← Quay lại trang sách

HÔM NAY

Chiếc xe tải kéo moóc đồ sộ tạt vào lề đường cao tốc và phanh kít lại. Người tài xế nhìn theo khi chúng tôi tụt xuống khỏi cabin.

– Hai đứa bay điên sao chứ, - anh ta nói. - Xuống xe ở một nơi đồng không mông quạnh như thế này. Còn những hai mươi tư dặm nữa mới tới Fitchville và cả năm chục dặm nữa để tới thị trấn tiếp theo. Ngoài mấy lão tá điền cấy rẽ, hai đứa bay sẽ không gặp được một ai đâu.

Anne dập cửa xe lại. Tôi cầm hai gói đồ lên:

– Cám ơn anh đã cho đi nhờ.

Anh ta nhìn tôi.

– Ô-kê. Nhưng hãy cẩn thận. Dân ở đây không hữu hảo với khách lạ lắm đâu. Đôi lúc người ta nã vào sọ chú trước khi chú biết người ta muốn gì.

– Chúng tôi sẽ vô sự thôi. - Tôi đáp.

Anh ta gật đầu và ngồi vào ghế lái. Chúng tôi nhìn chiếc xe lăn bánh và hoà vào dòng xe cộ trên đường cao tốc. Tôi quay sang Anne. Nàng vẫn im lặng từ lúc lên xe cho tới lúc này.

– Anh có biết chúng ta tới đâu không đã? - Nàng lên tiếng.

Tôi gật.

Giọng nàng đã pha chút cáu kỉnh. "Không làm sao nói cho em biết được à?"

Tôi đưa mắt bao quát phong cảnh một lượt, đoạn trỏ tay vào một quả đồi nhỏ nhô lên sau những ngọn cây, cách đường cái chừng một dặm. "Kìa”.

Nàng nhìn quả đồi, rồi nhìn tôi. "Tại sao?”

– Tới đó anh mới biết, - tôi rời mặt đường tụt xuống dốc. Khi tôi ngoảnh lại thì nàng vẫn đứng yên, ái ngại nhìn tôi. "Xuống chứ?"

Nàng khẽ gật đầu và lò dò bám theo tôi. Được nửa con dốc, nàng trượt chân. Tôi kịp đỡ cho nàng khỏi ngã. Nàng dụi luôn đầu vào ngực tôi, run lẩy bẩy. Sau một thoáng, nàng ngẩng lên. "Em sợ”.

Tôi nhìn vào mắt nàng. "Không sao hết. Anh đang ở bên em".

Phải mất gần hai giờ chúng tôi mới lên tới đỉnh đồi, nửa giờ nữa để đặt chân lên cái gò nhỏ nhô lên ở sườn đồi bên kia. Tôi ngồi phịch xuống, để hai gói đồ sang một bên. Nghỉ lấy hơi chừng vài phút tôi bắt đầu quỳ xuống, đưa tay quờ quạng mặt đất dưới lớp cỏ dày.

– Anh làm gì thế?

– Tìm một cái gì đó, - tôi đáp và đụng ngay phải một tảng đá. Tôi rê tay thật thận trọng. Tảng đá hình chữ nhật, mặt trên đã hơi nghiêng đi. Tôi vội vàng bới rộng lớp cỏ ra. Đó là một phiến đá dài chừng hai bộ và rộng chừng một bộ. Tôi phủi đất và rác ra khỏi mặt đá cho đến khi đọc được hàng chữ khắc trên đó, đậm nét và rõ ràng.

HUGGINS

Sau lưng tôi, giọng nàng nhẹ tênh:

– Anh tìm thấy cái gì đấy?

Tôi nhìn phiến đá một lần nữa rồi mới ngẩng lên, đáp:

– Mộ chí của ông nội anh.

– Anh biết vị trí của nó từ trước rồi à?

Tôi lắc đầu.

– Thế làm sao anh tìm ra được?

– Anh cũng không rõ.

– Hãy kể cho cô ấy nghe đi, con của ta. Ta đã bảo con mà.

– Ông chết ngoẻo rồi. Vả ông cũng chẳng bảo tôi được điều gì lúc ông còn sống.

– Ta bảo ban con từ những việc nhỏ nhặt nhất trở đi. Nhưng con đâu có nghe ta.

– Thế cái mẹ gì làm cho ông nghĩ rằng tôi đang dỏng tai nghe ông vào lúc này?

Tiếng cười của ông nghe lục khục nặng nề, chẳng khác gì lúc còn sống.

– Con không còn một lựa chọn nào khác. Ta đang ngự trị trong đầu con.

– Xéo đi. Ông chết rồi. Ông phải để tôi sống cuộc sống riêng của mình chứ.

– Con còn trẻ. Con có thời gian. Trước hết con phải sống cuộc sống của ta cái đã. Sau đó con mới có thể sống cuộc sống của con.

– Cứt.

– Đúng như vậy, - lại thêm một chuỗi cười lục khục nữa. - Con phái tập đi trước khi học chạy chứ.

– Bộ ông tính lên lớp cho tôi chắc?

– Chứ sao?

– Ông làm việc đó bằng cách nào một khi ông đang nằm sâu dưới ba thước đất, trong nghĩa địa Scarsdale?

– Ta đã nói với con rồi. Ta hiển hiện trong từng tế bào của con. Ta là con và con là ta. Chừng nào con còn sống thì ta vẫn còn đó.

– Nhưng rồi tôi cũng sẽ chết. Lúc đó ông chui vào đâu?

– Ta sẽ cùng với con đi vào lũ nhóc của con.

Một giọng đàn ông vang lên sau lưng chúng tôi:

– Đằng sau quay! Chầm chậm thôi, và chớ có dở trò. Tôi đứng lên. Anne bám lấy tay tôi và cả hai từ từ quay lại. Anh ta cao lớn trong chiếc quần yếm và chiếc sơ mi đã tã. Hai bên khoé mắt đầy những nếp nhăn. Đầu chụp một cái mũ rơm rộng vành. Dữ tợn hơn cả là khẩu súng hai nòng đang chằm chằm chĩa vào chúng tôi. "Các người có trông thấy biển CẤM VÀO treo dọc đường mòn không?"

– Chúng tôi không theo đường mòn, mà đi tắt từ đường cao tốc lên đây.

– Các người từ đâu tới thì hãy quay về đó. Đây không phải là chỗ cho các người tìm kiếm bất cứ cái gì.

– Tôi đã tìm thấy cái mình cần, - tôi nói, chỉ tay vào phiến đá.

Anh ta bước sang một bên và nhìn xuống. "HUGGINS". Anh ta đọc khẽ, nhấn mạnh âm G. "Nó có liên quan gì đến các người?".

– Đấy là ông nội tôi.

Anh ta không nói gì, chỉ xoi mói nhìn vào mặt tôi.

– Tên anh là gì?

– Jonathan Huggins.

– Con của Dan Lớn?

Tôi gật.

Họng súng của anh ta chúi ngay xuống đất. Anh ta nói, nhã nhặn hẳn. "Mời anh chị vào nhà tôi. Bà xã nhà tôi sẽ thết anh chị vài li nước chanh ướp lạnh ngâm ở đáy giếng".

Tôi và Anne theo anh ta đi xuống một lối mòn chạy sau những lùm cây ven đồi. Chúng tôi leo qua gò đất nhỏ và trông thấy một thửa lúa mì cạnh nhà anh ta, nếu có thể gọi túp lều nát như tổ đỉa ây là một cái nhà. Trước cửa có một chiếc máy thu gom và đánh đống rơm rạ đã quá cũ, bụi bặm bám đầy, sơn đã bong hết, trơ ra màu kim loại gỉ.

Anh ta xăng xái mở cửa và gọi to:

– Betty May, nhà ta có khách.

