← Quay lại trang sách

Chương 7

Nhưng nhân loại cóc cần cơ mà! Bằng chứng đây: đã hai mươi tư năm qua cuốn tiểu thuyết này mọt xác trong các tủ sách thư viện, và không ai, cô nghe rõ rồi chứ, thậm chí không một ai nhắc với tôi về nó. u cũng là chuyện quá sức thường tình bởi lẽ, đúng theo những gì tôi đã nói với cô đấy, chẳng ai đọc đến nó cả.

- Thế còn tôi thì sao?

- Thiểu số.

- Ngài có bằng chứng nào mà dám khẳng định rằng không tồn tại những thiểu số khác giống như tôi.

- Một bằng chứng tuyệt vời: nếu ngoài cô ra đã có những người khác đọc tôi – tôi đang nói là đọc thực sự theo nghĩa bạo liệt của từ này – thì tôi đã rũ tù từ lâu rồi. Cô đặt cho tôi một câu hỏi hết sức thú vị nhưng tôi lấy làm ngạc nhiên, rằng cô đã không nhận thấy câu trả lời đang ở ngay trước mắt. Vậy thì đây là một kẻ sát nhân đã lẩn trốn từ bốn mươi hai năm trời nay. Những tội ác hắn gây ra vẫn chưa hề bị phát giác và hắn đã trở thành một nhà văn danh tiếng. Không lấy gì làm bằng lòng với một hoàn cảnh thuận lợi đến thế, bỗng chốc kẻ bệnh hoạn này dấn thân vào mộc vụ cá cược phi lý, bởi lẽ hắn có thể phải mất tất cả và không hề có cơ may thắng được bất cứ cái gì trong đó – không thắng được bất cứ thứ gì, ngoại trừ việc chứng minh được điều khôi hài nhất.

- Để tôi đoán thử nhé: hắn muốn chứng minh rằng những gì hắn viết chưa từng được ai đọc đến.

- Nói cho đúng ra là: hắn muốn chứng minh rằng ngay cả những người hiếm hoi đọc những gì hắn viết – những người này có tồn tại – hẳn cũng đã đọc mà không hiểu mình đang đọc cái gì.

- Hiển nhiên là vậy.

- Thì đó. Cô biết đấy, lúc nào cũng có một nhúm những kẻ vô công rồi nghề, những kẻ ăn chay, những nhà phê bình mới tập tọng hành nghề, những sinh viên mắc chứng khoái cảm đau hay nữa, những kẻ tò mò hạ quyết tâm đọc cho bằng hết chỗ sách đã mua về. Tôi muốn tiến hành thí nghiệm trên chính những đối tượng này. Tôi muốn chứng minh rằng mình có thể viết ra những điều đáng ghê tởm tệ hại nhất theo cách của mình mà không bị trừng phạt: hành vi tự tố cáo này, như cô đã trình bày rất xác đáng, là tuyệt đối xác thực. Đúng vậy, thưa quý cô, cô đã có lý từ đầu chí cuối: trong cuốn sách này, không một chi tiết nào là bịa cả. Tất nhiên là người ta có thể tìm ra những lý do bào chữa cho độc giả: không một ai biết về thời thơ ấu của tôi, đó không phải là cuốn sách kinh khủng đầu tiên mà tôi viết, làm sao có thể hình dung ra là tôi đã từng điển trai đến thế, v.v... Nhưng tôi dám khẳng định rằng những lý do này không vững. Cô có biết tôi đã đọc được một bài phê bình đăng trên một tờ báo, cách đây hai mươi tư năm, có liên quan đến Hồi ức của kẻ sát nhân không? “Một câu chuyện thần thoại giàu tính biểu tượng, một phép ẩn dụ như cõi chiêm bao của tội lỗi gốc và thông qua đó, nói đến thân phận con người.” Tôi vẫn nói với cô rằng người ta đọc tôi mà không thực sự hiểu mình đang đọc cái gì đấy thôi! Tôi có thể tự cho phép mình viết ra những sự thật táo tợn nhất, người ta sẽ không thấy gì trong những trang viết đó ngoài những phép ẩn dụ. Chuyện ấy chẳng có gì đáng ngạc nhiên hết: độc giả mạo danh, được bọc kín mít trong bộ quần áo lặn của mình, sẽ lội qua những câu chữ đẫm máu nhất của tôi mà không hề lấm ướt. Thi thoảng, hắn sẽ thốt lên sung sướng: “Hình tượng đẹp thế không biết!” Đó là cái mà người ta gọi là cách đọc sạch sẽ. Một sự hư cấu tuyệt vời, rất dễ chịu để tranh thủ đọc ngay trên giường trước khi ngủ; nó xoa dịu và thậm chí nó không làm bẩn những tấm khăn trải giường.

- Ngài còn muốn thế nào nữa? Rằng người ta đọc tác phẩm của ngài trong một lò mổ, hay ở Baghdad, trong một trận oanh tạc sao?

- Không hề, cô ngốc ạ. Nơi chốn đọc không can hệ gì ở đây, mà chính là bản thân việc đọc. Tôi muốn người ta đọc tôi mà trên thân mình không khoác thêm bộ quần áo của người nhái, không chú giải, không vaccin phòng ngừa và nói thực ra, không phó từ.

- Ngài nên biết rằng cách đọc đó không hề tồn tại.

- Thoạt đầu tôi không biết điều đó, nhưng bây giờ, nhờ vào sự chứng minh xuất sắc của mình, hãy tin rằng tôi đã biết.

- Thế thì sao? Không nên lấy làm mừng vì có bao nhiêu độc giả là có bấy nhiêu cách đọc ư?

- Cô không hiểu ý tôi rồi: làm gì có những độc giả và làm gì có những cách đọc.

- Nhưng có mà, có những cách đọc khác với quan niệm của ngài, chỉ vậy thôi. Tại sao chỉ duy nhất cách đọc của ngài là được chấp nhận?

- Ồ, được thôi, hãy ngừng ngay việc lải nhải cuốn giáo trình xã hội học. Vả lại, tôi muốn biết cái mà cuốn giáo trình xã hội học của cô sẽ tìm ra để bàn về tình huống mẫu do tôi tạo nên: một nhà văn-sát nhân công khai tự tố giác mình và không một độc giả nào đủ tinh ý để nhận ra điều ấy.

- Tôi cóc cần những quan điểm của các nhà xã hội học và tôi nghĩ, chính tôi đây, rằng một độc giả không phải là một tay cớm và rằng, nếu không ai gây phiền phức cho ngài kể từ khi cuốn sách được xuất bản thì đó là dấu hiệu tốt: nó có nghĩa là Fouquier-Tinville[16] đã hết thời, rằng mọi người đã mở mang đầu óc và rằng họ có khả năng thực hành cách đọc văn minh.

- Ừ, tôi hiểu rồi: cô thối nát, như những kẻ khác. Tôi thật ngớ ngẩn khi tin rằng cô khác với đám đông.

- Ôi chao, lẽ ra phải tin rằng tôi chỉ hơi khác họ một chút thôi, bởi lẽ trong đám phóng viên, tôi là người duy nhất đã đoán biết được sự thật.

- Cứ cho là cô thừa tinh ý và nhạy bén. Chỉ thế thôi. Cô thấy không, cô làm tôi thất vọng.

- Câu nói vừa rồi gần giống như một lời khen. Tôi có nên hiểu là, trong khoảng một vài tích tắc đồng hồ, tôi đã khiến ngài nảy ra một nhận xét tốt hơn?

- Cô tha hồ mà chế giễu nhé: quả đúng như vậy. Cô không thoát khỏi những thói hèn hạ của loài người, nhưng cô có một phẩm chất hết sức hiếm thấy.

- Tôi nóng lòng muốn biết phẩm chất đó là gì đấy.

- Tôi nghĩ đó là một phẩm chất thiên bẩm, và thật nhẹ cả người khi nhận ra rằng việc học hành ngớ ngẩn của cô đã không thể phá hỏng.

- Vậy phẩm chất đó là gì?

- Chí ít thì cô cũng biết đọc.

Im lặng.

- Cô bao nhiêu tuổi rồi, thưa quý cô?

- Ba mươi.

- Gấp đôi tuổi của Léopoldine khi cô ấy mất. Cô bé đáng thương của tôi, tình tiết giảm nhẹ của cô là ở chỗ ấy đấy: cô đã sống quá lâu.

