nhạc ít lâu, vì em bắt đầu yêu thơ Đường. Thơ Đường đẹp vì chúng ta có âm thanh để rung nó. Thơ Đường thật sâu sắc không tài nào hiểu nổi, sâu sắc đến độ làm người ta hiểu lầm. Khi đọc lên, em cảm thấy có một chút hơi lạnh se se cho cảm giác muốn nhâm nhi tách trà thơm, khiến em trông ngóng một đốm nắng vàng hanh, khiến em mềm người ra mơ mộng. Bao giờ đọc hai câu thơ kết, em cũng thấy có một bẹ cau non nào đó nhô ra ngoài để ngậm giọt sương trời. Đó là một thứ mầm cây thật chất non dai và cũng thật đầy hy vọng. Bài thơ đường đẹp như một sự bắt đầu của tàn tạ của tàn tạ của tuyệt vọng nó mang một dấu hiệu ngầm hết sức bí mật của tình yêu, dễ dàng hòa vào kỷ niệm sẵn có trong lòng chúng ta.

Thượng tọa Thiện Tân nhấc môi cười méo mó, ánh mắt bừng sáng rụt rè:

- Không ngờ cô Hằng mê thơ Đường đến vậy. Lý Thương Ẩn có làm một bài thơ bí hiểm từ xưa chưa có ai dịch cả. Bài thơ hay ghê!

Hằng xoay đầu:

- Bài thơ gì vậy thầy?

- Tôi quên bẵng ngay cái đầu đề… Lát nữa tìm lại xem.

Có tiếng Trang gọi bà vú giật giọng như gọi đò. Bội nói bà Trang cái miệng như cái tu huýt. Lúc còn bé bà ấy gầy quá nên nhà kêu là con Còi, lớn lên cái miệng y hệt như cái còi.

Thiện Tân lơ đãng uống trà, Hằng tiếp:

- Thơ tự nó đã hay, đã sẵn âm nhạc. Em nghĩ rằng người ta không cần phổ những bài thơ thành ca khúc. Như thế, sẽ mất cái giọng thơ đi.

Nhà sư trẻ xa xôi:

- Giữa thời buổi này chẳng có gì tồn tại cả. Thơ rồi cũng sẽ bay lên trời, nhạc rồi cũng sẽ bay lên trời cất giọng than khóc cho thế giới. Thế giới bây giờ chỉ có sự đau khổ là thật.

Trong nhà có tiếng kêu Hằng. Hằng nói với thầy Thiện Tân em vào trong này một chút. Cả nhà đang ngồi chung quanh mâm cháo gà chưa ăn, tiếng bà Hai mắng chị bếp bên dưới:

- Rau muống thì lặt ngắn ngắn, gắp miếng mô chấm vừa miếng nấy, lặt chi mà dài lòng thòng kéo lên cả nùi như râu ông cố đạo rứa không biết.

- Rau nấu canh thì lặt ngắn, rau luộc thì phải lặt dài mỗi đọt chấm mỗi miếng.

- Dài quá thì phải ngắt ngăn phần già đi chớ bộ… À, chị đem trầu ra cho tui têm cho chị đi, rửa nải chuối cho tui cúng… Ui cái chị ni tệ quá, nải chuối cau chị mua nhằm chuối vú vôi rồi.

- Chuối chín cây đó, đâu phải chuối vú vôi.

Tiếng bà Hai:

- Ngó cái nước da vàng nhợt thế này mà chín cây… chín cây cái con cầy. Mua chuối phải lựa cái phần sau mua cau lựa phần trước… già rồi mà còn hớ.

Nụ cười bật nhỏ ngộ nghĩnh, Túc đứng lên rồi Túc ngồi xuống. Đôi mắt Túc bén như dao thuốc bắc. Ông Phủ biểu Minh vô kêu dì Hai ra ăn cháo.

Ông Phủ vừa vắt múi chanh vào chén cháo bỗng rụt tay lại:

- Chết, ngày nay tao ăn độ lạt với thầy.