Sau vài giây, một cô gái hiện ra trên khung cửa. Cô ta đang mang thai. Tuổi chỉ mới mười sáu là thừa thãi. Mặt tròn và bụ bẩm như một quả táo chín. Đôi mắt xanh mở to, ngơ ngác và mái tóc vàng dài ngang vai. Cô ta nhìn chúng tôi rất kỹ, vẻ sợ hãi hiện rõ trong mắt.

– Không có gì đâu, Betty à, - anh ta nói đón như để cô vợ vững dạ. - Họ từ miền Bắc đến đấy.

– Chào anh chị ạ, - cô ta thỏ thẻ như một đứa trẻ.

– Chào cô, - tôi nói.

Anh chồng quay sang tôi, chìa tay ra:

– Tôi là Jeb Stuart Rundall. Còn đây là nhà tôi. Betty May.

– Rất vui được làm quen với anh chị, - tôi cũng chìa tay ra, bắt. - Đây là Anne.

Anh ta khẽ cúi đầu trong một cử chỉ cổ lỗ sĩ:

– Rất hân hạnh, thưa bà.

– Cô, không phải bà.

– Xin lỗi cô.

Nàng mỉm cười với anh ta:

– Được gặp anh chị thật hay quá.

– Em kéo nước chanh ở giếng lên đi, Betty May. Nắng thế này chắc hai vị khách của chúng ta khát lắm.

Khi chúng tôi bước vào trong lều thì Betty May đã biến mất. Sau cái cảm giác nóng bức và chói chang ở bên ngoài, tôi cảm thấy trong lều lành lạnh và tăm tối. Chúng tôi ngồi quanh một chiếc bàn nhỏ, ở một phía vách lều có chiếc bếp than, cạnh đấy là cái chậu rửa bát. Bên trên chậu rửa là cái chạn bát. Phía vách bên kia được ngăn ra làm đôi, một bên kê giường, bên kia dùng làm nơi chứa đồ vật. Chính giữa bàn là một cái đèn dầu nho nhỏ.

Jeb Stuart lôi ra một điếu thuốc hút dở, cắm vào miệng nhưng không châm lửa. Betty May quay lại với một bình nước chanh. Cô lẳng lặng rót đầy ba cốc và để xuống trước mặt từng người. Cô không uống và cũng không ngồi lại. Im lặng. Cô bước ra chỗ bếp than, đứng ở đấy và quan sát chúng tôi.

Tôi đưa cốc lên miệng.

– Tuyệt lắm, chị ạ.

– Cảm ơn anh đã khen, - cô đáp, vẫn bằng cái giọng con trẻ dễ thương ấy.

– Tôi nghe tin thân phụ anh vừa qua đời, - Jeb Stuart lên tiếng. - Xin chia buồn cùng anh.

Tôi gật đầu.

– Tôi đã được gặp thân phụ anh một lần và không sao quên nổi ông. Con người ấy có thể vã nước lã nên hồ như chơi.

Tôi cười. "Đó là việc mà hẳn lúc này ông ta đang làm. Bắt quỷ dữ tăng lương và giảm giờ làm cho công nhân ở địa ngục".

Anh ta lúng túng, không biết có nên cười theo hay không. "Thân phụ anh là một người rất mực kính Chúa, ông phải ở trên kia chứ, bên cạnh các thiên thần".

Tôi gật, chợt nhớ rằng tôi và anh ta trái khoáy về ngôn ngữ.

– Thân phụ anh là người của chúng tôi. Ông sinh ra và lớn lên ở đây. Ông đã gây dựng cho mình một tên tuổi khiến cả nước phải nể sợ. - Anh ta lục lọi túi áo và lôi ra một chiếc phù hiệu hình tròn với một ngọn cỏ bốn lá màu xanh đắp nổi trên nền trắng. Phù hiệu Liên Công Đoàn, CALL. - Khi ông bắt đầu gây dựng Liên Công Đoàn, chúng tôi là một trong những tổ chức đầu tiên sáp nhập vào với ông.

– Anh thuộc tổ chức nào?

– Công Đoàn Canh Nông, SFWU.

Ra thế. Công Đoàn Canh Nông. Cái đầu tẩm cứt của chiếc gậy công đoàn. Cả CIO và AFL đều chúi mũi vào việc thu lệ phí. Mà các tá điền thì không phải là một chỗ bở ăn. Cha tôi khác. Ông tỉnh hơn. Ông biết phải bắt đầu từ đâu. Điều ông tìm kiếm trước tiên là đoàn viên chứ không phải vài cắc bạc, và cơ hội chín muồi xuất hiện trước hết ở miền Nam. Bởi thế mà ông cứ lải nhải cái từ "Liên Đoàn" chứ không phải từ "Quốc Tế". Ông làm thế là đúng. Trong vòng một năm, tất cả các công đoàn miền Nam đã nằm gọn trong tay ông, và dựa vào đấy ông bắt đầu bành trướng ra bốn phương tám hướng. Ba năm sau ông đã đủ sức kêu gọi bảy trăm công đoàn lớn nhỏ trong toàn quốc với tổng số đoàn viên hơn hai mươi triệu, hợp nhất.

Jeb Stuart ra hiệu cho vợ. Cô bước lại, đổ đầy cốc cho anh. "Tôi vẫn nhớ như in từng lời của ông". Anh trầm ngâm nói:

"Tôi chỉ là một người trong các bạn, - thân phụ anh bảo với chúng tôi vậy - Tôi sinh trưởng trong chốn đồi núi hoang vu này. Tôi giúp thầy tôi cày bừa và nấu rượu. Công việc đầu tiên năm tôi lên mười hai là thợ mỏ. Tôi đã chăn bò ở Texas, làm công nhân dầu khí ở Georgia, đóng nước cam ở Florida. Tôi đã làm những việc lam lũ ngoài sức tưởng tượng của các bạn".

Ông nhìn chúng tôi một lượt. Đôi mắt ông dưới hai hàng mày rậm mới sáng chứ. Tất cả chúng tôi cùng cười. Chúng tôi đã thuộc về ông. Ông biết thế, và chúng tôi cũng vậy. Nhưng ông không cười. Ông hoàn toàn nghiêm túc.

"Tôi không đòi hỏi các bạn bỏ CIO để về với chúng tôi. CIO đang làm một việc tốt cho các bạn. Mặc dầu ông John L. đã gần đất xa trời, còn anh em nhả Reuther thì lại quá non nớt, phải vài năm nữa họ mới trưởng thành,

CIO vẫn đang làm một việc tốt cho các bạn. Nhưng họ không thể làm hết được. Thậm chí nếu họ có sát nhập với AFL chăng nữa - tôi lưu ý các bạn, sớm muộn họ cũng sẽ sáp nhập với AFL - thì tổ chức hợp nhất đó cũng không thể làm hết được.

"Tôi không đòi hỏi các bạn phải thắt lưng buộc bụng để đóng thêm đoàn phí. Trời mới biết chủ các bạn có trả lương sòng phẳng cho các bạn hay không. Tôi chỉ yêu cầu các bạn hãy gia nhập Liên Công Đoàn. Ngày nay, mọi công nhân miền Nam qua sử sách đều biết liên minh là gì. Đó là một nhóm người tự nguyện liên hiệp lại để bảo vệ quyền lợi của mình. Thời nội chiến cha ông ta cũng đã làm như vậy.

"Nhiệm vụ của Liên Công Đoàn là tạo điều kiện cho các công đoàn duy trì sự độc lập của mình và qua đó đạt được những kết quả tốt nhất trong sự nghiệp bảo vệ quyền lợi của những người lao động. Chúng tôi phục vụ các bạn. Tư vấn, quy hoạch, điều hành. Và như vậy các bạn có thể quyết định được nên làm gì thì tốt nhâ't. Cũng giông như các tập đoàn hay các công ti mời chuyên gia về giúp mình giải quyết các bế tắc. Các bạn sẽ không phải đóng một xu lệ phí nào, trừ phi các bạn gọi chúng tôi đến phục vụ các bạn. Trong trường hợp đó, các bạn chỉ phải trả thù lao cho chúng tôi trong thời gian chúng tôi làm việc cho các bạn thôi."