- Sao kia! Tôi mà cần đến những tình tiết giảm nhẹ ấy à? Thế giới này đảo lộn mất rồi.

- Cô hãy hiểu cho là tôi đang tìm kiếm một lời giải thích: đang ngồi trước mặt tôi là một người có trí tuệ sắc sảo, và sẵn được tạo hóa phú cho một thiên tư hiếm có trong việc đọc. Thế nên tôi tự hỏi điều gì có thể làm hoen ố những năng khiếu tuyệt vời đến vậy. Cô vừa đưa ra cho tôi câu trả lời: đó chính là thời gian. Ba mươi năm, vậy là quá nhiều.

- Chính ngài, đã ở vào cái tuổi này rồi mà còn nói với tôi điều ấy sao?

- Tôi đã chết từ năm mười bảy tuổi rồi, thưa quý cô. Vả lại, đối với cánh đàn ông, sự thể không giống như vậy.

- Ra là thế cơ đấy.

- Trưng cái vẻ mỉa mai cay độc ấy ra chẳng ích gì đâu, cô bé ạ, cô biết thừa chuyện đó là đúng rồi còn gì.

- Cái gì mà đúng cơ chứ? Tôi muốn nghe ngài nói điều ấy thật rõ ràng.

- Mặc xác cô. Thì đấy, cánh đàn ông có quyền hưởng đủ thứ án treo. Phụ nữ thì không, về điểm cuối cùng này, tôi thẳng thắn và dứt khoát hơn những người khác nhiều: phần lớn đàn ông bỏ bẵng phụ nữ ít nhiều một khoảng thời gian trước khi quên khuấy chúng, điều này còn hèn hạ hơn là giết quách chúng đi. Tôi thấy sự ngắt quãng này thật phi lý và thậm chí còn bất chính đối với đàn bà: vì sự gia hạn này, chúng tưởng rằng người ta cần chúng. Sự thật, đó là ngay từ lúc chúng trở thành đàn bà, ngay từ lúc chúng lìa bỏ tuổi thơ, chúng nên chết đi mới phải. Nếu đàn ông là những kẻ hào hoa phong nhã, họ đã phải giết chết chúng vào ngày đầu tiên chúng thấy kinh. Nhưng đàn ông không bao giờ lịch sự với phụ nữ cả, họ thích để những phụ nữ bất hạnh ấy phải chịu đựng hết đau khổ này đến đau khổ khác hơn là có lòng tử tế để trừ khử chúng. Tôi mới chỉ biết duy nhất một kẻ nam nhi có đủ cao thượng, đủ tôn kính, đủ tình thương, đủ chân thành và đủ lịch thiệp để làm điều đó.

- Ngài.

- Chính xác.

Nữ phóng viên ngửa đầu ra sau. Trận cười bùng phát, ngắt quãng, khàn khàn. Nó dần tăng tốc, mỗi nhịp mới lại leo lên quãng tám, cho đến lúc chuyển sang quãng năm, dồn dập, khiến người ta nghẹt thở.

Đó là trận cười ngặt nghẽo ở giai đoạn lâm sàng.

- Chuyện đó làm cô mắc cười sao?

- …

Trận cười giòn giã không cho nữ phóng viên có cơ hội thốt nên lời.

- Cơn cười ngặt nghẽo: lại thêm một căn bệnh của riêng đàn bà. Tôi chưa từng nhìn thấy người đàn ông nào cười đến thắt ruột như đàn bà vẫn làm trong những trường hợp tương tự. Cơn cười hẳn phải đến từ tử cung: tất cả những điều dơ dáy bậy bạ trên đời đều đến từ tử cung. Những cô bé không có tử cung, tôi nghĩ thế, hoặc giả nếu có đi nữa thì đó chỉ là một món đồ chơi, một thứ giả dạng tử cung. Ngay khi cái tử cung giả này trở thành thật, nên giết chết những cô bé, để tránh cho chúng chứng cuồng loạn khủng khiếp và thương tâm mà ngay lúc này cô đang là nạn nhân.

- Chà.

Cái câu “Chà” này là tiếng la ó bất bình của một cái bụng đã mệt nhoài, vẫn còn rung lắc bởi những cơn co thắt bệnh hoạn.

- Cô bé đáng thương. Người ta đã quá tàn nhẫn với cô. Vậy kẻ đểu giả đã không giết chết cô ngay ở tuổi dậy thì là ai vậy? Nhưng có lẽ vào thời điểm đó, cô không có một người bạn thực sự. Chao ôi, tôi e rằng Léopoldine là người duy nhất có được may mắn đó.

- Thôi đi, tôi không thể nuốt trôi những lời đó nữa đâu.

- Tôi hiểu được phản ứng của cô. Khám phá ra sự thật quá muộn màng, bỗng nhiên nhận ra nỗi thất vọng của bản thân, đó hẳn phải là một cú sốc ra trò. Tử cung của cô đang bận hứng lấy một trong những cú đánh này! Mụ đàn bà bé nhỏ tội nghiệp! Tạo vật đáng thương bị đám đàn ông chừa ra một cách đê hèn! Hãy tin rằng tôi đang động lòng trắc ẩn.

- Ngài Tach, ngài là nhân vật khiến người khác phải rối trí nhất và kỳ cục nhất mà tôi có dịp gặp gỡ.

- Kỳ cục ư? Tôi không hiểu.

- Tôi ngưỡng mộ ngài đấy. Đã có thể bịa ra một lý thuyết cùng lúc điên rồ và chặt chẽ như vậy, thật kinh khủng. Thoạt tiên, tôi đã nghĩ rằng sẽ phải nghe ngài kể những trò ngu ngốc tầm thường nhằm hạ nhục phụ nữ. Nhưng tôi đã đánh giá ngài quá thấp. Lời giải thích của ngài vừa tế nhị vừa quá đáng: chỉ cần hủy diệt tất cả phụ nữ, phải thế không?

- Dĩ nhiên. Nếu những mụ đàn bà này không tồn tại, mọi chuyện rốt cuộc sẽ tiến triển theo hướng có lợi cho đàn bà.

- Giải pháp này mới tài tình làm sao. Tại sao chưa từng ai nghĩ đến nó nhỉ?

- Theo ý tôi, người ta đã từng nghĩ đến nó, nhưng trước tôi chưa ai có đủ dũng khí thực thi dự án đó. Bởi lẽ xét cho cùng thì ý kiến này vừa tầm với bất cứ ai. Chủ nghĩa nữ quyền và sự chống chủ nghĩa nữ quyền là tai ương của giống người; phương thuốc chữa rất hiển nhiên, đơn giản, hợp logic: cần phải thủ tiêu đàn bà.

- Ngài Tach, ngài thật tài tình. Tôi khâm phục ngài và lấy làm hẳn hạnh vì đã được gặp ngài.

- Tôi sẽ khiến cô phải ngạc nhiên đây: tôi cũng vậy, tôi cũng rất bằng lòng vì được gặp cô.

- Ngài cứ nói đùa.

- Ngược lại thì có. Thoạt tiên, cô khâm phục con người thực của tôi chứ không phải vì những gì cô vẫn hình dung về tôi: đó là một điểm tốt. Sau nữa, tôi biết rằng mình sẽ giúp được cô rất nhiều, và điều đó làm tôi rất khoái trá.

- Giúp việc gì vậỵ?

- Sao kia, giúp việc gì ấy à? Từ giờ trở đi cô đã biết rồi còn gì.

- Tôi nên hiểu là ngài có ý định thủ tiêu cả tôi nữa, phải không?

- Tôi bắt đầu tin là cô cũng xứng đáng được như vậy.

- Lời khen to tát quá, ngài Tach ạ, và xin hãy tin là tôi đang bối rối vì lời khen đó, thế nhưng...

- Quả nhiên tôi thấy cô đang đỏ lựng cả người lên rồi đây này.

- Nhưng ngài chớ nên mất công làm vậy.

- Vì lẽ gì? Tôi nghĩ cô xứng đáng với phần thưởng đó. Cô tốt hơn nhiều so với suy nghĩ ban đầu của tôi. Tôi rất muốn giúp cô được chết.

- Tôi cảm động lắm, nhưng đừng làm gì hết; tôi không muốn vì tôi mà ngài gặp phiền phức.

- Coi nào, cô nhóc, tôi không sao đâu mà: tôi chỉ còn sống được có một tháng rưỡi nữa để gặp rắc rối thôi.