Đức cười:

- Rằm tháng tám năm ngoái, ba dùng lộn bánh Trung thu nhân thập cẩm vi cá có cái trứng vịt muối nằm tổ bố ở bên trong.

Ông Phủ bước ra, quanh mâm còn lại bà Hai với lũ con lớn.

Bà hai hỏi Trang:

- Tối qua hai vợ chồng đi coi kịch có hay không?

Trang cười:

- Tụi con năn nỉ dì mà dì không đi. Vở kịch hay ngất đi được. Dì thì thôi, cả đời dì chỉ có làm chứ không có ăn, có đẻ chứ không có ăn. Đường phải sống thơi thới một tí mới được… Cả đời cứ làm việc cần cù hoài, dại quá!

Mình nói:

- Dì đi qua Mệ Sáu bánh bài đi dì.

Đức cười:

- Dì rủ ba đi coi hát bội đi. Hát bội miền Trung hay lắm, người ta đi nườm nượp.

Trang nhìn mẹ:

- Vở kịch hay phát run lên được.

Bà Hai cười:

- Đừng kể cái cốt kịch ra, để đêm nay tao đi với cha.

Hằng liến thoắng:

- Ba bỏ dì rồi, ba mê thầy Thiện Tân, ba bỏ dì rồi.

Mấy chị em cười dài, Trang nhìn Hằng:

- Cả vở kịch tao thích nhất cái đoạn cuối… cái kết luận ăn tiền quá. Thằng tướng Tàu chết về một tay cô gái Việt, lúc sắp sửa thở cá, hắn thều thào với cô gái: người đẹp không có tội, người đẹp không bao giờ chết.

Hằng cười hắc hắc:

- Tôi không có tội, tôi không bao giờ chết.

Minh đập bàn:

- Con Hằng tự xưng mình đẹp… Ui!

Nụ cười của Hằng có đuôi ở cuối mắt, có đuôi ở khóe môi, nụ cười lên cao tin tưởng của một kẻ như đang cầm như chắc trong tay chuyện gì.

Túc lườm:

- Khi người đẹp biết mình đẹp thì cái nhan sắc từ hạng ưu sẽ tụt nhanh xuống hạng bình, khi người đẹp nói ra rằng mình đẹp thì cái nhan sắc chỉ còn hạng thứ.

Hằng lầm bầm:

- Tao chỉ muốn nói cho tao bớt tội mà thôi. Tộ của tao lê mê như chè kê trộn đậu.

Minh mím môi:

- Mi làm chi mà có tội?

Hằng nhìn mặt anh chi chít tàn nhang. Cái anh Minh có vẻ giống mấy cái thằng Tây con ngổ ngáo trong các phim mình đã xem. Hằng nghĩ nhỏ Minh đang tưởng tới hơi lạnh của một cuộc sống lứa đôi. Minh tưởng tượng như đang bước chân lên những hòn đá chông chênh, bên dưới là thung lũng xanh lạnh, một vùng vô vi ở độ thấp. Hôm qua đi coi đại nhạc hội đặc biệt hình ảnh ca sĩ đứng hát một mình có vẻ lạnh chi lạ.

Hằng ăn hai chén cháo nóng, thịt gà khá mềm nhưng mùi hành hăng quá! Hằng đứng dậy bỏ đi. Nắng đã lớn lên ngoài trời. Nắng lớn lên không biết bao nhiêu mà kể. Nắng ăn ruồng cả bầu trời. Nắng xuân hồng rực rỡ. Nắng vàng non tưng bừng. Hằng cười mặt tươi nhìn xuống cổ đàn, những áo quấn Hằng đang mang trên người thật nhẹ đứng như tơ. Hằng cảm tưởng như hai bàn tay dạo trên một lớp lông mềm. Hằng chơi gấp rút dồn dập bài Flots du Danube, bài Fontaine des amours, bài Moulin rouge, bài Riviere sans retour. Buổi chiều Hằng dạo bài Tristesse, bài Serenate.