Jeb Stuart ngừng nói, nâng cốc nước lên, tợp một ngụm. "Tôi không hiểu nổi những điều ông nói. Chúng quá cao siêu. Và tôi không nghĩ có ai đấy trong hội trường sẽ hiểu được, nhưng chuyện đó đâu có nhằm nhò gì.

Chúng tôi đã bị ông chinh phục hoàn toàn".

Tôi cười thầm. Chẳng còn ai lạ lẫm gì với bài diễn thuyết đó. Cả tôi cũng đã nghe đi nghe lại cỡ triệu lần. Cha tôi đã tài tình nặn cho nó mang hình dáng của một thông điệp kết đoàn: toàn miền Nam sẽ trỗi dậy. Mồi chài các công đoàn gia nhập liên minh, đó mới chỉ là khởi đầu; sau đấy chương trình bán chuyên gia sẽ được thực thi. Tôi nghĩ chả một công đoàn nào cần tới sự giúp đỡ nhiều như vậy. Tự anh thì chỉ thấy có một vấn đề mắc mớ, nhưng nếu đã mời CALL đến, họ sẽ chỉ cho anh thấy phải giải quyết tới cả chục vấn đề. Rồi với sự cố vấn của CALL, mọi việc trở nên ổn thoả, lại đâu vào đấy, chỉ chờ tràng vỗ tay, bữa tiệc nhậu nữa là xong. Nghệ thuật là ở chỗ CIO và AFL không thể xoay chuyển gì được bởi vì, xét cho cùng CALL đã có mặt và luôn sẵn sàng giúp đỡ họ.

Nghĩ tới đấy, tôi hỏi:

– Rồi sao nữa?

– Cuối mùa hạ năm đó, người ta bàn tán xôn xao về một cuộc đình công, bởi vì năm ấy được mùa to. CALL chỉ cho chúng tôi thấy rằng nếu đình công ở thời điểm này thì sẽ lợi bất cập hại, bởi vì chúng tôi đang có một cơ hội làm việc tốt đẹp. Nếu để lỡ mất vụ mùa bội thu này thì sáu năm tăng lương liên tục chúng tôi cũng không bù được tổn thất. Và CALL dự đoán vụ mùa tới sẽ thất thu. Đó mới là thời điểm tẩn cho bọn điền chủ. Chút mùa màng còn lại cũng chẳng có ai gặt hái cho, chúng chịu sao nổi. Quả nhiên vậy. Cuộc bãi công kéo dài hơn hai tuần. Bọn điền chủ thua trắng bụng.

Tôi nhìn anh ta:

– Sau những vụ kiểu đó, CALL luôn phái xuống công đoàn một chuyên viên để lập một dự án quan trọng?

Anh ta trố mắt.

– Sao anh biết rõ vậy?

Tôi nhoẻn cười. "Tôi lớn lên trong đó. Tôi biết cha tôi".

– Ông là một vĩ nhân, - anh ta cung kính nói.

– Giờ được trồng cấy trên đất của mình, anh còn nghĩ vậy nữa không?

Anh ta bối rối.

– Tôi không hiểu.

– Tôi thấy đồng lúa mì ở ngoài kia.

– Được ba acrơ thì đáng bao nhiêu. Tự tôi cũng làm lấy được, chẳng phải thuê mướn ai.

– Ngộ nhỡ công đoàn đến bảo anh rằng anh cần hai người giúp việc?

– Họ không lên tới đây đâu. Sẽ chẳng còn ai lên đây nữa cả. Trong một thời gian dài. Thậm chí không ai biết tôi đang mở điền trang ở đây. Đất đai chung quanh bạc màu hết rồi.

Tôi nhớ lời anh ta trích dẫn bài diễn thuyết nhiều năm trước của cha tôi. "Tôi giúp cha tôi cày bừa và nấu rượu".

Bất giác tôi thốt lên. "Bộ đồ cất rượu của ông nội tôi!".

Làn da sạm nắng của anh ta tái mét lại. "Anh nói gì?"

– Bộ đồ cất rượu của ông nội tôi, - tôi nhắc lại. - Anh có thấy ở đâu không?

Anh ta do dự giây lát, đoạn gật đầu.

Giờ mọi chuyện mới bắt đầu có ý nghĩa. Ba acrơ lúa mì cộng với bộ đồ chưng rượu đã là một gia sản nho nhỏ.

– Tôi muốn được xem nó.

– Ngay bây giờ ư?

– Ngay bây giờ.

Anh ta lẳng lặng đứng lên, xách theo khẩu súng và đi ra cửa. Tôi bước theo anh ta.

Sau chúng tôi, Betty May lên tiếng, giọng không còn thơ trẻ nữa. "Đừng, Jeb. Không được đâu".

Tôi nhìn anh ta, rồi nhìn cô ta. "Cô khỏi lo, anh ta sẽ không làm gì tôi đâu".

Jeb gật đầu và bước ra. Tôi nhìn Anne. "Em cứ đợi ở đây cho đến lúc anh quay lại."

– Tôi sẽ chuẩn bị xong bữa tối vào lúc đó, - Betty May nói.

– Cám ơn cô.

Anh ta xăm xăm đi trước, không hề ngoảnh lại và cũng không nói một lời cho đến khi hai chúng tôi bước vào một cánh rừng ở chân đồi, theo một lối mòn phủ đầy cỏ dại.

Bỗng anh ta đứng lại.

– Nó ở kia.

Tôi nhìn bụi cây rậm rạp như một bức tường chắn trước mặt. "Đúng thế".

– Sao anh biết?

– Anh nói với tôi rồi đấy thôi.

– Tôi không hiểu.

– Chẳng sao, - tôi nói.

Anh ta bước lên, vạch bụi cây và chui vào. Tôi làm theo. Gai góc quật trả lại sau lưng chúng tôi. Bộ đồ chưng rượu nằm trên một khoảng đất nhỏ, dọn dẹp sạch sẽ, bên trên được che bằng một mái lợp gỗ ván và các tán cây. Chiếc bình hơi bằng sắt, màu đen vẫn nguyên vẹn như không hề chịu sự phá huỷ của thời gian, giàn ống đồng còn sáng như mới. Mười thùng chứa bằng gỗ sồi, dung tích bốn mươi galông mỗi cái, xếp thành hàng cạnh đấy. Phía đối diện là một đống củi xếp gọn gàng. Nghe thấy tiếng róc rách chảy từ trên núi đá xuống. Tôi chìa tay ra hứng lấy một vốc và đưa lên môi. Nước ngọt lịm và mát.

– Dòng nước này đổ xuống giếng nhà tôi đấy, - anh ta nói.

– Anh phát hiện ra nó bằng cách nào.

– Săn. Hai năm trước, con chó săn của tôi lùng gấu trúc, tôi bắn được một con, rồi lần xuống theo dòng suối này, tôi thấy nó đổ vào một cái giếng. Ngay lúc ấy tôi hiểu mình phải làm gì. Ba năm bỏ công và tôi sẽ trở nên giàu có. Sẽ không phải làm một anh công nhân nông trại cực như chó nữa.

Tôi quay lại bộ đồ chưng rượu. Anh ta bước theo. Tôi nhìn giàn ống sáng bóng. "Giàn ống mới hả?"

Anh ta gật đầu. "Tôi phải gây dựng từ đầu. Tôi và Betty May đã bỏ ra một năm làm việc cật lực. Làm đất để gieo hạt, dựng lều. Dốc hết lưng túi mua sắm dụng cụ và nguyên liệu. Hết hơn sáu trăm đôla đấy. Cho đến khi thu hoạch vụ lúa đầu tiên vào mùa xuân năm ngoái, chúng tôi mới thực sự tin tưởng là mọi chuyện sẽ tốt đẹp. Thậm chí không một ai biết chúng tôi đang ở đây. Chúng tôi không dám xuống bắt xe đi Grafton, mất tám mươi dặm đường cao tốc để mua thực phẩm. Mọi việc đang bình thường thì anh chị đến.