- Tôi không muốn danh tiếng để lại sau khi chết của ngài bị vấy bẩn vì lỗi lầm của tôi.

- Bị vấy bẩn ấy à? Tại sao danh tiếng để lại của tôi lại bị vấy bẩn bởi hành động tốt đẹp này? Ngược lại thì có! Mọi người sẽ nói: “Chưa đầy hai tháng trước khi qua đời, Prétextat Tach vẫn còn làm điều thiện.” Tôi sẽ là một gương sáng cho nhân loại noi theo.

- Ngài Tach ạ, nhân loại không hiểu được đâu.

- Than ôi, tôi e rằng cô lại thêm lần nữa vô lý rồi. Nhưng nhân loại hay danh tiếng của tôi đối với bản thân tôi cũng chẳng mấy quan trọng. Cô nên biết rằng tôi thích cô đến độ muốn mang đến, cho riêng cô, một sự giúp đỡ vô tư.

- Tôi nghĩ ngài đánh giá tôi quá cao mất rồi.

- Tôi không nghĩ vậy.

- Hãy mở to mắt ra, ngài Tach, ngài đã chẳng nói rằng tôi xấu xí, thộn, thối nát và đủ thứ khác hay sao? Và sự thực đơn giản rằng tôi là một người phụ nữ không đủ để làm tôi mất giá sao?

- Về mặt lý thuyết, tất cả những gì cô vừa nói là đúng. Nhưng thưa quý cô, một chuyện lạ lùng đang diễn ra: chỉ lý thuyết thôi thì không đủ. Tôi đang thể nghiệm một chiều kích khác của vấn đề, và tôi cảm nhận được những xúc cảm thú vị mà từ sáu mươi sáu năm nay tôi đã không còn biết tới.

- Hãy mở to mắt ra, ngài Tach, tôi không phải là Léopoldine.

- Không. Nhưng mà với cô ấy, cô không phải người lạ.

- Cô ấy xinh đẹp tuyệt trần, còn tôi, ngài thấy tôi xấu xí.

- Điều ấy không còn đúng hoàn toàn nữa. Sự xấu xí của cô không thiếu vẻ đẹp. Có những khoảnh khắc trông cô rất đẹp.

- Có những khoảnh khắc.

- Những khoảnh khắc ấy xuất hiện rất nhiều, thưa quý cô.

- Ngài thấy tôi ngớ ngẩn, ngài không thể thích tôi được.

- Tại sao cô nhất định phải hạ mình như thế nhỉ?

- Vì một nguyên nhân hết sức đơn giản: tôi không thiết tha gì với kết cục được ám sát bởi một nhân vật đoạt giải Nobel văn chương.

Lão già mắc chứng béo phì bỗng chốc có vẻ cụt hứng.

- Có lẽ cô thích một gã đoạt giải Nobel hóa học ra tay hơn chăng? lão già hỏi bằng một giọng lạnh lùng.

- Buồn cười thật. Tôi không thiết tha với kết cục bị ám sát cơ, ngài thấy đấy, dù kẻ ra tay là một nhân vật đoạt giải Nobel hay một tay chủ hiệu thực phẩm.

- Tôi có nên hiểu là cô muốn đích thân lựa chọn thời điểm kết thúc đời mình không?

- Nếu tôi có ý định tự sát, ngài Tach ạ, tôi đã thực hiện nó từ lâu rồi.

- Vậy đấy. Cô tưởng chuyện đó dễ thế sao?

- Tôi không tưởng gì hết, chuyện đó không liên quan đến tôi. Hãy tin là tôi không hề muốn chết.

- Cô cứ nói đùa.

- Vậy ra ham sống lại là sự bất thường đến thế sao?

- Không còn gì đáng khen bằng chuyện có ham muốn sống. Nhưng cô đâu có sống, cô ả ngu ngốc đáng thương! Và cô sẽ không bao giờ còn sống nữa! Cô không biết chuyện những bé gái chết đúng ngày bước vào tuổi dậy thì sao? Tệ nhất là chúng chết mà không biến mất. Chúng lìa bỏ sự sống không phải để trở về với những bến bờ đẹp đẽ của cái chết, mà là để bắt đầu phép chia khó chịu và nực cười của một động từ tầm thường và bẩn thỉu, và chúng không ngừng chia động từ này ở tất cả các thời và tất cả các thức, phân tích nó, phức hợp nó, không bao giờ thoát khỏi nó.

- Vậy thì động từ này là gì vậy?

- Cái gì đó giống như tái tạo, theo đúng nghĩa bẩn thỉu của thuật ngữ này – rụng trứng, nếu cô muốn. Đó không phải cái chết, không phải sự sống, cũng không phải trạng thái nào ở khoảng giữa. Cái đó không thể gọi bằng tên gì khác ngoài phụ nữ: có thể là từ điển chuyên ngành, với dã tâm đã thành thông lệ, đã muốn tránh gọi tên một sự đê hèn tương tự.

- Dựa vào đâu mà ngài dám tự nhận mình biết thế nào là cuộc sống của một phụ nữ?

- Sự không sống của một phụ nữ.

- Sống hay không sống thì ngài cũng chẳng biết gì về chuyện đó hết.

- Thưa quý cô, cô nên biết rằng những nhà văn vĩ đại luôn có một khả năng tiếp cận trực tiếp và phi thường vào cuộc sống của những người khác. Họ không cần phải thực hiện thuật khinh công, cũng không cần lục lọi trong đống tài liệu lưu trữ để thâm nhập thế giới tinh thần của mọi người. Họ chỉ cần lấy một tờ giấy và một cây bút để phác lại những suy nghĩ của người khác.

- Ngài thấy rồi đấy. Quý ngài thân mến, tôi tin rằng mánh khóe của ngài đã thất bại thảm hại, nếu tôi có thể đưa ra nhận định thông qua sự ngu xuẩn của những kết luận ngài đưa ra.

- Cô ả ngốc nghếch đáng thương. Cô đang cố nhồi nhét vào đầu tôi thứ gì vậy? Hay đúng hơn, cô đang cố nhồi nhét vào đầu mình thứ gì vậy? Rằng cô đang hạnh phúc ư? Tự ám thị cũng phải có giới hạn chứ. Mở to mắt ra mà xem! Cô đâu có được hạnh phúc, cô đâu có sống.

- Ngài thì biết gì về chuyện ấy?

- Câu hỏi này phải được đặt ra với chính cô mới đúng. Làm sao cô có thể biết mình có đang sống hay không, có đang hạnh phúc hay không? Thậm chí cô còn không biết thế nào là hạnh phúc. Nếu cô từng sống qua thời thơ ấu của mình nơi địa đàng trần gian, giống như Léopoldine và tôi...

- Ồ, thế đấy, hãy thôi tự coi mình là một trường hợp ngoại lệ đi. Mọi đứa trẻ đều hạnh phúc cơ mà.

- Tôi không dám chắc thế đâu. Điêu chắc chắn, đó là không một đứa trẻ nào từng được hạnh phúc như cô bé Léopoldine và cậu bé Prétextat.

Cái đầu của nữ phóng viên lại ngửa ra sau lần nữa và trận cười lại bùng lên, ám ảnh.

- Tử cung của cô lại giở cái trò ấy đấy. Thôi nào, tôi đã nói điều gì khôi hài đến thế sao?

- Cho tôi xin lỗi nhé, là vì những cái tên... nhất là tên của ngài!

- Tên thế thì sao? Cô thấy tên tôi có gì đó đáng chê trách à?

- Đáng chê trách thì không. Nhưng tên là Prétextat! Nghe như chuyện đùa ấy. Tôi tự hỏi hai vị thân sinh ra ngài nghĩ gì vào cái ngày họ quyết định đặt cho ngài cái tên ấy.

- Tôi cấm cô không được phán xét cha mẹ tôi. Và quả thực tôi không thấy cái tên Prétextat có gì đáng cười đến thế. Đó là một cái tên Cơ Đốc giáo.

- Thật thế sao? Như vậy lại còn buồn cười hơn.

- Cô đừng có chế nhạo tôn giáo như vậy, con mụ miệng lưỡi báng bổ kia. Tôi sinh nhằm ngày 24 tháng Hai, ngày Thánh Prétextat; cha mẹ tôi vì nhất thời thiếu cảm hứng đặt tên, đã thuận theo quyết định này của tờ lịch.