Cơm tối xong, Hằng tránh mọi người, bước ra mái hiên.

Trăng tròn quay, trăng lên bình thản, trăng hiện ra với sự chờ đợi trắng xóa. Tiếng vĩ cầm uyển chuyển của Túc dài như quàng ôm lấy Hằng.

“Biển như biết hát, trăng như một kho ngọc đựng chứa hàng ngàn sự tích huyền và cũng có những bầy tiên nhẹ múa khúc nghê thường. Dưới màu trắng ngà của trăng, xiêm y thanh thoát chỉ là những hình sương và những nét khôi. Trong im lặng mênh mông, tâm hồn nhẹ tênh theo khúc nhạc mơ hồ đi vào thoát tục. Trăng vừa lên cùng muôn ánh sao sáng soi, đưa hồn ta phiêu diêu nơi xa vời. Gió đắm say vờn vờn muôn xiêm áo. Ngàn hương thơm thoáng bay trong trời mơ”…

Hằng bước vội ra vườn một lát rồi hấp tấp đi vào phòng ngủ. Hằng nghĩ lẩn quẩn đến vạt đất nhỏ trồng rau sau vườn. Vườn rau trồng đủ thứ cho cả nhà ăn.

Giờ này, những cây xà lách chắc sẽ tươi bóng đến lạnh mình, những cây rau diếp chắc cũng lấp lánh như ướt nước, những cây rau thơm, rau húng, rau răm, rau ngò, rau é lộn trông chưa chắc đã lặng im mà hình như đang ngà ngà say rạo rực, những cây cải cay, cây tía tô, lá hành lá hẹ, cây rau dền, rau trái không giữ nỗi bình tĩnh vì đang trong cơn sốt huy hoàng hâm hấp. Cơn sốt đang nóng lên vài độ. Những cây rau nhỏ lên cơn sốt thật khả ái. Giàn bí giàn bầu sắp tàn, chỉ còn vài trái để giống treo lủng lẳng. Gần cửa sổ phòng Hằng có mấy trái mướp khô.

Hằng trở dậy lúc năm giờ sáng khi mọi người an toàn ngủ ngon. Hằng rửa mặt đánh răng chải thẳng cuốn tóc màu lông mèo mun và ngồi vào bàn học. Hằng láp nháp đọc vài trang sách rồi ngáp dài dài. Nàng vội chạy vào nhà trong bật đèn pha một tách cà phê thật đen uống một hơi như uống nước lọc và cơn buồn ngủ vẫn còn ướt rệu ở đôi mắt. Hằng rút cuốn sách của một nhà văn viết cao nhất nước đọc vài trang rồi bỏ. Nửa giờ đã trôi qua, cô gái mở hộp bánh bích quy ăn liền hai cái.

Mấy hôm nay trời nóng quá, ai cũng kêu ăn không được. Hằng cầm cây bút vẽ bao nhiêu vòng tròn lên trang giấy trắng trước mặt, viết tên viết họ mấy chục hàng và ký tên vụt vụt. Sáu giờ sáng nàng vẫn chưa thuộc được nửa trang bài học. Hai bàn tay tháy máy đưa lên đầu nhổ đứt mấy sợi tóc. Sáu giờ rưởi qua cả kính đóng kín, trời đã ửng sáng. Nhà bếp đã dậy sửa soạn bữa điểm tâm. Hằng lấy cuốn sách giáo khoa của cha Thịnh tắt đèn, bước ra sân vừa đi vừa đọc. Nàng bước lui bước tới từ gốc khế sang cây trứng cá, cây mãng cầu, dừng lại bên khóm tường vi đưa tay sờ vào mấy nhánh hoa.

Những con chim nhỏ nhất vườn ngẩng cao chiếc đầu tròn hót líu lo. Hằng ngồi xuống đất vạch mấy bụi hoa violette tìm hái. Bảy giờ sáng bà Hai kêu cả nhà vào ăn xôi đậu đen.

Hằng vắt từng nắm xôi chấm muối mè. Cuốn sách của Cha Thịnh để trên bàn ăn.