Tôi nhìn anh ta, không bình luận gi.

Anh ta để khẩu súng xuống, lục túi tìm thuốc lá với một vẻ mặt rầu rĩ. Điếu thuốc đã cong vênh và nhăn nhúm, bởi nó nằm trong đó lâu lắm rồi. Anh ta cẩn thận nắn cho nó thẳng ra, đoạn châm lửa và chầm chậm nhả khói. "Cả tôi lẫn Betty May đều đoan quyết rằng sẽ chẳng có ai lần lên đây cả. Nếu được như vậy thì còn gì tốt bằng". Anh ta ngừng lại một thoáng rồi nói, giọng lạc hẳn đi.

"Chúng tôi chưa kịp gỡ gạc gì. Sáng mai chúng tôi sẽ rời khỏi đây".

– Điều gì khiến anh nghĩ rằng tôi muốn anh chị rời khỏi đây?

– Đây là điền sản nhà anh, hẳn thế? - Anh ta nhìn vào mắt tôi. - Tôi đã nhìn thấy điều đó trong hồ sơ lưu ở thị xá khi xem danh sách các chủ đất. Tên của anh to đùng, không ai không thấy. Thân phụ anh đã sang tên cho anh từ ba năm trước cơ. Nhưng ở phòng quản lí người ta khẳng định chắc chắn rằng ba mươi năm trở lại đây, chủ đất đã không hề xuất hiện. Chỉ có một ông luật sư tìm đến để hoàn thành thủ tục sang tên thôi.

Tôi tránh không nhìn lại anh ta. Tôi không muốn anh ta trông thấy những giọt nước mắt của tôi. Lại thêm một điều cha tôi không hở ra với tôi.

– Anh hãy quay lại nói với Betty May rằng anh chị sẽ không phải đi đâu cả, - tôi bảo anh ta.

Tôi nghe anh ta đứng lên sau lưng. "Anh còn nhớ đường về không đấy?"

– Tôi nhớ.

Khi tôi ngoảnh lại thì anh ta đã biến mất. Tiếng cành cây sột soạt và tiếng bước chân cũng đã tắt. Thinh không hoàn toàn im ắng, chỉ có tiếng gió nhẹ xào xạc trên ngọn cây. Tôi ngồi xuống đất. Nó lạnh và ẩm. Tôi thọc tay xuống và vốc một vốc đầy. Tôi nhìn nó. Nó đen và ướt. Tôi áp nó lên mặt và để cho nước mắt nhỏ vào. Lần đầu tiên từ khi cha tôi chết, tôi bật khóc.

Trời vẫn còn sáng khi chúng tôi dùng xong bửa tối. Thịt lợn xông khói, đậu Hà Lan, nước xốt, bánh mì tự nướng và cà phê tráng miệng. Qua khoé mắt, tôi thấy Betty May đang chăm chú nhìn tôi. "Ngon quá", tôi khen, dùng một mẩu bánh mì vét nốt chỗ nước xốt trên đĩa.

Cô cười sung sướng. "Cây nhà lá vườn cả thôi mà”.

– Đấy mới là những món tuyệt nhất, cô Betty May ạ, - tôi nói.

– Tôi cũng thường bảo cô ấy như vậy. - Jeb Stuart phụ hoạ. - Hơi đâu mà đọc những thực đơn cao cấp trong các tạp chí nội trợ. Chúng chỉ để đọc thôi, chứ đâu phải để ăn.

Anne cười. "Betty May chẳng cần phải đọc thêm. Tự cô ấy cũng đã là một đầu bếp khéo léo rồi".

– Cám ơn cô Anne, - Betty nói, mặt ửng đỏ.

Jeb Stuart dẹp chiếc đĩa của mình sang một bên. "Anh chị thấy đấy, nhà tôi chỉ có độc một phòng thôi, nhưng anh chị sẽ có giường ngủ. Betty May và tôi có thể ngủ đằng sau chiếc máy đánh đống rơm rạ".

– Khỏi cần, - tôi chối phắt đi. - Cả Anne và tôi đều có túi ngủ. Vả lại, chúng tôi thích nằm ngoài trời.

– Vậy thì chỗ đẹp nhất là ngoài ruộng lúa. Ở đấy khô ráo, không hề có muỗi đâu, - anh ta đứng lên. - Để tôi chỉ cho anh.

Tôi theo anh ta. Anne cũng đứng lên. "Để tôi giúp chị một tay".

Betty May lắc đầu. "Cô cứ ngồi nghỉ. Có nhiều nhặn gì đâu".

Bóng tối ập xuống rất nhanh. Mười phút sau, khi tôi và Stuart từ đồng lúa mì quay về, ngọn đèn dầu đã được thắp sáng.

Tôi nhìn đồng hồ. Gần tám giờ tối. "Anh chị có cái radio nào không?" Tôi hỏi.

Jeb lắc đầu. "Nếu có thì cũng chẳng biết nghe vào lúc nào. Ăn tối xong là chúng tôi lên giường ngay".

– Tôi muốn nghe bản tin. Anh tôi có khả năng được bổ nhiệm quyền chủ tịch Liên Công Đoàn vào chiều nay.

– Tiếc thật, - anh ta đáp.

– Không sao, - tôi quay sang Anne, - chúng ta đi thôi. Anh sẽ chỉ chỗ cho em trải túi ngủ. - Hai chúng tôi bước ra cửa. - Cám ơn Betty May đã cho chúng tôi ăn tối. Gặp nhau sáng mai nhé.

– Ở đây họ không có điện nhỉ, - ra đến ngoài đồng, Anne nhận xét.

– Họ không muốn có thôi.

– Cô ấy không hề được xem tivi. Cô ấy bảo em thế.

Tôi không nói gì.

– Anh có định cho phép họ ở lại đây không?

– Có.

– Nếu vậy thì em rất vui. Cô ấy sợ anh sẽ đuổi hai vợ chồng họ đi.

– Cô ta nói với em thế à?

– Ừ. Họ thấy tên anh ở trong hồ sơ. Anh có biết cha anh đã sang tên mảnh đất này cho anh không?

– Không?

– Thế sao anh mò đến đây?

– Anh không hiểu, - tôi đáp. - Và đừng có tra hỏi anh nữa. Anh không biết gì cả. Anh không biết tại sao chúng ta lại ở đây, hay ngày mai chúng ta phiêu dạt đi đâu.

Nàng sờ tìm tay tôi và nắm chặt lấy. Tôi quay sang phía nàng. Trăng đã lên nên tôi có thể nhìn ngắm gương mặt của nàng. "Anh kỳ lắm, Jonathan ạ", nàng nói. "Mỗi phút trôi qua anh càng giống cha anh hơn. Thậm chí giống từ giọng nói".

– Cứt, - tôi rủa. - Anh rất tiếc phải buộc em quẳng tất cái đống thuốc lá tẩm cần sa của em vào sọt rác. Tự anh có cách xử trí khi lên cơn ghiền rồi. Đầu óc em lú lẫn hết cả vì cái của ấy.

Nàng cười khúc khích. "Anh đang khoái thứ đó hả?"

– Đúng thế.

Nàng cho tay vào ví đầm khoắng một lúc và lôi ra một gói giấy nho nhỏ. "Thứ dự phòng cho trường hợp khẩn cấp của em", nàng nói. "Vật bất li thân đây".

Tôi làm thinh trong lúc quan sát nàng vê lá thuốc tẩm cần sa lại thành điếu một cách thuần thục.

Thấy nàng tìm diêm, tôi nói.

– Để anh mồi cho. Cẩn thận kẻo cháy đồng đấy.