- Trời! Vậy ra nếu ngài sinh nhằm mardi gras[17] họ sẽ đặt tên ngài là Mardi-Gras, hay là Gras cụt lủn vậy sao?

- Thôi ngay trò báng bổ này đi, cô ả hèn hạ kia! Kẻ dốt nát ạ, cô nên biết rằng Thánh Prétextat là tổng giám mục vùng Rouen vào thế kỷ thứ sáu, và là người bạn lớn của Grégoire de Tours, đó là một con người cừ khôi, dĩ nhiên cô chưa bao giờ nghe nhắc đến. Chính nhờ Prétextat mà mới có những người thuộc dòng vua Mérové, bởi chính ngài đã kết hôn với nàng Mérovée xứ Brunehaut, bất chấp nguy hiểm đến tính mạng. Tất cả những chuyện này để cô hiểu rằng cô không được cười nhạo một cái tên lừng lẫy đến vậy.

- Tôi không thấy những lời giải thích chi tiết về lịch sử của ngài có thể khiến cái tên ngài mang đỡ lố hơn ở điểm nào. Tương tự, cái tên của cô em họ ngài cũng chẳng khá hơn là bao.

- Gì kia! Cô dám cười nhạo cả tên của em họ tôi sao? Tôi cấm cô làm thế! Cô là một con quái vật tầm thường và bất nhã! Léopoldine là cái tên đẹp nhất, cao quý nhất, duyên dáng nhất, thống thiết nhất từng được đặt.

- Ra thế đấy.

- Chứ sao nữa! Tôi chỉ biết duy nhất một cái tên có thể sánh ngang Léopoldine: đó là Adèle.

- Vậy hả.

- Đúng thế. Lão già Hugo có nhiều khuyết điểm thật, nhưng có một điều sẽ không ai có thể tước đi của lão: đó là một người đàn ông rất có phong cách. Ngay cả khi tác phẩm của lão hỏng vì dã tâm thì chúng vẫn cứ đẹp và vĩ đại. Và lão ta đã đặt cho hai cô con gái hai cái tên tuyệt vời nhất. So với Adèle và Léopoldine, tất cả những cái tên dành cho nữ giới đều xoàng xĩnh đến thảm hại.

- Đó là vấn đề sở thích.

- Không đâu, cô ả đần độn! Ai thèm quan tâm đến sở thích của những người như cô, của tầng lớp bình dân, của đám vô lại, của lũ hèn hạ, của hạng tầm thường? Chỉ sở thích của những thiên tài như Victor Hugo và tôi là đáng kể thôi. Thêm nữa, Adèle và Léopoldine là những cái tên Cơ Đốc giáo.

- Thế thì sao?

- Tôi thấy quý cô đây thuộc lớp dân đen kiểu mới, những kẻ ưa thích những cái tên nghịch đạo. Cô thuộc loại người sẽ đặt tên các con mình là Krishna, Élohim, Abdallah, Tchang, Empédocle, Sitting Bull hay Akhénaton, phải không nào? Lố bịch. Tôi thì tôi thích những cái tên Cơ Đốc giáo. Mà tên cô là gì ấy nhỉ?

- Nina.

- Cô nhóc đáng thương.

- Ngài nói cô nhóc đáng thương nghĩa là sao?

- Lại thêm một người nữa không mang tên Adèle, cũng chẳng mang tên Léopoldine. Thế giới này thật bất công, cô không thấy thế sao?

- Ngài có thôi huyên thuyên ngay đi không?

- Huyên thuyên ấy à? Nhưng không gì là quan trọng nữa rồi. Không được mang tên Adèle hay Léopoldine, đó là một sự bất công cơ bản, một bi kịch chủ yếu, nhất là đối với cô, người đã bị đặt cho cái tên nghịch đạo dị hợm này…

- Tôi phải ngắt lời ngài: Nina là một cái tên Cơ Đốc giáo. Ngày Thánh Nina nhằm ngày 14 tháng Giêng, ngày ngài tiếp cuộc phỏng vấn đầu tiên.

- Dù sao tôi cũng tự hỏi cô đang tìm cách chứng minh điều gì với một sự trùng hợp vô nghĩa như thế.

- Không vô nghĩa đến thế đâu. Tôi đi nghỉ về đúng ngày 14 tháng Giêng, chính vào hôm đó tôi được biết về cái chết gần kề của ngài.

- Thế thì sao? Cô tưởng là chuyện đó sẽ tạo ra những mối liên hệ giữa chúng ta à?

- Tôi chẳng tưởng gì cả, nhưng vừa cách đây vài phút, ngài nói với tôi những lời hết sức lạ đời.

- Đúng vậy, tôi đã đánh giá cô quá cao. Từ đó cô làm tôi thất vọng quá nhiều. Và cái tên của cô đối với tôi là một sự sụp đổ. Bây giờ cô không còn là gì trong mắt tôi nữa.

- Ngài sẽ thấy tôi vui vì chuyện đó, vậy thì tôi sẽ thoát chết.

- Thoát khỏi sự không được sống thì đúng hơn.

Cô sẽ làm gì với nó?

- Đủ thứ chuyện: ví như kết thúc cuộc phỏng vấn này.

- Hay thật. Trong khi tôi đã có thể, với lòng tốt của mình, đảm bảo cho cô một sự tôn sùng tuyệt vời đến thế!

- Nhân tiện nói đến chuyện ấy, ngài sẽ làm thế nào để giết tôi nhỉ? Ám sát một cô gái thương người, khi người ta là một cậu con trai mười bảy tuổi nhanh nhẹn hoạt bát thì dễ thôi. Nhưng với một lão già liệt bại, ám sát một phụ nữ trẻ có thái độ thù địch, hẳn là một việc kỳ dị khó tin.

- Bằng sự ngây ngô của mình, tôi nghĩ rằng cô không có thái độ thù địch. Già cả, béo phì và liệt bại sẽ không cản trở tôi nếu cô yêu tôi giống như Léopoldine từng yêu, nếu cô đồng thuận giống như cô ấy từng làm trước đây...

- Ngài Tach, tôi cần ngài nói với tôi sự thật: Léopoldine đã thực sự ưng thuận chuyện đó và ý thức được hành động của mình chứ?

- Nếu được chứng kiến thái độ ngoan ngoãn cô ấy thể hiện khi để mặc chuyện ấy xảy ra, cô sẽ không đặt cho tôi câu hỏi đó.

- Vẫn nên biết tại sao cô ấy lại ngoan ngoãn đến thế: ngài đã cho cô ấy uống nhiều thuốc, kích thích, mắng mỏ hay đánh đập cô ấy?

- Không, không, không và không. Tôi yêu cô ấy như vẫn luôn yêu cô ấy. Điều đó là quá đủ. Tình yêu đó có một phẩm chất mà cô cũng như bất cứ ai khác sẽ không bao giờ biết đến. Vì nếu đã biết, cô sẽ không đặt ra cho tôi những câu hỏi ngu ngốc này.

- Ngài Tach, ngài không thể hình dung một phiên bản khác cho câu chuyện này à? Hai người yêu nhau, chuyện ấy thì đã rõ. Nhưng chuyện ấy không kéo theo chuyện Léopoldine muốn chết. Nếu cô ấy để mặc chuyện đó xảy ra, có lẽ chỉ là vì tình yêu dành cho ngài, chứ không phải vì có ý muốn chết.

- Cũng thế cả thôi.

- Không phải cũng thế đâu. Có lẽ cô ấy yêu ngài đến mức không muốn trái ý ngài.

- Trái ý tôi ấy à! Tôi hâm mộ thứ từ vựng đôi lứa thường dùng khi tranh cãi mà cô sử dụng để diễn đạt một thời điểm trừu tượng đến thế.

- Trừu tượng với ngài, cò lẽ không trừu tượng với cô ấy. Thời điểm ngài được sống với niềm vui ngây ngất, có lẽ cô ấy đã trải qua với sự cam chịu nhẫn nhục.

- Nghe này, tôi đang ở vị trí thuận lợi hơn cô để biết chuyện ấy, không đúng thế sao?

- Giờ đến lượt tôi trả lời ngài rằng không có gì kém chắc chắn hơn thế.

- Khốn thật! Cô hay tôi là nhà văn thế?

- Là ngài, và chính bởi lý do này mà tôi không sao tin được ngài.

- Và nếu tôi dùng lời thuật lại cho cô nghe mọi chuyện, cô sẽ tin tôi chứ?

- Tôi không rõ. Ngài cứ thử xem nào.