Bà Hai hỏi:

- Con Hằng năm giờ sáng đã dậy rồi!

- Đêm nóng quá con học bài không được.

Minh ngáp:

- Sáng ra trời vẫn nóng thua chi ban đêm, ngủ dậy nhìn hàn thử biểu đúng ngắt ba mươi bốn độ… Buổi sáng mai mà đã ba mươi bốn độ, đến trưa không biết mấy.

Bà Hai nói:

- Chắc sáu chục độ.

Mấy anh em cười, bà Hai nhìn Hằng:

- Cứ năm giờ sáng đã dậy rồi, đến ngày thi chắc đuối sức. Hằng cười, năm giờ sáng dậy, nhưng từ năm đến bảy giờ sáng mình có thuộc trang chữ giáo khoa này đâu. Cũng thức khuya dậy sớm như ai nhưng học đâu có vô. Mình lớn tuổi quá, mình học hết vô rồi, trí não ranh khôn mà vẫn học hành không được. Buổi sáng nào cũng dậy ngồi không, chịu. Học hết nổi.

Hằng lên nhà chải đầu trước gương sửa soạn đến trường. Mình bây giờ đến trường ngồi trước mặt giáo sư cũng để tiêu cho hết thì giờ. Mấy ông giảng bài có lọt tai mình đâu. Sức mình đậu nổi cái bằng tú tài bán phần kể cũng đã may lắm rồi.

Hằng kéo dĩa xôi đến gần:

- Xôi đậu đến ăn thật ngon.

Đức nói:

- Tao ghét xôi, ăn nóng cổ.

Hằng nhìn Minh:

- Anh biết tại răng ông nhạc sĩ Huỳnh thao lao làm mấy bài “Tình vàng cho em” không?

- Ai biết.

- Thằng cha mê con ca sĩ Kim Hoài… thằng cha làm mấy bài “Tình vàng cho em”, tình vàng… vàng là kim đó mà.

- Con Kim Hoài có mê lại thằng cha không?

- Ai biết.

Đức gõ đũa:

- Tại răng con Hằng biết?

- Thì có người đồn mới biết được.

- Thế con vợ của thằng chả…

Hằng cười:

- Chắc là ghen chứ còn gì? Nghe nói con mẹ ghen đến nổi hát không được nữa. Con mẹ vẫn còn hát sân khấu mà. Nghe nói con mẹ ghen đến nỗi ra sân khấu hát nửa chừng quên cha cả bài hát phải bỏ vô.

Minh nhìn ra ngoài mâm xôi:

- Con mẹ là một cựu ca sĩ có giọng hát vô địch ngày xưa… Ngày xưa lừng lẫy làm mưa làm gió... Ca sĩ mất thị trường đau khổ thật.

Bà Hai vỗ tay:

- Thôi chứ… ăn xong rồi sửa soạn đi học chứ.

Hằng ngáp:

- Con cúp cua thôi… Sáng nay lười đi học quá.

Bà Hai trừng mắt:

- Dậy năm giờ sáng học bài còn được…

Hằng xô ghế đứng dậy đi lên phòng mở tủ lấy bộ áo quần kêu con Nấm ủi lại, mi ủi cả bộ này cho tao, ủi nhăn thì chết, ủi cháy thì đền, ủi đẹp thì thưởng.

Hằng chải đầu xong, con Nấm vẫn ủi chưa rồi.

- Trời ơi! Rờ rờ vậy? Chết tao.

- Hàng xá xị Tây khó ủi lắm.

- Xoa Ấn Độ của người ta mà hô là xá xị. Ủi mau lên cho người ta mặc.