Tôi cầm lấy điếu thuốc từ tay nàng, đưa lên miệng, quẹt diêm và hít một hơi dài. Nàng kéo liền một lúc hai hơi và ngả người lên khuỷu tay, đôi mắt lim dim mơ màng. Tôi làm thêm hơi nữa rồi bóp tắt điếu thuốc, nhét vào túi áo.

– Đã bao giờ anh trông thấy trời nhiều sao như đêm nay chưa?

Tôi ngẩng mặt nhìn trời. "Chưa". Tôi đánh hơi thấy nhiều hơn là cảm nhận ra nàng đang cựa quậy bên trong túi ngủ. Tôi quay sang nàng.

Nét mặt nàng biểu hiện một sự tập trung cao độ. Hơi thở của nàng bỗng dưng dồn dập, hổn hển. "Ôi, lạy Chúa!" Nàng đã nhận ra tôi đang ngắm nàng. "Em hết chịu nổi rồi. Sao em cảm thấy nhột nhạt thế này không biết?"

Nàng nhoài sang, ôm lấy đầu tôi kéo xuống. Tôi cảm thấy môi nàng đang ngọ nguậy trên môi tôi. "Daniel!" Nàng thầm thì.

Tôi giận dữ đẩy nàng ra. "Tôi không phải là một kẻ kì dị, mà là em", tôi nói. "Em đang cố hiếp một con ma".

Nàng bỗng oà khóc. "Em xin lỗi, Jonathan."

Tôi cảm thấy ân hận. "Không cần phải xin lỗi anh đâu". Tôi kéo đầu nàng áp lên vai mình. "Đây không phải là lỗi của em".

Nàng ngẩng lên nhìn tôi qua đôi mắt đẫm lệ. "Anh thường xuyên chuyện trò với ông ấy, phải không, anh Jonathan?" Nàng thầm thì.

– Đó là một chuyện siêu thực, - tôi nói. - Nó chỉ xảy ra trong đầu anh thôi.

– Anh cứ chuyện trò hoài với ông ấy. Em biết mà.

– Đâu có.

Nàng cười. Một lần nữa tôi cảm thấy môi nàng đã áp lên môi tôi.

Chúng mềm mại và ngọt lịm. "Anh Jonathan Huggins!" Nàng rời miệng tôi ra.

– Đây mới là tên anh.

– Sẽ có ngày anh hiểu ra thôi.

– Hiểu cái khỉ gì?

– Hiểu rằng anh giống cha anh như hai giọt nước.

– Không bao giờ, anh là anh.

– Jonathan Huggins, - nàng lại bập môi vào miệng tôi. - Làm tình với em đi, anh.

– Em nói xem em sẽ làm tình với ai nào? Với anh, hay với cha anh?

– Với anh, Jonathan ạ. Người ta không thể hiếp một con ma được.

Tôi đứng trong phòng điện thoại công cộng nằm ở góc xa của một bãi đỗ xe, chờ được nối dây nói chuyện đường dài. Dòng chữ trên nóc cửa hàng tự động phía bên kia bái đỗ thật đơn giản. Những chữ cái hoa màu đỏ, viết trên nền trắng: FITCHES. Phía dưới cái tên ấy là con số 1868.

Tôi nghe thấy một tiếng cạch, và tiếp theo đấy là giọng nói của mẹ tôi. Tôi toan lên tiếng thì bị cô điện tín viên ngắt mất đường dây. Tôi nghe cô ta nói: "Mời bà Huggins nói chuyện với con trai của bà". Tôi chờ tiếng nói của mẹ tôi nhưng không thấy. Giọng cô điện tín viên lại vang lên. "Đường dây đã thông".

– Chào mẹ, - tôi nói.

– Jonathan, con đang ở đâu đấy? - Mẹ tôi hỏi.

– Ở Tây Virginia, tại một thị trấn có tên là Fitchville. Mẹ đã nghe đến cái tên này bao giờ chưa?

– Chưa. Mẹ đang phát điên lên đây. Bốn ngày nay, mẹ cứ như người mất hồn.

– Con có làm sao đâu.

– Ít ra con cũng phải báo về cho mẹ chứ. Bố mẹ Anne đang lo cuống lên đấy. Họ đoán cô ấy theo con.

– Họ đoán trúng rồi.

– Mẹ Anne muốn cô ấy gọi cho bà.

– Con sẽ nói lại với Anne.

– Mẹ hi vọng con và cô ấy sẽ không làm một điều gì điên rồ, - bà nói.

Tôi cười xoà. "Chẳng sao đâu mẹ ạ. Cô ấy vẫn dùng thuốc ngừa thai thường xuyên mà".

– Mẹ không ám chỉ chuyện ấy, - giọng bà lộ vẻ ngán ngẩm.

– Mẹ hãy bảo họ rằng cô ấy đã thôi xài cần sa. Con đã buộc cô ấy bỏ hút. - Tôi chuyển đề tài. - Ở đây con mù tịt về tin tức. Daniel ra sao mẹ?

– Người ta đặt anh ta lên ghế chủ tịch. Cha con nói không sai.

– Con rất vui. Nếu mẹ gặp Daniel, hãy nói với anh ta rằng con có lời chúc mừng.

Bà không nói gì.

– Mẹ ơi.

Bà vẫn im re.

– Mẹ ơi, sao thế?

Bà bật lên. "Căn nhà mẹ rỗng tuếch. Im ắng không thể chịu nổi. Chẳng còn ai qua lại nữa cả".

– Hoàng đế đã băng hà.

Lúc đó bà đang khóc. "Jonathan, quay về đi. Mẹ xin con. Mẹ cô đơn quá".

– Con có ở đó đi nữa thì cũng chẳng làm gì được.

– Trước đây trong nhà luôn có người. Mẹ cảm thấy sự sống tồn tại. Giờ chỉ còn lại mẹ và Mamie, tha thẩn ra vào hết ngày. Mẹ không có việc gì làm ngoài ngồi xem tivi.

– Thế Jack ở đâu? - Tôi hỏi.

Bà do dự trước lúc trả lời. Bà đã quen với việc tôi biết tỏng chuyện dan díu của bà. "Phải đến cuối tuần sau may ra ông ta mới có thể tới đây được. Dan muốn ông ấy ở lại Washington với Dan trong mấy ngày đầu trị nhiệm".

– Sao mẹ không bay luôn xuống đấy? Dưới ấy chúng ta vẫn còn một căn hộ bỏ trống cơ mà.

– Căn hộ ấy không còn là của chúng ta nữa. Nó đã được sang tên cho vị tân chủ tịch Liên Công Đoàn.

– Con nghĩ là Dan chẳng lấy đó làm điều đâu.

– Nhưng làm thế không được. Người ta cười cho.

– Mẹ hãy cưới Jack đi, nếu đây là điều mẹ còn băn khoăn.

– Mẹ không muốn. - Bà ngừng lại một thoáng. - Có thể nói ra con không tin, nhưng sự thật là mẹ vẫn còn yêu cha con. Mẹ chưa sẵn sàng chung sống với một người đàn ông kém cỏi hơn.

– Con tin mẹ, nhưng mẹ cũng phải bắt đầu lại cuộc sống của mình chứ. Ông ta chết rồi. Mẹ không thể vận đồ đen cho đến hết đời được.

Bà bỗng nghẹn lại. "Jonathan, con có phải là con của mẹ không? Hay là con riêng của cha con? Con nói y như ông ấy vậy".

– Con là con của mẹ. Và của ông ta. Mẹ hãy nhớ kỹ điều đó. Chúng ta rồi sẽ phải trưởng thành vào một lúc nào đó. Chúng ta đã không làm nổi chuyện đó khi có ông ta. Ồng ta đã quyết định hộ chúng ta tất cả. Từ giờ chúng ta phải tự lập lấy thân.

– Đó là điều con đang theo đuổi phải không, Jonathan?

– Vâng ạ, thưa mẹ. Và con còn theo đuổi nếu ông ta để con yên.

– Chẳng dễ đâu con ạ.

– Con sợ thế.