- Ôi chao, không dễ đâu. Nếu tôi đã viết lại thời điểm ấy, thì đó là do không thể nói ra lời. Chữ viết bắt đầu chính tại nơi lời nói ngừng lại, bước chuyển từ khó nói thành có thể nói ra luôn là một bí ẩn lớn. Lời nói và chữ viết nối tiếp nhau chứ không bao giờ cắt ngang nhau.

- Đây là những nhận xét rát đáng nể, ngài Tach ạ, nhưng tôi xin nhắc để ngài nhớ, vấn đề ở đây là tội sát nhân chứ không phải văn học.

- Có sự khác biệt sao?

- Sự khác biệt giữa tòa đại hình và Viện Hàn lâm Pháp, tôi cho là vậy,

- Giữa tòa đại hình và Viện Hàn lâm Pháp chẳng có sự khác biệt nào hết.

- Nghe thú vị đấy, nhưng ngài lạc đề mất rồi, ngài thân mến ạ.

- Cô nói đúng. Nhưng kể lại chuyện đó ấy à! Cô có nhận thấy là đời tôi chưa bao giờ nhắc đến chuyện đó không?

- Cái gì cũng cần có bước khởi đầu.

- Đó là ngày 13 tháng Tám năm 1925.

- Đó là bước khởi đầu tuyệt hảo.

- Đó là sinh nhật Léopoldine.

- Sự trùng hợp mới thú vị làm sao.

- Cô có câm miệng lại không? Cô không nghĩ là tôi bị dằn vặt khi phải nói ra những lời này sao?

- Tôi thấy, và tôi vui vì chuyện đó. Tôi thấy nhẹ cả người khi nghĩ rằng sáu mươi sáu năm sau, ký ức về tội ác của ngài rốt cuộc đã hành hạ ngài.

- Cô thật ti tiện và thù dai như tất cả những mụ đàn bà khác. Cô đã có lý khi nói rằng Hồi ức của kẻ sát nhân chỉ có hai nhân vật nữ: bà tôi và mợ tôi. Léopoldine không phải một nhân vật nữ, cô ấy là – cô ấy luôn là như vậy – một đứa trẻ, một sinh vật huyền diệu, vượt lên phạm trù giới tính.

- Nhưng không vượt lên phạm trù tính dục, theo những gì tôi có thể hiểu khi đọc tác phẩm của ngài.

- Chỉ hai đứa chúng tôi biết rằng không nhất thiết phải dậy thì mới có thể làm tình, ngược lại thì có: tuổi dậy thì sẽ làm hỏng tất cả. Nó làm giảm sự phấn hứng và khả năng đạt đến cực khoái, thả lỏng. Không ai có thể làm tình giỏi như con trẻ.

- Vậy ra ngài dối trá khi nói rằng ngài còn tân.

- Không. Theo những từ điển thông dụng, sự mất tân ở nam giới chỉ có thể đến sau tuổi dậy thì. Thế mà tôi đã không làm tình từ sau tuổi dậy thì.

- Tôi thấy là ngài đang chơi chữ lần nữa.

- Không hề, chính cô không hiểu gì thì có. Nhưng tôi muốn cô đừng có ngắt lời tôi liên tục như thế.

- Ngài đã cắt ngang một cuộc đời; thế nên hãy ráng chịu cảnh người ta ngắt lời thao thao bất tuyệt của ngài.

- Thôi đi, những lời thao thao bất tuyệt của tôi tiện cho cô đấy chứ. Nó giúp cô tác nghiệp dễ dàng hơn cơ mà.

- Điều đó cũng có phần đúng. Vậy thì hãy chuyển sang những lời thao thao bất tuyệt về ngày 13 tháng Tám năm 1925.

- Ngày 13 tháng Tám năm 1925: đó là ngày đẹp nhất trên đời. Tôi mạo muội hy vọng rằng mỗi người trong đời đều đã có một ngày 13 tháng Tám năm 1925 cho riêng mình – bởi còn hơn là một ngày trong năm, ngày hôm đó là một lễ đăng quang. Ngày đẹp nhất của mùa hè đẹp nhất, ấm áp và lộng gió, gió nhẹ mơn man qua những thân cây đại thụ. Léopoldine và tôi đã bắt đầu ngày của mình vào khoảng một giờ sáng, sau giấc ngủ quen thuộc kéo dài chừng tiếng rưỡi đồng hồ. Người ta có thể tin rằng với giờ giấc sinh hoạt như vậy chúng tôi sẽ luôn trong tình trạng kiệt sức: không bao giờ xảy ra chuyện đó. Chúng tôi ham muốn vùng đất địa đàng của mình đến nỗi thường xuyên thấy khó mà ngủ được. Đến năm mười tám tuổi, sau khi tòa lâu đài bị thiêu rụi, tôi mới bắt đầu hình thành thói quen ngủ tám tiếng một ngày: những người quá hạnh phúc hoặc quá bất hạnh không có khả năng vắng mặt lâu đến thế. Léopoldine và tôi không thích gì bằng lúc thức dậy. Mùa hè còn thú vị hơn, bởi đêm nào chúng tôi cũng ở ngoài trời và ngủ giữa rừng, cuộn người trong tấm phủ giường có hoa nổi trắng ngà mà tôi đã đánh cắp từ lâu đài. Người nào thức dậy trước sẽ lặng ngắm người kia và chỉ riêng cái nhìn này cũng đủ để đánh thức người kia dậy. Ngày 13 tháng Tám năm 1925 ấy, tôi thức dậy trước tiên, khoảng một giờ sáng, và chẳng bao lâu sau cô ấy cũng thức dậy theo. Chúng tôi đã có ngần ấy thời gian để làm tất cả những gì một đêm đẹp trời như thế thôi thúc, tất cả những việc, giữa tấm vải hoa nổi mỗi lúc một chuyển từ trắng ngà sang nhuốm màu vàng nâu, đã nâng chúng tôi lên đến sự trang nghiêm của các thầy chủ lễ - tôi thích gọi Léopoldine là đứa trẻ linh thiêng, tôi đã uyên bác đến thế kia mà, sùng tín đến thế kia mà, nhưng tôi đang lạc đề mất rồi...

- Phải đấy.

- Ngày 13 tháng Tám năm 1925, tôi kể tiếp đây. Một đêm tối mịt mùng và tĩnh lặng, êm dịu khác thường. Hôm đó là sinh nhật của Léopoldine nhưng điều ấy với chúng tôi không có ý nghĩa gì hết: từ ba năm nay, thời gian không còn liên quan đến chúng tôi nữa. Chúng tôi đã thôi không còn thay đổi một nguyên tử nào, chúng tôi chỉ dài ra quá mức, mà sự kéo dài ra đáng mừng này không thay đổi thể tạng chưa hoàn bị, non nớt, không mùi, trẻ con của chúng tôi. Sáng hôm đó tôi cũng không chúc mừng sinh nhật cô ấy. Tôi cho rằng mình đã làm tốt hơn thế nhiều, đã dạy một bài học mùa hè cho chính mùa hè. Đó là lần cuối cùng trong đời tôi làm tình. Tôi không biết chuyện đó, nhưng dĩ nhiên là rừng biết, bởi lẽ rừng tĩnh lặng như một kẻ nhìn trộm đã quen mắt. Đó là khi mặt trời nhô lên từ đỉnh đồi và gió bắt đầu thổi nhè nhẹ, xua đi những đám mây đêm và để lộ ra một bầu trời trong vắt thuần khiết gần bằng sự thuần khiết của chúng tôi.

- Cảm hứng trữ tình mới tuyệt diệu làm sao.

- Đừng có ngắt lời tôi nữa đi. Coi nào, tôi đang nói đến đâu rồi nhỉ?

- Ngài đang nói đến đoạn ngày 13 tháng Tám năm 1925, lúc mặt trời mọc, sau khi làm tình xong xuôi.

- Cám ơn, cô ả lục sự.

- Không có chi, thưa ngài sát nhân.

- Tôi thích cách gọi của tôi hơn cách của cô.

- Tôi thích tên tôi hơn là tên Léopoldine.