Hằng chải lại tóc lần nữa, soi gương kỹ cả khổ người, lấy nón đội bước ra. Đức nhún vai nhìn theo. Đi học mà diện như đi ăn. Áo dài mà eo như trái bầu, tóc mỗi tuần mỗi đi chải. Ăn rồi vác cặp tới trường mà trong bụng không có một câu sử địa, một câu vạn vật, tiếng Tây thì chia động từ Avoir còn trật…

Hằng để ra nửa giờ để đi bộ đến trường. Đi trong gió đẹp, đi trong nắng đẹp, đi dưới hàng cây đẹp. Trời ban mai nhưng người con gái nào cũng đội nón và hầu hết những chiếc nón đều cột bằng quai nhung đen. Bà mẹ nào cũng bảo con gái đi học đầu trần có vẻ lẳng lơ, phải đội nón dầy, kéo sụp xuống. Không có người con gái nào đâm vào chiếc nón của mình một lỗ cả.

Hằng bước vào trường đi ngang qua đám con trai. Người đẹp của các giáo sư đã đến kia. Lưng thì cao, cẳng thì dài, cằm thì nhọn. Người đẹp cúp cua năm ngày rồi. Đi Saigon thi hoa hậu cho rồi, ở đây làm chi. Hằng mở nón cầm ở tay vênh mặt bước. Đầu tóc chải búp ăng lê buông lòng thòng như lạp xưởng, mỗi cuộn đều tẩm dầu thơm. Vài đứa con trai lên miệng tự hôn một cái. Ê, Sophia Loren, ê Jayne Manstield, ê Gina Lolobrigida, nàng bước vào lớp học lộng lẫy như bước vào hội chợ. Hằng đi lại xóm con gái. Chị Hằng lại mặc áo mới, người đẹp mặc thứ lụa nào cũng đẹp. Chị Hằng ơi, ở nhà chị còn chiếc áo nào không mới không? Con người chi mà áo mùa hè cũng đẹp như áo mùa đông. Con Hằng có tướng mệnh phụ quá.

Chiếc áo lụa Ấn Độ nổi bật giữa những tấm áo vải quyến, xá xị bệch bạc, bụng lỏng eo thùng.

Hằng vỗ vai Diên:

- Ê, cho tui mượn vở lý hóa với vở sử địa chép bài mai trả.

Cái tướng con Hằng là cái tướng chồng hắn làm nên chứ không phải hắn làm nên, cái tướng vượng phu. Ăn mày lấy hắn rồi cũng lên. Hôm qua Hằng nghỉ học, ông thầy sử địa chới với hỏi thăm. Ông vừa giảng bài vừa gãi đầu gối, ông giảng bài như người hấp hối. Ông thầy vạn vật đi lui đi tới đầu đập mấy lần vào tường. Hằng cao lênh khênh giữa đám bạn gái ngực bụng. Diên cười:

- Biết ngày mai Hằng có đi học không?

Hằng đánh bạn:

- Ngày mai đưa mô không đi học trời đánh.

Diên hỏi:

- Mấy ngày ni đi mô mà nghỉ học rứa?

Hằng cao vai:

- Đi tu!

Diên kêu to:

- Mấy chị ơi, Hằng đi tu rồi.

Hằng đi tu rồi! Nhóm bạn gái nhẹ lặp lại rồi nhẹ cười.

Thanh đi tới vỗ vai Hằng:

- May bao nhiêu áo dài để cho ai mà đi tu?

Thúy nói theo:

- Đàn ông chưa vào hết trường tương tư, chị đi tu sao đành?

Hằng dong dỏng cao trên đôi guốc sắt. Ngồi trong lớp Hằng chống tay mơ qua cửa sổ. Ông giáo sư địa gọi tên, Hằng quên không trả lời tiếng có, ông điểm danh hết quyển sổ thở phào.

- Sáng nay không ai vắng mặt hết. Chác các anh chị đều thuộc bài như cháo lỏng?

Ông đưa tay với cuốn sổ điểm. Học trò la lên thưa thầy tha cho khỏi đọc bài. Lớn rồi ai trả bài như con nít vậy. Thầy tha cho khỏi đọc bài để phúc đức mà lấy vợ. Ngày mai thầy sẽ có vợ. Thầy sẽ có vợ ngày mai chứ không qua ngày mốt.