– Con đang dừng chân ở khách sạn nào đấy? Có cách gì giúp mẹ tới chỗ con được không?

– Không mẹ ạ. Con đang đi vung lên. Con cũng không biết đích xác con sẽ dừng lại ở đâu nữa.

– Con sẽ gọi lại cho mẹ chứ? Không lâu nữa?

– Khoảng giữa tuần sau, mẹ nhé, - tôi đáp.

– Con có cần tiền không?

– Con vẫn có đủ. Nhưng nếu kẹt quá, con biết phải gọi đi đâu.

– Gắng giữ mình nghe con. Mẹ thương con lắm.

– Con cũng rất thương mẹ, - tôi nói và cúp máy. Tôi nghe tiếng đồng xu rơi xuống đáy hộp điện thoại. Tôi quờ tay cầm lấy và bước đi.

Anne đang chờ tôi trước cửa hàng tự động. Nàng vạch miệng cái túi giấy ra. "Những giống hoa này coi có được không?" - Tôi nhìn những dòng chữ li ti trên các tờ nhãn. Viôlét, Păngxê, hồng. "Theo anh thì đẹp. Anh chẳng hiểu gì về hoa hoét cả".

– Em cũng thế. Nhưng theo em, trồng chúng bên nghĩa trang trông cũng được. Jeb Stuart nói chúng sẽ mọc tự nhiên, chẳng cần chăm chút gì cả.

– Được thế thì hay quá.

– Jeb Stuart bảo sẽ đợi chúng ta ở sân ga Exxon.

– Tốt thôi, - tôi nói. - Mẹ em muốn em gọi cho bà đấy.

Nàng nhìn tôi. "Anh có nói với mẹ anh rằng em vẫn mạnh khoẻ không?"

Tôi gật.

–Thế là đủ rồi.

– Vậy chúng ta đi, - tôi nói.

– Gượm đã. Em còn hai gói tướng thực phẩm để trong cửa hàng. Chắc anh chưa ngán món đậu Hà Lan và chả cuộn.

Tôi cười. "Em làm tất cả những việc này là vì anh à?"

Nàng tủm tỉm. "Cục cưng của Betty May cũng không chê đâu".

– Ở đây có cả thảy mười hai ngôi mộ, - Jeb Stuart nói.

Tôi nhìn xuống lớp đất mới đắp. "Không phải đâu, chỉ mười một thôi."

– Sao anh biết? - Anh ta hỏi. - Không hề có một dấu hiệu nào.

– Tôi biết chứ. Phải có một chỗ dành cho cha tôi. Nhưng ông đã được an táng nơi khác. - Tôi vớ lấy cái cuốc và giẫy một vạt cỏ hình chữ nhật ở một góc nghĩa địa. "Chỗ của ông ta phải ở đây."

Jeb Stuart nhìn trời. "Tối rồi. Chúng ta hãy tiếp tục công việc vào sáng mai."

– Ô-kê, -tôi nói.

Anh ta dựng cái cào vào thân cây. "Tôi phải báo cho Betty May biết chúng ta đang sửa soạn về nhà."

Tôi gật đầu và nhìn Anne. Nàng đang ngồi tựa lưng vào gốc cây. "Em còn điếu thuốc nào không?"

Nàng châm một điếu và đưa cho tôi. Mãi khi Jeb Stuart đi khỏi nàng mới lên tiếng. "Em sợ lắm."

– Sợ gì cơ?

– Sợ chết.

Tôi không đáp, chỉ bập môi vào điếu thuốc.

– Cái chết đang lởn vởn quanh đây, - nàng nói và đứng lên, bước lại chỗ tôi, - Jonathan, chúng ta rời khỏi đây thôi. Ngay bây giờ. Trong đêm nay.

– Không. - Tôi nói. - Để mai. Khi anh đã xong việc.

– Anh hứa chứ?

– Anh hứa.

– Thôi được, - nàng nói. - Em xuống trước xem Betty May có cần giúp gì không.

– Nhớ đừng để cô ấy làm cháy thịt nướng. - Tôi dặn.

Nàng cười và bước xuống lối mòn.

Tôi quay lại với công việc. Bằng lưỡi cuốc, tôi khắc tên cha tôi lên ô đất bên trên nấm mồ rỗng của ông ta.

– Cám ơn con.

– Tên của họ là gì nhỉ?

– Cái đó chẳng quan trọng. Họ là các cô, các bác của con, là các anh chị em của ta. Nhưng họ đã vĩnh viễn ra đi và không tồn tại nữa.

– Ông thì còn tồn tại đấy hẳn?

– Đúng. Con thấy đấy, ta có con. Còn họ thì chẳng có ai.

– Cái đó có nghĩa lý quái gì đâu.

– Không cần thiết nó phải có ý nghĩa. Lúc này, con không được coi bất cứ cái gì là có ý nghĩa. Cô gái của con cũng vậy.

– Cô ta thế nào?

– Cô ta đang mang thai. - Tôi nghe thấy tiếng ông ta cười. - Đêm qua cô ta đã mở rộng cửa đón con. Cô ấy đã nhận được tinh hoa của con và đã giữ lấy.

– Cứt.

– Nhưng nó chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn thôi. Rồi cô ta sẽ phá cái thai ấy. Chưa phải lúc. Cho cả con nữa.

– Một người chết mà biết như ông thì quá nhiều đấy.

–  Bởi ta là người chết mà!

Có tiếng nhạc vẳng ra trong lều. Khi tôi từ sườn đồi bước xuống, Jeb Stuart đang đứng trên mâm máy đánh đống rơm rạ "Tôi không biết anh vừa tậu được cái radio," tôi nói.

Jeb nhìn tôi. "Thế ư? Tôi nghĩ là anh biết rồi cơ đây. Anne mua chứ còn ai. Betty May sướng điên."

– Tôi cần được hướng dẫn cách ươm hoa, anh Jeb ạ. Tôi không biết gì cả.

– Đơn giản thôi. Betty May sẽ giúp anh. Cô ấy sành khoản đó lắm.

– Rất cám ơn, - tôi nói.

Anh ta nhìn lúa mì. "Chỉ còn năm, sáu tuần nữa là đến kỳ thu hoạch."

– Anh có cần giúp gì không?

Anh ta lắc đầu. "Chúng tôi tự làm lấy được."

– Bao giờ thì Betty May sinh cháu?

– Chừng hai tháng nữa, tôi đoán thế. Đúng vào mùa chưng rượu của chúng tôi.

– Anh có định bán luôn không?

– Ồ, không! Whiskey mới chưng uống sốc lắm, chẳng đáng giá một xu, phải đến hết mùa đông mới đem bán thì chắc lời.

Cửa lều kẹt mở. Anne bước ra. "Bữa tối đã sẵn sàng."

Jeb nhảy xuống. "Chúng tôi vào ngay đây."

Thịt quay không đến nỗi nào, nhưng Anne thì thất vọng ra mặt. Betty May và Jeb tỏ ra ít hứng thú với món này. Họ nhìn những miếng thịt còn đỏ màu máu với một vẻ tởm lợm, đoạn đặt tiếp lên bếp, nướng cho chúng thành than mới thôi. Ăn chiều xong, cả bốn người đang dùng cà phê thì có tiếng ầm ầm từ xa vọng đến.

Betty May ngơ ngác: "Cái gì thế nhỉ?"

Tôi chả buồn nhìn ra ngoài. "Trực thăng". Tôi không lạ gì thứ tiếng động này. Cha tôi cũng có một cái. Ông ta thường dùng nó trong những chuyến đi lại khẩn cấp. Thấy Jeb bối rối, tôi giải thích thêm. "Một loại máy bay lên thẳng ấy mà."

Tiếng gầm của động cơ mỗi lúc một gần. "Nó đang ở ngay trên đầu chúng ta đây."Tôi nói tiếp.

– Tôi phải nhìn xem mặt mũi nó ra sao. -Jeb vớ lấy khẩu súng dựng bên tường và nhào ra sân.