- Giá mà cô nhìn thấy cô ấy vào buổi sáng hôm đó! Đó là tạo vật đẹp nhất trên thế giới này, một cơ thể trắng vô ngần và mịn màng với mái tóc sẫm màu và đôi mắt sẫm màu. Mùa hè, ngoại trừ những giây phút hết sức hiếm hoi khi quay trở về lâu đài, chúng tôi thường ở trần – khu đất thuộc sở hữu tư rộng lớn đến mức chúng tôi chưa bao giờ trông thấy bóng dáng ai cả. Chúng tôi cũng trải qua phần lớn thời gian trong các hồ nước, tôi gán cho chúng những tính năng của màng ối, điều nghe chưa đến nỗi vô lý lắm nếu căn cứ vào những kết quả nó mang lại. Nhưng nguyên do thì có quan trọng gì? Chỉ có sự huyền diệu này là đáng kể, sự huyền diệu diễn ra hàng ngày – sự huyền diệu của thời gian ngưng đọng vĩnh viễn, ít ra là chúng tôi hằng tin vào nó. Vào cái ngày 13 tháng Tám năm 1925 ấy, chúng tôi có đầy đủ lý do để tin vào sự huyền diệu đó khi ngắm nhìn nhau trong trạng thái tê mê ngây dại. Buổi sáng hôm ấy, như mọi buổi sáng khác, tôi lao xuống hồ không chút chần chừ và tôi đã cười nhạo Léopoldine, cô ấy luôn phải mất rất nhiều thời gian mới dám dầm mình trở lại trong làn nước lạnh băng. Vả lại, sự chế giễu này đã trở thành một nghi lễ quen thuộc khiến tôi thích thú, bởi cô em họ tôi chưa khi nào xinh đẹp bằng lúc vừa thức dậy, một chân để dưới hồ, mặt tái xanh, tươi vui vì lạnh, miệng khăng khăng là mình không làm được, thế rồi từ từ khua khoắng đôi chân và đôi tay dài tái mét để bơi đến chỗ tôi, như một thước phim quay chậm, chú chim đầm lầy thốt rùng mình, đôi môi tái nhợt. Đôi mắt to của cô ấy đầy vẻ khiếp sợ – nỗi sợ hãi rất hợp với cô ấy – miệng cô ấy ấp úng nói rằng mới kinh khủng làm sao...

- Nhưng ngài quả là một kẻ tàn ác đáng ghê sợ!

- Cô thì biết gì về chuyện đó. Nếu hiểu chút ít về lạc thú, cô sẽ biết rằng cảm giác sợ hãi và nỗi đau đớn, nhất là những cơn rùng mình là những điềm báo tốt đẹp nhất. Khi cô ấy đã nhấn chìm cả thân mình xuống nước giống như tôi, cái lạnh lập tức nhường chỗ cho cảm giác trôi chảy, thoải mái hết sức tự nhiên của cuộc sống trong nước. Sáng hôm ấy, như mọi buổi sáng mùa hè khác, chúng tôi đã ngụp lặn trong nước không ngừng nghỉ, khi thì cả hai cùng lặn sâu xuống tận đáy hồ, hai mắt mở to quan sát cơ thể chúng tôi ngả sang màu lục bởi ánh phản chiếu của làn nước, khi thì ngoi lên mặt nước, đua tranh tốc độ, khi thì lội bì bõm, men theo những cành liễu, líu lo như những đứa trẻ tập nổi, nhưng với một kiến thức lớn hơn kiến thức của trẻ thơ, khi thì bơi ngửa hàng giờ liền, say sưa ngắm nhìn bầu trời trong vẻ tĩnh lặng tuyệt đối của dòng nước lạnh căm. Khi cái lạnh đã thấm vào người, chúng tôi leo lên mấy phiến đá to nổi lên giữa lòng hồ và phơi mình dưới ánh mặt trời. Ngọn gió đã thổi trong ngày 13 tháng Tám ấy đặc biệt dễ chịu và nhanh chóng hong khô thân thể chúng tôi. Léopoldine quay trở lại ngụp lặn trong nước trước tiên và bơi quanh quẩn bên hòn đảo nhỏ nơi tôi vẫn đang nằm sưởi ấm. Giờ đến lượt cô ấy giễu cợt tôi. Tôi đang hồi tưởng lại rõ mồn một hình ảnh cô ấy, hai khuỷu tay gác lên phiến đá, cằm tựa trên hai cổ tay bắt chéo, ánh nhìn đầy vẻ thách thức và những lọn tóc dài dập dờn trong làn nước theo nhịp chân quẫy nước hầu như khó nhận thấy, sắc trắng mơ hồ của đôi chân ấy khiến người ta rờn rợn. Chúng tôi quá hạnh phúc, quá không thực, quá tình tứ si mê, quá đẹp, và cho lần cuối cùng.

- Làm ơn đừng dùng cái giọng ca thán bi thương đó. Nếu đó là lần cuối cùng thì cũng do lỗi của ngài kia mà.

- Thế thì sao? Điều ấy khiến cho sự việc bớt đáng buồn hơn ở chỗ nào?

- Trái lại, vì lẽ ấy mà sự việc chỉ có thể trở nên đáng buồn hơn mà thôi, nhưng vì ngài là kẻ chịu trách nhiệm về mọi chuyện nên ngài không có quyền than phiền.

- Quyền ư? Đó là toàn bộ những gì người ta không nên đòi hỏi. Tôi mặc xác cái gọi là quyền và dù phần trách nhiệm của tôi trong sự việc này có lớn đến đâu chăng nữa, tôi vẫn cảm thấy mình cần phải than phiền. Vả chăng, phần trách nhiệm của tôi trong chuyện này gần như là con số không.

- Thật sao? Vậy là gió siết cổ cô ấy chắc?

- Là tôi, nhưng đó không phải lỗi của tôi.

- Ngài muốn nói rằng ngài đã siết cổ cô ấy trong một phút sơ suất sao?

- Không, đồ ngốc, ý tôi muốn nói đó là lỗi của tự nhiên, của cuộc sống, của các hormon và của tất cả những điều dơ dáy ấy. Hãy để mặc tôi kể câu chuyện của tôi, hãy để mặc tôi buồn thảm. Vậy là tôi đang nói với cô về sắc trắng đôi chân của Léopoldine, cái sắc trắng ấy hết sức huyền bí, nhất là khi hiện lên dưới làn nước màu đen lục nhạt. Để giữ thăng bằng theo chiều ngang, cô em họ tôi đập đập đôi chân thon dài của mình, tôi thấy chúng luân phiên trồi lên mặt nước – bàn chân chưa kịp nổi lên thì cẳng chân đã hạ xuống và chìm nghỉm trong hư không trước khi nhường chỗ cho sắc trắng của cẳng chân kia, và cứ liên tục như thế. Vào cái ngày 13 tháng Tám năm 1925 ấy, đang nằm trên hòn đảo nhỏ bằng đá, tôi chiêm ngưỡng cảnh tượng lôi cuốn đó không biết chán mắt. Tôi không biết quãng thời gian đó kéo dài trong bao lầu. Nó bị đứt đoạn bởi một chi tiết bất thường mà độ sống sượng cho đến giờ vẫn còn khiến tôi phải bàng hoàng: vũ điệu tạo nên từ đôi chân của Léopoldine làm hiện lên từ đáy hồ một tia mảnh của chất lỏng màu đỏ, với độ dày đặc hết sức đặc biệt, nếu căn cứ theo sự không thích ứng của nó khi hòa trộn vào nước trong.

- Vắn tắt lại, đó là máu.

- Cô mới trắng trợn làm sao.

- Đơn giản là cô em họ của ngài có kỳ kinh đầu tiên.

- Cô thật nhơ nhớp.

- Chẳng có gì là nhơ nhớp cả, đó là chuyện hết sức bình thường.

- Thì chính là thế.

- Đây là một thái độ không giống ngài chút nào, ngài Tach ạ. Ngài, kẻ thù hung hăng nhất của dã tâm, người bênh vực quyết liệt cho thứ ngôn ngữ sống sượng, giờ lại đâm tức tối chẳng khác nào một nhân vật nam chính của Oscar Wilde khi nghe người khác nêu đích danh sự việc. Ngài yêu cuồng nhiệt, nhưng tình yêu ấy không giúp Léopoldine thoát khỏi phận số của loài người.

- Có chứ.

- Hãy nói tôi đang nằm mơ đi: ngài là vậy sao, bậc thiên tài về mỉa mai cay độc, ngòi bút theo phong cách Céline, nhà phẫu tích vô liêm sỉ, nhà siêu hình của thuật chế nhạo, lại đi cổ xúy những điều khờ khạo đến ngớ ngẩn chỉ hợp với một thiếu niên kỳ quặc?