Giáo sư gấp cuốn sổ lại:

- Thử lòng các anh chị chơi chứ hôm nay ai bắt đọc bài bao giờ. Nhìn sơ mặt các anh chị đều biết thuộc bài rồi. Phải không?

Học trò nhao nhao lên:

- Dạ, dạ buổi sáng đẹp trời ai lại bắt đọc bài.

Thưa thầy cho chơi, thưa thầy cho đi chơi xa thành phố. Thầy tổ chức cắm trại ở chùa Từ Linh Mụ đi thầy. Thầy cho tiền ăn kẹo, thầy cho tiền thầy.

Giáo sư nói:

- Xin tiền giáo sư xấu lắm… Hôm nay tôi tha đọc bài, nhưng hôm nào tôi cho bài kiểm soát các bạn làm không được thì chủ nhật sẽ mời đi consinge cả lớp đấy nhé. Ngày chủ nhật mà đi chép phạt thì không dễ thương một tí nào cả.

Giáo sư sử địa có thể cho trò chơi cả giờ, có thể cho học trò làm bài suốt cả hai giờ đồng hồ, cả tháng không bắt trả bài nhưng mỗi lần chấm bản đồ là cả một sự bố ráp đau khổ, anh không biết vẽ bản đồ, chị kẽ ô sai, anh tô màu ẩu, cô đánh bóng không được. Từ đầu sổ đến cuối sổ mỗi người đều một điểm. Hai giờ sau cha Thịnh nghĩ thầy giám thị già sai học trò đưa cho Hằng miếng giấy gấp đôi.

“Hằng, cha không khoẻ trong người nên ở nhà, con lại cha biểu. Cha Thịnh”.

Hằng chải lại tóc, đi ngược con đường dẫn về nhà mình. Tư thất của cha Thịnh là một ngôi biệt thự vôi vàng cửa xanh cổng sắt đóng kín. Hằng bấm chuông ba lần không ai ra mở liền thò tay vào lỗ khoét tròn kéo nhẹ chốt sắt. Con chó ác đức dữ tợn bị tròng lại đứng ở hàng ba nhìn ra. Hằng đi thẳng ra sau bếp. Bà già nấu ăn cầm đôi đũa cả nhăn mặt hỏi Hằng:

- Cô muốn hỏi gì?

Hằng xoay cái nón:

- Cháu lại gặp cha.

Bà bếp cau có:

- Cha đau, cha không tiếp ai cả.

Hằng cười:

- Cha biểu cháu lại đây mà.

Giọng người đàn bà hơi lạ gắt:

- Ngài đau từ đêm qua tới giờ. Các cha dưới dòng lên ngài cũng không ngồi dậy được.

Hằng nhíu đôi mày. Ai đến với cha Thịnh cũng thất kinh với bà bếp. Bà không muốn ai vào nói chuyện với cha cả, bà sợ cha cho người ta tiền, sợ cha mời người ta ăn hết cam hết táo. Chính cha Thịnh đôi khi cũng tỏ ra sợ bà. Ngoài tiền công trả trước một năm, tháng nào cha cũng cho bà uống thuốc bắc, cho quần áo.

Hằng nói:

- Bà cứ lên bẩm với cha là cô Hằng tới.

Bà bếp đứng một chút nữa mới xẹt đi lên, cha Thịnh tiếp Hằng ở phòng khách. Cha vẫn mập vẫn hồng như những lúc ngồi dạy học. Cha mặc bà ba bằng lụa Quảng.

Hằng nói:

- Bà bếp nhất định đuổi con về.

Cha Thịnh cười:

- Bà ấy đáng sợ lắm. Chính cha còn sợ bà.

Hằng hỏi:

- Cha đau chi mà nghỉ dạy rứa cha?

- Mấy ngày nay cha bị lên máu.

- Cha kêu con lại đây có việc chi cha?

Cha Thịnh cầm tách nước trà uống một mình:

- Con vừa học hai giờ ông Chu phải không?

- Dạ hai giờ đầu là hai