Chúng tôi cũng nhìn ra theo. Chiếc trực thăng đang giảm tốc độ, chuẩn bị đáp xuống một bãi đất trống cạnh lều của Jeb. Hàng chữ POLICE màu đen, bóng láng trên thân máy bay khi nó dừng lại một thoáng trong không trung và từ từ hạ độ cao.

Cửa mở, hai người cảnh sát sắc phục tề chỉnh nhảy xuống. Viên phi công ngồi lại trong khoang lái. Những ngôi sao bạc trên cầu vai của họ lấp lánh trong ánh tà dương.

Jeb lên tiếng trước. "Chào ông cảnh sát trưởng."

Người cao lớn hơn tỏ vẻ ngạc nhiên.

– Thì ra anh ở đây.

– Còn ai vào đây nữa.

Viên cảnh sát trưởng cười, bước chỗ Jeb, chìa tay thẳng ra. "Rất vui được gặp anh ở đây, Jeb ạ."

Jeb gật đầu, bắt tay. "Chúng tôi vừa ăn chiều xong và đang uống cà phê. Mời ông vào nhà dùng với chúng tôi một ly."

– Cám ơn. - Gã quay sang viên tuỳ tùng. - Mọi chuyện ổn cả. Tôi sẽ quay lại ngay.

Nói đoạn gã theo chúng tôi vào lều. Lần này Betty May không ngồi cùng chúng tôi. Cô chỉ đặt ly cà phê xuống trước mặt cảnh sát trưởng. Gã nhấp một ngụm. "Cà phê ngon lắm, Betty May ạ."

Cô chỉ cười.

– Gặp anh ở đây tôi vui lắm. - Gã nói. - Chúng tôi nghe báo có người chiếm đất trái phép ở đây đã hơn một năm nay. Nhưng mãi đến tuần trước chúng tôi mới có được một chiếc trực thăng để thị sát địa bàn. Chúng tôi cũng rất ngạc nhiên không hiểu một năm qua anh biến đi đâu.

– Tôi trồng lúa mì ở đây, - Jeb đáp.

– Tôi thấy điều đó. Anh có gần ba acrơ lúa ở ngoài kia, - Gã bắn một cái nhìn xoi mói vào Jeb. - Dĩ nhiên anh phải có một hợp đồng thuê đất.

Jeb do dự nhìn tôi. Tôi gật đầu. "Đúng," anh ta đáp.

– Với một chủ nhân hợp pháp?

Lúc đó tôi mới lên tiếng. "Đúng thế."

Cảnh sát trưởng nhìn theo Jeb hoài nghi. "Đây là Jonathan Huggins", Jeb nói. "Con của Dan Lớn. Jonathan, đây là ông Clay, cảnh sát trưởng huyện Fitch."

Chúng tôi bắt tay nhau.

Cảnh sát trưởng gật đầu. "Thân phụ anh là người ở đây. Tất cả chúng tôi đều ngưỡng mộ ông. Xin có lời chia buồn với anh."

– Cám ơn ông cảnh sát trưởng, - tôi nói.

– Anh là chủ nhân hợp pháp?

– Phải. Ông biết điều đó. - Bỗng nhiên tôi hiểu rằng gã chẳng có cách gì biết được cả. - Giấy tờ nằm ở phòng quản lý đất đai huyện.

Gã hơi bối rối. "Dĩ nhiên rồi.”

– Ở Sentryville ấy, - tôi giải thích tiếp. - Vùng đất này thuộc quyền quản lý của huyện Sentry.

Cảnh sát trưởng gật đầu.

– Thị trấn ấy cách đây sáu mươi dặm, - tôi nói. - Ông tới đây điều tra giúp cảnh sát trưởng huyện này bởi vì ông ở gần hơn. Có phải thế không nhỉ?

–  Phải đấy, - gã đáp, không đắn đo gì.

Tôi nhoài người vớ khẩu súng của Jeb, đặt kịch lên bàn, chĩa thẳng họng súng vào ngực gã và gạt chốt an toàn ra. "Ông đã đột nhập trái phép vào trang trại của tôi, ông cảnh sát trưởng ạ. Tôi có thể nhấn cò khẩu súng này cưa đôi người ông ra mà chẳng một toà án nào luận tội tôi được cả. Ông không có quyền năng gì ở đây."

Gã nhìn khẩu súng-, mắt trắng dã ra. Betty May và Anne ngồi chết lặng. Chỉ có Jeb là từ từ đứng lên.

– Chớ có manh động, Jeb! - Tôi quát và nhìn thẳng vào cảnh sát trưởng. - Nào, giờ ông nói cho chúng tôi biết ông lên đây nhằm mục đích gì.

Gã nuốt khan. "Vợ Jeb yêu cầu chúng tôi truy cứu hành vi thông dâm giữa chồng cô ấy và Betty May."

– Lý do này không đủ mạnh để buộc ông phải nhảy ra ngoài địa bàn của mình. Ông nói lại xem.

Gã nín thinh.

– Phải chăng vì ba acrơ lúa mì, mảnh đồng xanh giữa một vùng đất hoang hoá mà ông trông thấy khi đi trên đường cao tốc?

Gã vẫn im lặng.

– Ở đấy có thể có vài người da đen đã nhảy dù xuống, chiếm đất trái phép. Ba acrơ lúa mì là một khoản tiền đáng kể. Ông là cảnh sát trưởng. Ông biết hạng người nào làm được chuyện này.

Một sự nể sợ xuất hiện trong mắt gã. "Anh đã nói đúng," gã công nhận. "Vùng đất này nằm ngoài phận sự của tôi."

Tôi nhấc khẩu súng dựng trả vào tường.

– Đó là chỗ sai lầm của ông, - tôi nói. - Vì ông và Jeb có một chuyện quan trọng cần nói với nhau, - tôi đứng lên. - Tôi và Anne sẽ ra ngoài để các ông tự nhiên.

Cảnh sát trưởng ngẩng nhìn tôi. "Qua những gì đã được nghe thây về thân phụ anh, tôi có thể nói rằng anh là một phiên bản của ông."

– Tôi chẳng có gì tương đồng với ông ta cả, - tôi đáp và bỏ ra.

Anne theo tôi. Tôi tựa lưng vào chiếc máy đánh đống rơm rạ và châm thuốc, một cho nàng và một cho tôi. "Chúng ta sẽ rời khỏi đây vào ngày mai," tôi nói. "Sau khi đã ươm xong hoa vào nghĩa trang."

– Chúng ta sẽ đi đâu, anh? - Nàng hỏi.

Tôi nhắm mắt lại và dõi một cái nhìn xuyên thời gian. "Đi tiếp về phương nam."

Nàng im lặng một lúc lâu. "Anh còn quay lại đây nữa không?"

– Anh sẽ ghé vào đây trên đường về nhà.

– Còn em sẽ trở về nhà vào ngày mai.

Thời gian của tôi quay trở lại điểm xuất phát. Tôi mở mắt ra và vật đầu tiên tôi trông thấy là chiếc trực thăng. Viên phi công đã rời khỏi buồng lái, đứng bên máy bay gẫu chuyện với tuỳ tùng của cảnh sát trưởng. Thảng hoặc hai người đá mắt sang chúng tôi. Tôi quay sang nhìn nàng.

– Em muốn cùng anh trở lại đây vào một ngày nào đó được không anh? - Mắt nàng đã bắt đầu rớm lệ.

– Em biết em có thể quay lại mà, - tôi đáp.

Nàng cầm lấy tay tôi và xiết thật chặt, "Ông cảnh sát trưởng nói đúng đấy. Anh là cha anh chứ chẳng ai khác."

– Ông cảnh sát trưởng đâu có nói như vậy.

– Em diễn đạt như vậy thôi.

Tôi không nói với nàng rằng đó cũng là điều mà cha tôi luôn đoan quyết với tôi.