- Câm miệng lại, kẻ vô lễ kia. Đó không phải những điều khờ khạo đến ngớ ngẩn.

- Không phải thế sao? Cuộc dan díu giữa những cô chủ cậu chủ lâu đài, cậu thiếu niên đem lòng yêu thương cô em họ dòng dõi quý tộc của mình, sự đặt cược lãng mạn chống lại thời gian, những hồ nước trong vắt tại cánh rừng chỉ có trong truyền thuyết – nếu đó không phải là những điều khờ khạo đến ngớ ngẩn, vậy thì trần đời này chẳng có gì đáng gọi là ngớ ngẩn hết.

- Nếu để yên cho tôi kể tiếp đoạn sau, cô sẽ hiểu được rằng đây thực sự không phải một câu chuyện ngớ ngẩn.

- Vậy thì hãy thử cố gắng thuyết phục tôi đi. Chuyện ấy không dễ đâu, bởi lẽ những gì ngài đã kể cho đến giờ phút này khiến tôi thảng thốt rụng rời. Cậu trai này không thể chấp nhận cô em họ của mình có kỳ kinh đầu tiên, nghe thật lố bịch. Nghe sặc mùi cảm hứng trữ tình chay tịnh.

- Phần tiếp theo không chay tịnh nữa đâu, nhưng tôi cần một sự yên tĩnh tối thiểu để kể lại.

- Tôi không hứa trước điều gì đâu; thật khó để nghe ngài kể chuyện mà không có phản ứng tức thời.

- Ít nhất cũng nên chờ cho tôi kể hết rồi hẵng có phản ứng chứ. Chết tiệt thật, tôi đang kể tới đoạn nào rồi nhỉ? Cô làm tôi mất hết mạch chuyện.

- Đến đoạn có máu trong nước.

- Trời ạ, đúng thế. Hãy hình dung cơn choáng váng của tôi: sự xâm nhập tàn nhẫn của sắc đỏ và nóng nảy giữa chừng ấy sắc tím lợt – màu nước lạnh buốt, sắc đen lục của lòng hồ, sắc trắng của đôi vai Léopoldine, đôi môi xanh lét như sunfat thủy ngân, và nhất là đôi chân cô ấy, cử động chậm rãi tột độ hầu như không thể nhận biết của chúng vẫn thường nhắc nhớ chút mơn trớn của làn gió phương Bắc. Không, không thể chấp nhận được rằng từ giữa đôi chân ấy lại bắt nguồn một sự xuất huyết ghê tởm.

- Ghê tởm ư!

- Ghê tởm, tôi vẫn nhất quyết nói thế. Ghê tởm bởi bản thân nó và còn hơn thế nữa, ghê tởm bởi ý nghĩa của nó – sự thừa nhận trịnh trọng kinh khủng, bước chuyển từ cuộc sống huyền thoại sang cuộc sống hormon, bước chuyển từ cuộc sống bất diệt sang cuộc sống theo chu kỳ. Phải là một kẻ ăn chay mới có thể bằng lòng với sự bất diệt theo chu kỳ. Theo ý tôi, đó là một mâu thuẫn về từ ngữ. Đối với Léopoldine và tôi, sự bất tử chỉ có thể nhắm đến một ngôi thứ nhất của một số ít đặc biệt bởi số ít đó bao gồm cả hai chúng tôi. Sự bất tử theo chu kỳ, nó gợi mở rằng người này sẽ tiếp nối cuộc sống của kẻ khác – và cần phải thỏa mãn với sự trưng dụng này, và cần phải lấy làm mừng về quá trình tiếm đoạt này! Tôi chỉ thấy khinh bỉ những ai chấp nhận trò hề độc địa đó: tôi xem thường họ phần vì khả năng cam chịu nhẫn nhịn chỉ thấy ở loài cừu, phần vì sự bệ rạc của tình yêu nơi họ. Bởi nếu có khả năng ban phát một tình yêu đích thực, họ sẽ không thể hiện sự nhu nhược ấy, họ sẽ không chịu nổi khi chứng kiến những người mà họ tự nhận là yêu thương phải đau đớn, họ sẽ gánh vác trách nhiệm tránh cho những người đó một số mệnh tồi tệ như vậy, không chút hèn nhát ích kỷ. Cái tia máu trong nước hồ báo hiệu hồi kết cho sự bất tử của Léopoldine. Còn tôi, bởi yêu cô ấy sâu sắc, tôi đã không do dự quyết định trả cô ấy về với sự bất tử.

- Tôi bắt đầu hiểu ra rồi.

- Cô không được lanh trí cho lắm.

- Tôi bắt đầu hiểu ra ngài bệnh hoạn đến mức nào rồi.

- Vậy cô nói sao về phần tiếp theo?

- Với ngài, điều tệ nhất luôn được đảm bảo.

- Có hay không có tôi thì điều tệ nhất cũng luôn được đảm bảo, nhưng tôi cho rằng ít nhất thì mình cũng đã giúp một người tránh được điều tệ hại nhất. Léopoldine đã thấy cái nhìn của tôi như đóng đinh vào phía sau cô ấy nên cô ấy quay lại xem sao. Cô ấy vội vàng rời khỏi mặt nước, hết sức lo sợ. Cô ấy leo lên ngồi cạnh tôi trên hòn đảo đá. Không còn gì phải nghi ngờ về căn nguyên của tia máu kia nữa. Cô em họ của tôi nhăn mặt và tôi hiểu cô ấy. Suốt ba năm trước đó, chúng tôi chưa bao giờ nhắc đến tình huống này. Tồn tại một dạng thỏa thuận ngầm về cách cư xử phải tuân theo trong những tình huống tương tự - tình huống khó chấp nhận đến mức, để gìn giữ trạng thái ngây dại của mình, chúng tôi đã muốn không đi xa hơn một thỏa thuận ngầm.

- Đó chính là điều tôi lo sợ. Léopoldine đã không yêu cầu gì ở ngài, và ngài đã sát hại cô ấy nhân danh một “thỏa thuận ngầm”, sản phẩm của sự ngu muội độc hại chỉ có trong trí tưởng tượng của ngài.

- Cô ấy không yêu cầu tôi điều gì rõ ràng, nhưng không cần thiết phải làm vậy.

- Đúng thế, chính xác là những gì tôi đang nói. Lát nữa thôi, ngài sẽ ca ngợi những giá trị của điều không được nói ra.

- Cô thì muốn một bản hợp đồng đúng thủ tục, được ký với sự chứng kiến của công chứng viên, phải thế không?

- Bất cứ cái gì cũng khiến tôi thích hơn cách hành xử của ngài.

- Cô thích gì không quan trọng. Chỉ sự giải thoát Léopoldine là đáng kể.

- Chỉ có quan niệm của ngài về sự giải thoát Léopoldine là đáng kể.

- Đó cũng là quan niệm của Léopoldine. Bằng chứng, quý cô thân mến ạ, đó là chúng tôi đã không nói gì với nhau. Tôi hôn lên đôi mắt cô ấy rất dịu dàng và cô ấy đã hiểu. Cô ấy đã có vẻ nguôi ngoai, cô ấy mỉm cười. Mọi chuyện diễn ra hết sức nhanh chóng. Ba phút sau, cô ấy đã chết.

- Gì kia, như vậy sao, ngay lập tức sao? Thật... thật kinh khủng.

- Cô muốn chuyện đó kéo dài hai tiếng đồng hồ, như ở nhà hát vũ kịch ấy à?

- Nhưng rốt cuộc, người ta không giết người như vậy.

- Thật sao? Tôi không biết lại có những tiền lệ cụ thể cơ đấy. Trước giờ vẫn tồn tại một bản hiệp ước quy định cách thức đúng đắn dành cho những kẻ sát nhân hay sao? Một tập giản yếu của đạo xử thế đối với những nạn nhân hay sao? Lần sau, tôi hứa với cô rằng tôi sẽ giết người lịch sự hơn.

- Lần sau ư? May thay, sẽ không có lần sau đâu. Trong thời gian chờ đợi, ngài khiến tôi phát buồn nôn.

- Trong thời gian chờ đợi ấy à? Cô làm tôi tò mò đấy.

- Vậy là ngài khẳng định ngài yêu người con gái này, rồi ngài đã siết cổ cô ấy mà thậm chí không nói với cô ấy một lời cuối ư?

- Cô ấy biết điều đó. Vả chăng, hành động của tôi chính là bằng chứng. Nếu không yêu cô ấy đến thế, tôi đã không giết cô ấy.

- Làm sao ngài có thể chắc chắn là cô ấy biết điều đó?

- Chúng tôi không bao giờ nhắc đến chuyện này, chúng tôi thấu hiểu nhau. Vả lại, chúng tôi không phải hạng lắm lời. Nhưng hãy để tôi kể đoạn siết cổ cho cô nghe. Tôi chưa từng có dịp nhắc đến, nhưng tôi thích nghĩ đến cảnh tượng đó – chẳng phải đã biết bao lần tôi hình dung lại cảnh tượng quá sức đẹp đẽ này trong thẳm sâu hồi ức của mình ư?

- Ngài lại còn có những trò tiêu khiển như vậy nữa cơ đấy!

- Rồi cô sẽ thấy, chính cô cũng sẽ thích thú với nó cho mà xem.

- Thích thú với cái gì kia? Với những ký ức của ngài hay với sự siết cổ?

- Với tình yêu. Nhưng làm ơn để tôi kể đã nào.

- Vì ngài cố nài đấy nhé.

- Vậy là chúng tôi đang ở trên hòn đảo nhỏ giữa hồ. Ngay khi cái chết được quyết định, Vườn địa đàng, vừa mới lần đầu tiên bị tước khỏi tay chúng tôi hai phút, đã được trả lại cho chúng tôi trong ba phút đồng hồ. Chúng tôi hoàn toàn ý thức được là mình chỉ còn thêm có một trăm tám mươi giây tiên cảnh nữa, cần phải làm mọi việc cho thật tốt, và trên thực tế, chúng tôi đã làm rất tốt. Ồ, tôi biết cô đang nghĩ gì: mọi công trạng trong việc tạo ra một cảnh tượng siết cổ đẹp đẽ đều thuộc về một mình người siết cổ. Điều đó là không chính xác. Người bị siết cổ không thụ động nhiều như ta vẫn tưởng. Cô đã xem bộ phim dở hết chỗ nói được quay bởi một kẻ thô lậu – một gã người Nhật, nếu tôi nhớ không nhầm – với hồi kết là cảnh siết cổ kéo dài khoảng ba mươi hai phút chưa?

- Rồi, Vương quốc của cảm giác, của Oshima.

- Cảnh siết cổ này đã thất bại. Tôi thì có thừa kinh nghiệm, tôi có thể khẳng định rằng chuyện đó không xảy ra như vậy. Trước tiên, một cảnh siết cổ kéo dài ba mươi hai phút mới vô vị làm sao! Có cái gì đó như một sự từ chối, từ phía tất cả các lĩnh vực nghệ thuật, không chịu chấp nhận rằng những vụ ám sát là những biến cố nhanh chóng và mau lẹ. Chỉ Hitchcock là hiểu điều đó. Vả lại, vẫn còn một chuyện mà gã người Nhật này không hiểu được: siết cổ, chuyện đó không có gì khiến người ta phải mềm lòng hay thương tâm cả, trái lại, nó thật bổ dưỡng và tươi mới.

- Tươi mới ấy à? Tính từ mới bất ngờ làm sao! Tại sao không phải là bổ sung thêm vitamin, ngài đã nghĩ được đến thế cơ mà?

- Quả nhiên, tại sao lại không nhỉ? Ta có cảm giác được tiếp thêm sức sống, khi siết cổ một người ta hằng yêu thương.

- Ngài nói câu này như thể vẫn thường xuyên làm chuyện đó vậy.

- Mỗi việc chỉ cần làm một lần duy nhất là đủ - nhưng phải có chiều sâu – để không ngừng làm đi làm lại chuyện đó cả đời mình. Muốn đạt mục đích ấy, thì cảnh mấu chốt này nhất thiết phải là một sự hoàn mỹ. Cái gã người Nhật không biết điều đó thì phải, hoặc giả gã hết sức vụng về, bởi cảnh siết cổ của gã xấu tệ, thậm chí còn nực cười: cô gái bóp cổ trông cứ như đang ra sức bơm xe, còn gã trai bị siết cổ có vẻ như bị đè bẹp bởi một cỗ xe lu. Trong khi cảnh siết cổ của tôi lại là một cảnh tượng huy hoàng, cô có thể tin lời tôi.

- Tôi không nghi ngờ chuyện đó. Tuy nhiên, tôi vẫn tự đặt ra cho mình một câu hỏi: tại sao ngài chọn siết cổ? Nếu xét đến địa điểm nơi hai người có mặt, một vụ chết đuối sẽ logic hơn nhiều. Vả chăng, đó là lời giải thích ngài đã đưa ra với cha mẹ của cô em họ, khi ngài mang xác chết về - lời giải thích rất thiếu độ tin cậy, nếu căn cứ vào những dấu vết để lại quanh cổ. Vậy thì tại sao ngài không đơn giản là dìm chết đứa trẻ?

- Câu hỏi xuất sắc. Tôi cũng đã nghĩ đến chuyện đó, vào ngày 13 tháng Tám năm 1925 ấy. Tôi phản xạ rất nhanh. Tôi tự nhủ rằng nếu tất cả những cô gái tên là Léopoldine phải chết đuối, thì chuyện đó sẽ biến thành phương thức, thành quy luật phổ quát và sẽ trở nên hơi tầm thường. Chưa kể là danh tiếng của lão Hugo có thể sẽ bị ảnh hưởng bởi trò đạo văn hèn hạ này.

- Vậy là ngài đã từ bỏ hành động dìm chết để tránh một sự quy chiếu. Nhưng lựa chọn hành động siết cổ cũng đặt ngài vào những sự quy chiếu khác.

- Đúng vậy, song tuy thế, lý do này không được tính. Không, điều đã khiến tôi đưa ra quyết định siết cổ cô em họ trước nhất là vẻ đẹp của cổ cô ấy. Nhìn từ gáy cũng đẹp như nhìn từ cổ họng, đó là một cái cổ tuyệt vời, dài và mềm mại, đường nét tuyệt đẹp. Thanh tú vô ngần! Để siết cổ tôi, cần phải có đến hai đôi bàn tay. Với một cái cổ thanh mảnh như cổ cô ấy, sự ghì siết mới thật dễ dàng làm sao!

- Nếu cô ấy không có một cái cổ xinh xắn, ngài đã không siết cổ cô ấy chứ gì?

- Tôi không rõ. Có lẽ dù sao chăng nữa, tôi sẽ vẫn làm chuyện đó, bởi vì tôi rất ưa hành động bằng chân tay. Trong khi siết cổ lại là hành động giết người liên quan trực tiếp đến tay. Siết cổ mang lại cho đôi bàn tay một cảm giác khoái lạc trọn vẹn không gì sánh bằng.

- Ngài thấy rõ rằng ngài đã làm chuyện đó để phục vụ ý thích cá nhân. Tại sao lại còn ra sức thuyết phục tôi rằng ngài đã siết cổ cô ấy để giải thoát cho cô ấy?

- Cô bé thân mến, cô có lý do để không hiểu gì hết về thần học. Tuy nhiên, vì tự nhận là đã đọc trọn bộ tiểu thuyết của tôi, lẽ ra cô nên hiểu mới phải. Tôi đã viết một cuốn tiểu thuyết rất hay tên là Sự gia ân đồng phát, mô tả sự xuất thần mê li mà Chúa tạo ra trong mỗi hành động của Người, khiến những hành động đó luôn được ca tụng. Khái niệm ấy không phải do tôi bịa ra vì tất cả những người sùng tín đích thực đều biết đến nó. Thế đấy, trong lúc siết cổ Léopoldine, cảm giác thích thú của tôi chính là sự gia ân đồng phát đối với sự giải thoát cho người tôi yêu dấu.

- Rốt cuộc ngài muốn nói với tôi rằng Hồi ức của kẻ sát nhân là một cuốn tiểu thuyết mang chủ đề Công giáo.

- Không. Đó là một cuốn tiểu thuyết mang tính cảm hóa.

- Vậy thì hãy kết thúc sự cảm hóa dành cho tôi đi, và kể tôi nghe cảnh cuối cùng.

- Tôi sắp kể đến đoạn ấy đây. Mọi việc đã diễn ra với sự giản dị của những kiệt tác. Léopoldine ngồi trên đầu gối tôi, mặt đối mặt. Hãy để ý, quý