–    Từ khi hai chúng ta đặt chân tới đây, anh đã hiểu thêm bao nhiêu điều về ông ta. Bởi thế mà anh không muốn quay về nhà. Anh không muốn biết thêm một cái gì nữa. Anh sợ những cái đó sẽ làm đầu anh nổ tung.

Tôi đưa bàn tay nàng lên môi và hôn.

– Anh không giận em chứ? - Nàng hỏi.

– Đâu có.

Vừa lúc đó Jeb và cảnh sát trưởng từ trong lều bước ra. Mặt Jeb tươi hơn hớn. "Ông cảnh sát trưởng và tôi đã thoả thuận được với nhau.”

– Tốt lắm, - tôi đáp.

– Sẽ không còn gì đáng ngại nữa cả, - anh ta nói tiếp.

– Anh có định ở lại đây không? - Cảnh sát trưởng hỏi tôi.

– Mai tôi phải đi.

Gã nheo mắt nhìn trời. Hoàng hôn đang xuống.

– Thế nhé. Anh nên quay lại thì tốt hơn. - Gã bảo Jeb. - Tôi chờ hai người trong thị trấn vào hôm thứ bảy và huỷ bỏ lệnh truy cứu hành vi thông dâm của anh.

– Cám ơn ông cảnh sát trưởng.

– Anh bao nhiêu tuổi rồi? - Gã quay sang tôi, hỏi.

– Mười bảy.

Gã gật.

– Khi anh chĩa nòng súng vào ngực tôi, tôi đã nghĩ như vậy. Mười bảy. Và sắc mặt của anh nữa. Hẳn thân phụ anh năm mươi năm về trước nom cũng y hệt khi ông bắn tan xác lão già Fitch ngay trong văn phòng của lão. Hồi ấy ông cũng mười bảy tuổi. Sau vụ đó, toà án xử ông hai năm cải tạo. Nhưng ông đã không chịu ngồi lâu. Chiến tranh bùng nổ, ông đăng lính và nhảy sang châu Âu chinh chiến. Hai mươi năm sau khi chiến tranh kết thúc ông mới trở lại Fitchville. Một ngày, người ta nhìn thấy ông ở sân ga, trên một chiếc ghế đẩy. Toàn thân ông tàn phế. Ông không đi đứng được. Có một người đàn bà đi cùng ông. Bà ta không phải là vợ ông. Bà mua một chiếc Dodge và chở ông ngược lên cái chốn đồi núi hoang sơ này. Những ngày sau đó, không ai còn bắt gặp ông trong thị trấn nữa. Chỉ có bà ấy là thỉnh thoảng xuống mua sắm. Mãi sáu tháng sau ông mới xuất hiện lại ở sân ga, hôn tạm biệt người đàn bà và bước lên một con tàu chạy về New York. Đấy cũng là lần cuối cùng người Fitchville được nhìn thấy ông trong thị trấn của mình.

– Thế còn người đàn bà?

– Bà ấy đợi cho đến khi tàu rời ga mới ngồi vào xe và rồ máy. Không ai biết bà ấy đi đâu.

– Ông đã bao giờ gặp cha tôi chưa?

– Chưa. Nhưng tôi có nghe bố tôi kể lại. Năm đó ông là cảnh sát trưởng mà. Ồ, tôi đã nghe kể chuyện thân phụ anh cả ngàn lần, bởi vì mỗi khi tên tuổi của thân phụ anh xuất hiện là bố tôi lại nói về ông. - Gã nhìn tôi. - Bố tôi rất tự hào về ông. Ông là một trong những đứa con của xứ sở này trở thành một nhân vật quan trọng của đất nước. - Gã lại nheo mắt nhìn trời và lần này thì chìa tay ra bắt, tạm biệt tôi. - Nếu anh quan tâm đến chuyện này, trong thư viện thị trấn còn lưu giữ nguyên vẹn tất cả các số của Tạp chí Fitchlille từ thời chiến tranh giữa các tiểu bang. Cần gì cứ gọi cho tôi nhé.

– Rất cám ơn ông, - tôi nói.

Chúng tôi nhìn chiếc trực thăng bay về chân trời phía tây. Khi tiếng động cơ đã tắt hẳn, cả ba mới quay vào lều.

Tôi cầm túi ngủ của tôi và Anne lên. "Hôm nay là một ngày mệt nhọc. Có lẽ chúng tôi nên để anh chị đi nghỉ sớm."

Bầu trời đỏ ối khi chúng tôi trải túi ngủ xuống đồng lúa mì.

– Em cứ nghĩ họ là một cặp vợ chồng hợp pháp, - Anne nói.

– Anh cũng vậy.

Nàng lặng lẽ quấn một điếu cần sa, châm lửa và trao cho tôi. Tôi rít vài hơi và nằm dài ra, cảm thấy toàn thân đê mê.

– Jonathan, - nàng cầm lấy điếu thuốc.

– Gì thế?

– Về nhà với em đi.

Tôi nhìn nàng qua màn khói thuốc.

– Anh không thể. Chưa đến lúc.

– Tại sao?

– Em cứ hỏi lại anh mỗi câu ấy, và anh cũng chỉ có một cách trả lời thôi: Anh không hiểu tại sao.

Nàng chuyển điếu thuốc cho tôi. Tôi chỉ rít một hơi rồi trao lại cho nàng và nằm nhìn trời. Nàng kết thúc điếu thuốc, dụi vào đất, đoạn cũng nằm xuống, kê đầu lên vai tôi.

– Em sẽ nhớ anh khủng khiếp.

Tôi không nói gì.

– Anh biết tìm em ở đâu. Em ngồi dưới mái hiên và nhìn sang nhà anh.

– Anh biết.

– Anh đừng đi lâu quá. Em muốn có anh khi tuổi đời còn xuân. Ôi, chúng ta khôn lớn nhanh quá.

Tôi đứng trước cửa lều nhìn chiếc máy đánh đống rơm rạ lăn bánh xuống đường mòn. Anne ngoài nhìn lại, giơ tay vẫy qua ô cửa sổ phía sau cabin. Tôi cũng đưa tay mình lên. Thế là nàng đi. Tôi cầm lấy gói đồ và lẳng nó qua vai. Gần mười một giờ rồi, trời đã nóng như rang. Chuyến xe buýt mười hai giờ ba mươi sẽ đưa nàng đến New York vào lúc năm giờ chiều; bảy giờ tối nàng đã có mặt ở nhà, nếu nàng kịp lên chuyến xe chạy lúc năm rưỡi ở Gand Sentral.

Tôi nhìn lên sườn đồi. Lối mòn ra đường cao tốc chạy qua nghĩa trang. Tôi dừng lại ở đấy một lát, nhìn những luống hoa vừa gieo.

– Đừng lo, Jonathan, - Betty May hứa. - Đã có tôi chăm bón và tưới nước hàng ngày. Chúng sẽ lớn nhanh như thổi đấy.

Tôi đưa mắt xuống túp lều của Jeb và Betty, tự hỏi không biết tôi còn quay lại đây nữa hay không. Rất có thể tôi sẽ có mặt ở một nơi khác.

– Đừng băn khoăn, con trai của ta. Con sẽ quay lại.

– Ông chắc thế à? Ông có quay lại bao giờ đâu.

– Ta đã quay lại một lần, Jonathan. Tay cảnh sát trưởng đã kể cho con nghe rồi đấy thôi.

– Nhưng ông có ở hẳn đâu.

– Con rồi cũng vậy.

– Thế thì quay lại để làm gì?

– Con sẽ phải quay lại. Vì một lý do y hệt của ta. Để làm cho bản thân con trở lại hoàn nguyên.

– Tôi không hiểu.

– Con sẽ quay lại, Jonathan ạ. Ngày ấy sẽ đến. Con quay lại vì đứa con của con.

– Đứa con của tôi ư?

– Phải. Vì một đứa con mà con chưa có. Bởi nó là phần duy nhất còn thiếu của con.